---------PHẦN DẪN NHẬP-------
DUY BIỂU
NGŨ THẬP TỤNG
Tụng đây có nghĩa là một bài kệ, tiếng
phạn là Karika. Ngũ thập tụng là năm mươi. Duy biểu
là tên mới của Duy Thức. Có hai tiếng Phạn có thể
dịch thành thức. Tiếng thứ nhất là vijnana, tiếng thứ hai
là vijnapti.
Tiền từ vi có nghĩa là phân biệt, xét đoán, nhận thức.
Bất cứ chữ nào có chữ vi ở đầu đều có nghĩa như vậy. Ví
dụ như tàng thức dịch là alayavijnana. Chữ thứ hai là
vijnapti có thể dịch là thức, cũng có thể dịch là
biểu. Chữ biểu có thể dịch là manifestations,
perceptions, announcing. Vijnapti. Cũng
có tiền từ vi nên cũng có nghĩa là phân biệt.
Perception là phân biệt. Thầy Huyền Trang (thế kỷ thứ
bảy) dịch vijnana là thức mà vijnapti cũng dịch là
thức. Nhưng bây giờ trong giới Phật học thích dịch vijnapti
là Biểu Biệt. Biệt này có nghĩa là phân biệt.
Vì là phân biệt nên dịch là perceptions. Biểu là biểu hiện cho
mình thấy. Ví dụ như cái giận của mình, nó luôn có hạt giống
trong tâm của mình, thức hay ngũ mình đều mang theo hạt giống đó
trong tâm, nhưng mà nó chưa biểu hiện. Chỉ khi nào có cơ hội, có
điều kiện thì mới đùng đùng nổi giận, nổi tam bành lục tặc lên.
Khi đó gọi là Biểu.
Khi mà vật chất hình tướng, biểu hiện ra rồi thì gọi làvijnaptirupa,
gọi là Biểu sắc. Sắc đây là màu sắc, hình dáng: form.
Sắc cũng có nghĩa là năng lượng: energy. Ví dụ khi
mình đẩy xe ba gác thì cái xe là sắc, mà con người đẩy xe cũng
là sắc, và sức lực, năng lượng cố gắng đẩy xe cũng là sắc. Mình
thấy rõ ràng ba cái: cái xe, thân thể mình và năng lượng đẩy xe
đều là sắc. Cái năng lượng có sẵn trong mình nên chưa đẩy xe nên
chưa thấy. Và khi mình đẩy xe thì thấy sức mạnh của chàng trai
hay cô gái đó. Khi nó biểu hiện cho mình thấy thì gọi nó là biểu
sắc (vijnaptirupa). Ví dụ sau khi mình thọ nhận
giới đặc biệt các giới lớn hoặc Tiếp Hiện. Trước một đại
chúng đông đảo với hội đồng truyền giới, vừa thọ xong giới mình
thấy một nguồn năng lượng lớn trong mình, mình biết là có giới
thể, bắt đầu trở thành một người khác, không phải là khác hẳn
nhưng mình biết có một nguồn năng lượng mới ở trong. Hay là mới
thọ giới Sa di ni, mình mới cạo đầu, có mười giới, thì
trở thành người xuất gia, và có một nguồn năng lượng dồi dào,
nguồn năng lượng của sơ tâm (beginner’s mind) mạnh lắm. Nhìn vào
con mắt mình ai cũng thấy sáng ra. Cái dáng đi mình cũng vậy,
đôi khi nó biểu hiện. Người ta thấy được nguồn năng lượng trong
người mới thọ giới. Đó gọi là Giới thể.
Nhưng khi giới tử ngủ, người ta không thấy được nguồn năng lượng
đó nhưng mà nó có. Sau khi thọ giới, giới thể trong con người
mình là năng lượng. Nó là sắc nhưng không phải là biểu sắc mà là
Vô biểu sắc. Cái sơ tâm của người mới tu học rất
là mạnh. Khi mình có Bồ Đề tâm là có nó rồi. Quý thầy hay
dùng cái giới thể để ví dụ về Vô biểu sắc. Còn khi người con
trai hay người con gái bị tiếng sét của tình yêu thì trong lòng
mình cũng có một khối nội kết, cái đó cũng là Vô biểu sắc. Đi
đứng nằm ngồi gì cũng bị cái đó điều khiển, ngủ không được ăn
không được. Đó cũng là một loại Vô biêu sắc. Nhưng nó động và
mất an lạc nhiều hơn là Vô biểu sắc về giới thể. Một thọ giới
thì có giới thể là một loại Vô biểu sắc, làm cho mình ngày thêm
vững vàng an ổn, mạnh khỏe, còn năng lượng của tiếng sét ái tình
thì ngược lại.
Trong truyện Kiều khi nói về Thúy Kiều cụ Nguyễn Du nói rằng:
“Đã mang lấy một chữ tình,
Khăng khăng mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy nên những chốn thong dong,
Ở không an ổn, ngồi không vững vàng”.
Trong khi đó Vô biểu sắc của giới thể làm cho mình yên ổn vững
vàng hơn. Cho nên một bên thì:
Chỉ đi trên những lối có chánh niệm không thôi. Thức như vậy là
một loại Sắc chứ không hẳn chỉ là Tâm thôi. Vì vậy nếu có người
nghĩ Thức chỉ là Tâm thôi mà Tâm thì không thể là Sắc và nghĩ
lầm Duy Thức là Duy Tâm là rất sai.
Thức là năng lượng và có nhiều thứ năng lượng. Có những năng
lượng biểu hiện ra ngoài và mình thấy được, có những năng lượng
chưa biểu hiện và mình chưa thấy. Khi nó phát hiện ra rồi mình
thấy nhiều cái rất hay và nhiều cái rất không hay. Mình có thể
tiếp xúc với thức bằng hai cách. Mình tiếp xúc với nó khi nó
được biểu hiện và mình cũng tiếp xúc với nó khi nó chưa biểu
hiện, vì mình biết nó có nhưng nó chưa biểu hiện thôi. Ví dụ như
khi mình có một người bạn đang có niềm lo lắng. Có thể người bạn
đó đang dấu niềm lo lắng đó. Nhưng cái niềm lo lắng đó thế nào
cũng biểu hiện một phần trên mặt người đó và khi mình tiếp xúc
với người đó bằng chánh niệm thế nào mình cũng thấy được dù
người kia nói “Không, có sao đâu, em không có vấn đề gì hết”.
Nhưng mà mình tiếp xúc được với niềm đau đó trong ánh mắt và
mình biết ngay và khéo léo giúp đỡ. Nhưng có khi người đó giấu
rất khéo và mình thì không chánh niệm lắm nên mình không thấy gì
hết, thì thức cũng vậy. Có khi thức biểu hiện thấy được tiếp xúc
được, có khi thức không biểu hiện, thành ra chữ biểu hiện rất
hay tại vì thức có khả năng phân biệt, khả năng nhận thức gọi là
perception.
Tiếng Việt là Biệt và khả năng biểu hiện ra manifestation,
gọi là Biểu. Thức biểu hiện nhiều cái rất ngộ nghĩnh. Sông núi
là biểu hiện của thức. Một nền dân chủ là biểu hiện của thức.
Thị trường chứng khoán ở NewYork, Paris, London đều là biểu hiện
của thức. Tăng thân tu học ở Làng Hồng cũng là biểu hiện của
thức, chiến tranh ở Yougoslavia cũng là biểu hiện của thức. Tại
vì tâm của mình nó biểu hiện ra nhiều cái rất mầu nhiệm nhưng
cũng biểu hiện và kéo mình đi vào những đường rất là đau khổ.
Thức của mình, cái vijnaption phải dịch là Biểu Biệt là nó vừa
là biểu hiện vừa có khả năng nhận thức. Vì nó có khả năng nhận
thức nên thầy Huyền Trang dịch là Thức. Và nếu
dịch như vậy là đánh mất phần biểu hiện. Vì vậy các nhà học Phật
sau này dịch là Duy Biểu để nắm lại phần thiếu đó. Trong
Duy Thức Ba Mươi Bài Tụng đó, chữ vinaption
này được dùng tới năm lần mà chữ vijnana chỉ
được dùng có một lần mà thôi.
Duy có nghĩa là chỉ có nó mà thôi. Vijanavada vijna
- namatra. Chỉ có thức. Thầy Thế Thân
(Vasubandhu) tác giả Duy Thức Tam Thập Tụng đã dùng chữ
vijnaptimatrata hình như đến năm lần và chỉ một lần
vijnaptimatrata thôi. Vì vậy cho đến khi thầy Thế Thân
mình thấy rõ rằng Thầy để ý tới khía cạnh Biểu. Chỉ có sự biểu
hiện của Thức thôi. Vì vậy bây giờ ta dùng chữ Duy Biểu cho nó
gần với tinh thần nguyên bản.
Trong tác phẩm Ba Mươi Bài Tụng Duy Thức có câu như vầy
“Thức nó biểu hiện làm hai phần: phân biệt và bị phân biệt”,
dịch là consciousness manifest itself into knowing and known.
Thức biểu hiện ra làm hai phần: phần chủ thể nhận thức và phần
đối tượng nhận thức. Consiousness manifestes itself in two part:
the knower and the known. “Thị chư thức chuyển biến, phân
biệt sở phân biệt”. Và vì vậy cho nên cả phần
phân biệt và phần bị phân biệt đều từ thức mà ra cả. Vì vậy cho
nên mới có câu “Chỉ có thức: Duy Thức” là vậy.
Ví dụ như mình nhìn ngọn núi Alpes, mình biết núi Alpes là đối
tượng của tri giác, đối tượng của nhận thức. Cố nhiên khi có đối
tượng thì phải có chủ thể của thức và hai cái đều là thức cả. Vì
vậy mà điều ta muốn nói ở đây thì chư thức chuyển biến, phân
biệt sở phân biệt cái thức đó nó chuyển biến thành hai phần là
phân biệt và bị phân biệt. đó là ý nghĩ của chữ Biểu. Biểu hiện
ra thành chủ thể phân biệt và đối tượng phân biệt. The subject
of knowing and the object of knowing and both subject and object
belong to consciousness. (Cố nhất thiết duy thức). Vì vậy cho
nên tất cả chỉ là thức, chỉ có biểu biệt. cho nên cái tên gọi
của tác phẩm là Vijnaptimatrata có nghĩa là Duy biểu
tụng. (biểu này là biểu biệt).
Tôi vừa nói tác phẩm Năm Mươi Bài Tụng là mới mà cũ. Tại
vì Năm Mươi Bài Tụng này trình bày một cách mới nhưng toàn dùng
những chất liệu cũ. Trước hết nó gồm tác phẩm Duy Biểu Ba Mươi
Bài Tụng gọi là Duy Biểu Tam Thập Tụng ngày trước gọi là Duy
Thức Tam Thập Tụng. Cách đây tôi có dịch tác phẩm này ra tiếng
Việt căn cứ trên bản chữ Hán và cùng căn cứ trên bản tiếng Phạn
mà một vị giáo sư ở Âu Châu (Sylvain Levy) đã phát kiến ra được
ở Nepal cách đây khoảng năm sáu mươi năm. Cho nên mình có dịp so
sánh bản chữ Hán của thầy Huyền Trang dịch và bản chữ
Phạn mà ngày xưa thầy Huyền Trang đã sử dụng để dịch ra Hán văn.
Cách đây ba năm tại Làng Hồng mình có học bản đó. Tác phẩm này
của thầy Thế Thân (Vasubandhu từ 320-400).
Trong khi đại chúng học Năm Mươi Bài Tụng thì sẽ trực tiếp tiếp
xúc với Ba Mươi Bài Tụng của Thầy Thế Thân. Tác phẩm này
được căn cứ trên cả bản tiếng Hán và bản tiếng Phạn mà còn được
căn cứ trên những lời chú giải của một nhà Duy Thức Học nổi
tiếng của Ấn Độ ngày xưa là Thầy An Huệ (Sthirmati)
bản chú giải của thầy An Huệ, bằng tiếng Phạn cũng
được giáo sư đó tìm ra ở Nepal và đã được dịch ra tiếng Pháp và
tiếng Quan Thoại ấn hành ở Hồng Kông.
Bản chữ Hán cũng được Thầy Huyền Trang chú giải, Thầy
dịch và chú giải nhưng Thầy chú giải ngộ lắm. Thầy dùng hết tất
cả những tài liệu mà Thầy đã tu tập được từ bên Ấn Độ ở
Nalanda. Nơi đây Thầy đã được học với Thầy Giới Hiền
(Silabhadra) và Thầy Hộ Pháp và hai trong mười vị
luận sư về Duy Thức giỏi nhất của Phật giáo Ấn Độ thời đó (Thập
vị luận sư). Trong khi thầy Huyền Trang cư trú và học hỏi
Nalanda, phía Bắc thành Vương Xá một trường Đại Học Phật Giáo
nổi tiếng ở Bắc Ấn vào thế kỷ thức VI, thứ VII… Thầy thu thập và
đem về Trung Hoa tất cả những kiến thức và ý kiến của mười vị
luận sư đó và Thầy cho hết vào trong bản chú giải của Thầy. Bộ
sách chú giải đó tên là Thành Duy Thức Luận của Huyền
Trang (600-664).
Thầy Huyền Trang cũng không thọ lắm vì làm việc nhiều
quá, Thầy đem vào trong Thành Duy Thức Luận, một tác phẩm
tập đại thành, tất cả những ý kiến của mười vị luận sư trong đó
Thầy dạy trực tiếp của thầy Huyền Trang là Giới Hiền
và Thầy đi trước đó là Hộ Pháp. Đó là ý kiến của
nhiều vị luận sư. Khi mà chúng ta học Duy Thức Tam Thập Tụng thì
ta cần có bản chú giải của thầy An Huệ, hiện đã được dịch
ra tiếng Quan Thoại và tiếng Pháp. Chúng ta sử dụng được Thành
Duy Thức Luận của thầy Huyền Trang bằng tiếng Hán và
tiếng Anh do một học giả người Hương Cảng. Trong khi học Ngũ
Thập Duy Biểu Luận ta sẽ được tiếp xúc với một tác phẩm của Thầy
Vô Trước (Vasubandhu). Hai người đều đã
xuất gia và cả hai người đều là tay cự phách của Tăng đoàn.
Khi ta học Năm Mươi Bài Tụng Duy Biểu thì chúng ta sẽ cùng được
tiếp xúc với một tác phẩm rất nổi tiếng của Thầy Vô Trước
tên là Nhiếp Đại Thừa Luận (Mahayanasangrahasastra).
Tại vì người em đã sử dụng những tài liệu trong tác phẩm
Nhiếp Đại Thừa Luận của người anh. Nhiếp Đại Thừa Luận là
một bộ phận thâu nhiếp được, bao hàm hết, quy nhiếp, chứa đựng
tất cả tinh nghĩa của giáo lý Đại Thừa và tư tưởng duy thức
trong này rất căn bản. Khi học tác phẩm Duy Thức Tam Thập Tụng
của Thầy Thế Thân ta cứ nghĩ Thầy Thế Thân là Tổ
của Duy Thức, là quan trọng nhất trong Duy Thức nhưng ta không
biết anh của thầy Thế Thân là Thầy Vô Trước cũng
đã làm cô động tư tưởng duy thức rất công phu trong tác phẩm
Nhiếp Đại Thừa Luận.
Ta sẽ được học chương thứ hai của tác phẩm này gọi là chương
Sở Tri Y. Chưa có bản dịch tiếng Việt. Ta sẽ vừa học vừa
dịch tác phẩm của Thầy An Huệ tên là Tam Thập Tụng Chú.
Ta có bản tiếng Pháp và tiếng Quan Thoại. Trong khi học năm mươi
bài Duy Biểu ta cũng được học một tác phẩm khác của Thầy
Huyền Trang là Bát Thức Quy Củ Tụng (những bài tụng
quy cũ, mẫu mực của tám thức) và Duy Thức của Bát Thức Quy Củ
này có thể gọi là Duy Thức Mới. Tại vì khi Thầy Huyền Trang
qua Ấn Độ và học Duy Thức của Thầy Vô Trước và Thầy
Thế Thân thì Thầy cũng được tiếp xúc với học phái của
Thầy Trần Na (Dinangha, 400-480).
Thầy Trần Na rất giỏi về luận lý học. Vì vậy nên Duy Thức
của Bát Thức Quy Củ có màu sắc của luận lý học
(logic) và của nhận thức luận (epistemology).
Nhận thức luận đặt vấn đề là ta có thể đạt tới sự hiểu biết về
thực tại hay không? Nếu nói rằng trí óc chúng ta không thể đi
tới trực tiếp thực tại thì đó là chủ trương “bất khả tri
luận” (angosticism). Vấn đề của nhận thức luận
là trí óc con người có thể đạt tới chân lý tuyệt đối của thực
tại hay không? Có chủ thuyết nói là không được. Đó là chủ trương
của trường phái Bất Khả Tri Luận. Giờ đây khi học Duy
Thức sẽ biết Duy Thức chủ trương như thế nào. Khi học
Năm Mươi Bài Duy Biểu ta cũng sẽ được tiếp xúc với một
tác phẩm của Thầy Pháp Tạng (Thầy này chuyên môn về Giáo
Lý Hoa Nghiêm) tên là Hoa Nghiêm Luận Huyền Nghĩa.
Thời đại của Thầy Vô Trước trong đó Duy Thức chưa được
gọi là thực sự Đại thừa, chưa phải là Đại thừa tuyệt đối. Thầy
Thế Thân là tác giả của tác phẩm quan trọng
Abhidarmakosasastra (Câu Xá Luận) thu tóm tất
cả những tinh nghĩa của luận tạng Tiểu thừa, luận tạng của phái
Thuyết Nhất Hữu Bộ (Sarvativada). Hồi đó
trung tâm Cashimare là một trung tâm phồn thịnh của
Hữu Bộ. Người nào không thuộc về Hữu Bộ, không thuộc
về phái Sarvastivada thì không được theo học
trường học đó. Thầy Thế Thân không có căn cước của Hữu
Bộ nên không được theo học. Nhưng Thầy đã giả trang để được
theo học, học với tư cách của một người tự do và Thầy có nhiều
kiến thức về những tông phái khác trong đó có tông phái Kinh
Lượng Bộ (Sauntantrika). Sau thời gian tham
học ở Cashmire Thầy sáng tác A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận.
(Abhidharmakosasastra). Khi tác phẩm được công bố
thì Cashmire rất sung sướng nghĩ rằng có một người có khả
năng trình bày tất cả những giáo nghĩa của Hữu Bộ rất
thông minh, đẹp đẽ. Nhưng người ta không ngờ trong khi đó Thầy
Thế Thân đã đưa vào những ý kiến của các bộ phái khác
nhất là của Kinh Lượng Bộ. Nhưng hồi này Thầy Thế Thân
vẫn còn xương minh A Tỳ Đạt Ma và giáo lý của Tiểu
Thừa trong khi đó người anh đã theo giáo lý Đại thừa rồi.
Nhưng sau đó từ từ Thầy Thế Thân khám phá được cái hay
của Đại thừa. Nghe nói đêm đó trong khi Thầy Thế Thân
đang đi thiền hành, trời rất trong, trăng rất đẹp. Hoa nở
rất thơm. Thầy thấy Thầy Vô Trước đang ngắm trăng và đang
đọc bài kệ và khi mà thầy nghe được bài kệ đó, đang trong khung
cảnh đó thì Thầy rất cảm động và bắt đầu hiểu được chân nghĩa
của Đại Thừa. Từ đó Thầy sáng tác những tác phẩm về
Duy Thức.
Trước tiên là Hai Mươi Bài Tụng Duy Thức rồi sau đó Ba
Mươi Bài Tụng Duy Thức. Vì thế Duy Thức của Thầy Thế Thân
được sinh đẻ từ tác phẩm A Tỳ Đạt Ma Câu Xá của Tiểu
Thừa. Nó là Đại Thừa nhưng chưa đạt tới Đại Thừa Tuyệt Đối. Nó
là một đứa bé bụ bẩm mạnh khỏe nhưng chưa được lớn hết những tầm
vóc của nó. Vì vậy cho nên một hai trăm năm về sau người ta vẫn
coi Duy Thức là Đại Thừa. Nó là Đại Thừa nhưng chưa là đại
thừa đúng mức. Gọi tạm là Quyền Thừa nhưng chưa
là Đại Thừa thật.
Sang đến Trung Hoa, thầy Pháp Tạng sinh sau đẻ muộn hơn
Thầy Huyền Trang. Thầy Pháp Tạng chuyên về hệ
thống Hoa Nghiêm, Thầy thấy giáo lý Duy Thức quá quan
trọng và vì vậy Thầy muốn tuyệt đối Đại Thừa hóa Duy Thức, đem
giáo lý Hoa Nghiêm bổ túc cho Duy Thức, đưa Duy Thức tới Viên
Giáo tức là Đại thừa tuyệt đối: Tiểu Thừa - Quyền Thừa - Đại
Thừa Tuyệt Đối - Viên Giáo. Vì vậy trong Hoa Nghiêm Huyền
Nghĩa Thầy đề nghị đưa tư tưởng “một là tất cả, tất cả
là một” đi vào trong Duy Thức. Nhưng tiếng kêu gọi của
Thầy không được kết quả nhiều vì cả ngàn năm về sau người ta vẫn
học Duy Thức Tam Thập Tụng như vậy. Và người ta không đưa những
đề nghị của Thầy và Pháp Tạng đi vào.
Từ thế kỷ thứ bảy đến thế kỷ thứ hai mươi người ta vẫn học Duy
Thức của Thầy Thế Thân, của Thầy Huyền Trang và
của Thầy Khuy Cơ (một đệ tử của Thầy Huyền Trang rất giỏi
Duy Thức) y chang như vậy thôi. Không ai theo dõi sự nghiệp của
Thầy Pháp Tạng cả nghĩa là đưa giáo lý Hoa Nghiêm
đi vào trong Duy Thức trở thành Viên Giáo.
Cuối thế kỷ thứ hai mươi mới có Thầy Nhất Hạnh. Thầy viết
Năm Mươi Bài Tụng là Duy Thức Viên Giáo.
Trong khóa mùa đông này, nếu mà Thầy trò mình có phước thì mình
sẽ học Duy Thức Tam Thập Tụng, một ít Thành Duy Thức
Luận, một ít Nhiếp Đại Thừa Luận. Tam Thập Tụng Chú
của Thầy An Huệ mình sẽ học Bát Thức Quy Củ Tụng
và một ít của Hoa Nghiêm Huyền Nghĩa của Thầy Pháp
Tạng. Sở dĩ mình được tiếp xúc với tất cả những bộ luận của
Đại Thừa là vì lý do trong Năm Mươi Bài Tụng Duy Biểu
Thầy Nhất Hạnh đã sử dụng tất cả những tài liệu của tất
cả những bộ luận này. Mong muốn học như vậy nhưng học được bao
nhiêu thì còn tùy theo cái phước của đại chúng.
Năm Mươi Bài Tụng Duy Biểu này có tính cách thực dụng. Từ đây ta
có thể sử dụng năm mươi bài tụng này để giúp cho sự thực tập tu
học của ta và của những người khác. Tại vì trong quá khứ có
nhiều người học Duy Thức nhưng kiến thức về Duy Thức của họ có
tính cách lý thuyết và khó đem ra thực hành. Trong khi những bài
học này rất là thực tế. Ta có áp dụng chúng, đem chúng ra tu tập
hàng ngày trong mọi sinh hoạt của chúng ta vào trong sự xây dựng
Tăng thân, trong sự chuyển hóa nội tâm và trị liệu những chứng
bệnh tâm thần của con người. Vì vậy tôi rất mong là năm mươi bài
tụng này đóng được vài trò của chúng trong lịch sử. Tại vì tôi
đã từng gặp nhiều vị học Duy Thức rất kỹ, nói về Duy Thức rất
lưu loất nhưng khi được hỏi cái kiến thức đó có dính dáng gfi
đến đời sống hằng ngày hay không thì người đó mỉm cười chịu
thua. Hình như họ học để nói vậy thôi, không thấy áp dụng được
gì vào đời sống thực tế của họ.
Một trong những ý niệm nằm sâu trong lòng tác giả là Năm Mươi
Bài Tụng Duy Biểu này sẽ có thể được sử dụng như là một dụng cụ
để chuyển hóa nội tâm, hướng dẫn sự tu tập hằng ngày, xây dựng
Tăng thân và trị liệu những khổ đau, những chứng bệnh về tâm
thần. Và sau này khi ta mở khóa tu cho những hà tâm lý trị liệu
ta có thể sử dụng Năm Mươi Bài Tụng này làm căn bản. Ngày xưa
tôi đã học Ba Mươi Bài Tụng Duy Thức hay Hai Mươi Bài Tụng Duy
Thức hay Bát Thức Quy Cũ Tụng, chúng tôi đều học thuộc lòng hết.
Tất cả tên của tâm sở tâm vương đều phải học thuộc lòng hết.
Thành ra sau này có lẽ quý vị phải học thuộc lòng Năm Mươi Bài
Tụng để đem ra áp dụng vào đời sống hằng ngày. Điều này dễ. Học
thuộc lòng thì dễ, chỉ có hiểu và áp dụng mới khó thôi.
---o0o---
Mục Lục |
01 |
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10
---o0o---