--- o0o ---
NGHI THỨC
LỄ VU-LAN BỒN
__________
NIỆM HƯƠNG LỄ BÁI
(Thắp đèn đốt hương trầm
xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm)
TỊNH PHÁP-GIỚI CHƠN-NGÔN:
Án lam
xóa ha. (3 lần)
TỊNH TAM-NGHIỆP CHƠN-NGÔN:
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ,
đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)
(Chủ
lễ thắp ba cây hương quỳ ngay thẳng cầm hương ngang trán niệm bài cúng
hương)
CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT
Nguyện thử diệu hương vân,
Biến mãn thập phương giới,
Cúng-dường nhứt-thế Phật,
Tôn pháp chư Bồ tát,
Vô biên Thanh văn chúng,
Cập nhứt thế Thánh-Hiền,
Duyên khởi quang minh đài,
Xứng tánh tác Phật-sự,
Phổ huân chư chúng-sanh,
Giai phát Bồ-Ðề tâm,
Viễn-ly chư vọng-nghiệp,
Viên-thành vô-thượng đạo.
KỆ TÁN-DƯƠNG PHẬT-BẢO
Pháp vương vô-thượng tôn
Tam-giới vô luân thất
Thiên nhơn chi Ðạo-sư
Tứ-sanh chi từ-phụ
Ư nhứt niệm quy-y
Năng diệt tam-kỳ nghiệp
Xưng dương nhược tán-thán
Ức kiếp mạc năng tận.
__________
KỲ NGUYỆN
Nay
chính vào mùa Vu Lan Báo Hiếu cứu độ sanh linh, chúng con một dạ chí thành
cúng dường trì tụng kinh Vu Lan Bồn. Nguyện đem công đức này hướng về mười
phương ba ngôi Tam Bảo, đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đức Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di
Ðà Phật, cùng các vị Bồ Tát, tịnh đức chúng Tăng, từ bi gia hộ cho cửu
huyền thất tổ cha mẹ nhiều đời của đệ tử chúng con cùng tất cả chúng sanh
sớm rõ đường lành thoát vòng mê muội ra khỏi u đồ siêu sanh Lạc quốc.
Ngưỡng mong oai đức vô cùng xót thương tiếp độ.
Nam-mô Thập phương thường trú Tam Bảo.
__________
QUÁN TƯỞNG
Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,
Ngã thử đạo tràng như Ðế-châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện
trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ. (1
xá)
- Chí tâm đảnh lễ:
Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư
Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trú Tam-Bảo. (1 lạy)
- Chí tâm đảnh lễ:
Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh
Di-Lặc Tôn Phật, Ðại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát,
Hộ-Pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)
-
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Ðại-từ Ðại-bi A-Di-Ðà
Phật, Ðại bi Quán-Thế-AÂm Bồ-tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-tát, Ðại-nguyện
Ðịa-Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát. (1 lạy)
(Ðứng ngay, vô chuông mõ và đồng tụng)
TÁN LƯ-HƯƠNG
Lư
hương sạ nhiệt,
Pháp
giới mông huân,
Chư
Phật hải hội tất diêu văn,
Tùy xứ
kiết tường vân,
Thành
ý phương ân,
Chư
Phật hiện toàn thân.
Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-tát ma-ha-tát. (3 lần)
CHÚ ÐẠI-BI
Nam-mô Ðại-Bi Hội-Thượng Phật Bồ-Tát.
(3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô
ngại đại-bi tâm đà-la-ni.
Nam-mô hắc ra đát na, đa
ra dạ da.
Nam-mô a rị da, bà lô
yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha
ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa.
Nam-mô tất kiết lật đỏa
y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.
Nam-mô na ra cẩn trì hê
rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát
đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế,
ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê
ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma
ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ
mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra
xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê
rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ,
bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà
ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn
ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng
a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a
tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn
đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước
bàng ra dạ, ta bà ha.
Án tất điện
đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)
Nam-mô Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật.
(3 lần)
KHAI KINH KỆ
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá
thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
Ngã
kim kiến văn đắc thọ trì,
Nguyện
giải Như-Lai chơn thiệt nghĩa.
PHẬT NÓI
KINH
VU-LAN BỒN
__________
TA TỪNG NGHE LỜI TẠC NHƯ
VẦY:
Một thuở nọ Thế-Tôn
an-trụ,
Xá-Vệ thành Kỳ-Thụ viên
trung,
Mục-Liên mới đặng
lục-thông,
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng
trầm-luân.
Công dưỡng-dục thâm-ân dốc
trả,
Nghĩa sanh thành đạo cả
mong đền,
Làm con hiếu-hạnh vi tiên,
Bèn dùng huệ-nhãn dưới
trên kiếm tầm.
Thấy vong-mẫu sanh làm
ngạ-quỉ,
Không uống ăn tiều-tụy
hình-hài.
Mục-Liên thấy vậy bi-ai,
Biết mẹ đói khát ai-hoài
tình thâm.
Lo phẩm-vậy đem dâng
từ-mẫu,
Ðặng đỡ lòng cực khổ bấy
lâu.
Thấy cơm, mẹ rất lo âu,
Tay tả che đậy, hữu hầu
bốc ăn.
Lòng bỏn xẻn tiền-căn chưa
dứt,
Sợ chúng ma cướp giựt của
bà.
Cơm đưa chưa tới miệng đà,
Hóa thành than lửa nuốt mà
đặng đâu,
Thấy như vậy âu-sầu
thê-thảm,
Mục-Kiền-Liên bi cảm xót
thương,
Mau mau về đến
giảng-đường,
Bạch cùng Sư-phụ tìm
phương giải-nàn.
Phật mới bảo rõ-ràng
căn-cội,
Rằng mẹ ông gốc tội rất
sâu.
Dầu ông thần lực
nhiệm-mầu,
Một mình không thể ai cầu
được đâu.
Lòng hiếu thảo của ông dầu
lớn,
Tiếng vang đồn thấu đến
Cửu Thiên.
Cùng là các bực Thần-kỳ,
Tà, ma ngoại-đạo, bốn vì
Thiên-Vương,
Cộng ba cõi sáu phương
tu-tập,
Cũng không phương cứu-tế
mẹ ngươi.
Muốn cho cứu đặng mạng
người.
Phải nhờ thần-lực của mười
phương Tăng.
Pháp cứu-tế Ta toan giải
nói,
Cho mọi người thoát khỏi
ách-nàn,
Bèn kêu Mục-thị đến gần,
Truyền cho diệu-pháp ân
cần thiết thi,
Rằm tháng bảy là ngày
Tự-tứ,
Mười phương Tăng đều dự lễ
này,
Phải toan sắm-sửa chớ
chầy,
Ðồ ăn trăm món trái cây
năm màu.
Lại phải sắm giường nằm
nệm lót,
Cùng thau, bồn, đèn đuốc,
nhang dầu,
Món ăn tinh-sạch báu mầu,
Ðựng trong bình-bát
vọng-cầu kính dâng,
Chư Ðại-đức mười phương
thọ-thực,
Trong bảy đời sẽ đặng siêu
thăng.
Lại thêm cha mẹ hiện-tiền,
Ðặng nhờ phước lực
tiêu-khiên ách-nàn.
Vì ngày ấy Thánh-tăng đều
đủ,
Dầu ở đâu cũng tụ hội về.
Như người Thiền định
Sơn-khê,
Tránh điều phiền-não chăm
về thiền-na,
Hoặc người đặng bốn tòa
đạo quả,
Công tu hành-nguyện thỏa
vô-Sanh,
Hoặc người thọ hạ
kinh-hành,
Chẳng ham quyền-quí ẩn
danh lâm-tòng,
Hoặc người đặng lục-thông
tấn-phát,
Và những hàng Duyên-giác,
Thanh-văn,
Hoặc chư Bồ-tát mười
phương,
Hiện hình làm sãi ở gần
chúng-sanh,
Ðều trì giới rất thanh,
rất tịnh,
Ðạo-đức dày chánh-định
chơn-tâm,
Tất cả các bực Thánh,
Phàm,
Ðồng lòng thọ lãnh bát-cơm
lục-hòa,
Người nào có sắm ra vật
thực,
Ðặng cúng-dường Tự-tứ Tăng
thời,
Hiện-tiền phụ mẫu của
người,
Bà con quyến-thuộc thảy
đều nhờ ơn,
Tam-đồ khổ chắc rằng ra
khỏi,
Cảnh thanh nhàn hưởng-thọ
tự-nhiên.
Như còn cha mẹ hiện-tiền.
Nhờ đó cũng đặng bá niên
thọ-trường,
Như cha me bảy đời
quá-vãng,
Sẽ hóa sanh về cõi thiên
cung,
Người thời tuấn-tú
hình-dung,
Hào-quang chiếu sáng khắp
cùng châu-thân,
Phật dạy bảo mười phương
Tăng-chúng,
Phải tuân theo thể-thức
sau nầy:
Trước khi thọ thực đàn
chay,
Phải cầu chú nguyện cho
người tín-gia.
Cầu thất-thế mẹ cha
thí-chủ,
Ðịnh tâm-thần quán đủ đừng
quên,
Cho xong định ý
hành-thiền,
Mới dùng phẩm-vật đàn tiền
hiến dưng.
Khi thọ-dụng, nên an
vật-thực,
Trước Phật-đài hoặc tự
tháp trung:
Chư Tăng chú nguyện viên
dung,
Sau rồi tự tiện thọ dùng
bữa trưa,
Pháp cứu tế Phật vừa nói
dứt,
Mục-Liên cùng Bồ-tát chư
Tăng,
Ðồng nhau tỏ dạ vui mừng,
Mục-Liên cũng hết khóc
thương rầu buồn,
Mục-Liên Mẫu cũng trong
ngày ấy,
Kiếp khổ về ngạ-quỉ được
tan,
Mục-Liên bạch với Phật
rằng:
Mẹ con nhờ sức Thánh-Tăng
khỏi nàn,
Lại cũng nhờ oai thần
Tam-Bảo,
Bằng chẳng thì nạn khổ khó
ra
Như sau đệ-tử xuất-gia,
Vu-Lan-Bồn pháp dùng mà độ
sanh.
Ðộ cha mẹ còn đương tại
thế,
Hoặc bảy đời có thể đặng
không?
Phật rằng: lời hỏi rất
thông,
Ta vừa muốn nói con vùng
hỏi theo,
Thiện-nam tử, tỳ-kheo
nam-nữ,
Cùng Quốc-vương, Thái-tử,
Ðại-thần,
Tam-công, tể-tướng,
bá-quan,
Cùng hàng lê-thứ vạn dân
cõi trần,
Như chí muốn đền ơn cha
mẹ,
Hiện-tại cùng thất-thế
tình thâm,
Ðến rằm tháng bảy mỗi năm,
Sau khi kiết-hạ chư Tăng
tựu về,
Chính ngày ấy Phật, đã
hoan-hỷ,
Phải sắm sanh bá vị cơm
canh,
Ðựng trong bình-bát tinh
anh,
Chờ giờ Tự-tứ chúng Tăng
cúng-dường,
Ðặng cầu-nguyện song-đường
trường-thọ,
Chẳng ốm đau cũng chẳng
khổ chi,
Cùng cầu thất-thế đồng
thì,
Lìa nơi ngạ-quỉ sanh về
nhơn, thiên,
Ðặng hưởng phước nhân
duyên vui đẹp.
Lại xa lìa nạn khổ cực
thân,
Môn-sanh Phật-tử ân cần,
Hạnh tu hiếu-thuận phải
cần phải chuyên.
Thường cầu nguyện
thung-huyên an-hảo,
Cùng bảy đời phụ-mẫu
siêu-sanh
Ngày rằm tháng bảy mỗi
năm,
Vì lòng hiếu-thảo ơn-thâm
phải đền.
Lễ cứu-tế chí-thành sắp
đặt,
Ngõ cúng-dường chư Phật
chư Tăng.
Ấy là báo đáp, thù ân,
Sanh-thành dưỡng-dục
song-thân buổi đầu,
Ðệ-tử Phật, lo âu gìn-giữ,
Mới phải là Thích-tử
Thiền-môn,
Vừa nghe dứt pháp Lan-Bồn,
Môn sanh tứ-chúng thảy
đồng hỷ-hoan,
Mục-Liên với bốn ban
Phật-tử,
Nguyện một lòng tín-sự
phụng-hành,
Nam-mô Ðại hiếu Mục
Kiền Liên Bồ-tát. (3 lần)
PHẬT NÓI
KINH
ÐẠI BÁO
PHỤ MẪU TRỌNG ÂN
__________
Một thuở nọ Thế-Tôn an-trụ
Xá-vệ thành kỳ-thụ
Viên-trung
Chư Tăng câu hội rất đông
Tính ra Tới số hai muôn
tám ngàn
Lại cũng có các hàng
Bồ-tát
Hội tại đây đủ mặt thường
thường
Bây giờ Phật lại lên đường
Cùng hàng đại chúng Nam
phương tiến hành
Ðáo bán lộ rành rành mắt
thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu
đời
Thế-Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy rồi rơi
giọt hồng
Ðức A-Nan tủi lòng ái-ngại
Chẳng hiểu sao Phật lạy
đống xương?
Vội-vàng xin Phật dạy
tường
Thầy là Từ-phụ ba phương
bốn loài
Ai ai cũng kính thầy dường
ấy
Cớ sao thầy lại lạy xương
khô?
Phật rằng: trong các môn
đồ
Ngươi là đệ tử đứng đầu
dày công
Bởi chưa rõ đục trong cho
rõ
Nên vì ngươi ta tỏ đuôi
đầu:
Ðống xương dồn-dập bấy lâu
Cho nên trong đó biết bao
cốt hài
Chắc cũng có ông bà cha mẹ
Hoặc thân ta hoặc kẻ ta
sanh
Luân-hồi sanh-tử, tử-sanh
Lục thân đời trước thi hài
còn đây
Ta lễ bái kính người tiền
bối
Và ngậm-ngùi vì nhớ kiếp
xưa
Ðống xương hỗn tạp chẳng
vừa
Không phân trai gái bỏ bừa
khó coi
Ngươi chịu khó xét soi cho
kỹ
Phân làm hai bên nữ bên
nam
Ðể cho phân biệt cốt phàm
Không còn lộn lạo nữ nam
chất chồng
Ðức A-Nan trong lòng tha
thiết
Biết làm sao phân biệt
khỏi sai
Ngài bèn xin Phật chỉ bày
Vì khó chọn lựa gái trai
lúc này
Còn sanh tiền dễ bề sắp
đặt
Cách đứng đi ăn mặc phân
minh
Chớ khi rã xác tiêu hình
Xương ai như nấy khó nhìn
khó phân
Phật mới bảo A-Nan nên
biết
Xương nữ nam phân biệt rõ
ràng
Ðàn ông xương trắng nặng
hoằng
Ðàn bà xương nhẹ đen thâm
dễ nhìn
Ngươi có biết cớ chi đen
nhẹ?
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra
Sanh con ba đấu huyết ra
Tám hộc bốn đấu sữa hòa
nuôi con
Vì cớ ấy hao mòn thân-thể
Xương đàn bà đen nhẹ hơn
trai
A-Nan nghe vậy bi ai
Xót thương cha mẹ công dày
dưỡng-sanh
Bèn cầu Phật thi ân dạy
bảo
Phương pháp nào báo hiếu
song thân?
Thế-Tôn mới bảo lời rằng:
Vì người ta sẽ phân trần
khá nghe
Thân đàn bà nhiều bề
cực-nhọc
Sanh đặng con thập ngoạt
cưu mang
Tháng đầu thai đậu tợ
sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan
bất thường
Tháng thứ nhì dường như
sữa đặc
Tháng thứ ba như cục huyết
ngưng
Bốn tháng đã tượng ra hình
Năm tháng ngũ thể hiện
sinh rõ-ràng
Tháng thứ sáu lục căn đều
đủ
Bảy tháng thì đủ bộ cốt
xương
Lại thêm đủ lỗ chân lông
Cộng chung đến số tám muôn
bốn ngàn
Tháng thứ tám hoàn-toàn
tạng phủ
Chín tháng thì đầy đủ vóc
hình
Mười tháng thì đến kỳ sinh
Nếu con hiếu thuận xuôi
mình ra luôn
Bằng ngỗ nghịch làm buồn
thân mẫu
Nó vẫy-vùng đạp quấu lung
tung
Làm cho cha mẹ hãi-hùng
Sự đau sự khổ không cùng
tỏ phân
Khi sản xuất muôn phần an
lạc
Cũng ví như được bạc được
vàng
Thế-Tôn lại bảo A-Nan:
Ơn cha nghĩa mẹ mười Phần
phải tin
Ðiều thứ nhứt giữ-gìn thai
giáo
Mười tháng trường châu đáo
mọi bề
Thứ hai sanh đẻ gớm-ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi-mê
trăm phần
Ðiều thứ ba thâm ân nuôi
dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng
lay
Thứ tư ăn đắng uống cay
Ðể dành bùi ngọt đủ đầy
cho con
Ðiều thứ năm lại còn khi
ngủ
Ướt mẹ nằm khô ráo phần
con
Thứ sáu sú nước nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm
chẳng ghê
Ðiều thứ bảy không chê
ô-uế
Giặt đồ dơ của trẻ không
phiền
Thứ tám chẳng nỡ chia
riêng
Nếu con đi vắng cha phiền
mẹ lo
Ðiều thứ chín miễn con
sung-sướng
Dầu phải mang nghiệp
chướng cũng-cam
Tính sao có lợi thì làm
Chẳng màng tội lỗi bị giam
bị cầm
Ðiều thứ mười chẳng ham
trau chuốt
Dành cho con các cuộc
thanh nhàn
Thương con như ngọc như
vàng
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng
thái-sơn
Phật lại bảo A-Nan nên
biết:
Trong chúng-sanh tuy thiệt
phẩm người
Mười phần mê muội cả mười
Không tường ơn trọng đức
dày song thân
Chẳng kính mến quên ơn
trái đức
Không xót thương dưỡng dục
cù-lao
Ấy là báo hiếu mặc giao
Ví những người ấy đời nào
nên thân
Mẹ sanh con cưu mang mười
tháng
Cực khổ dường gánh nặng
trên vai
Uống ăn chẳng đặng vì thai
Cho nên thân-thể hình-hài
kém suy
Khi sanh-sản hiểm nguy chi
xiết
Sanh đặng rồi tinh huyết
dầm dề
Ví như thọc huyết trâu dê
Nhất sanh thập tử nhiều bề
gian nan
Con còn nhỏ phải lo
săn-sóc
Ăn đắng cay bùi ngọt phần
con
Phải tắm phải giặt rửa
trôn
Biết rằng dơ-dáy mẹ không
ngại gì
Nằm phía ướt con nằm phía
ráo
Sợ cho con ướt áo ướt chăn
Hoặc khi ghẻ chóc khắp
thân
Aét con phải chịu trăm
phần thảm-thương
Trọn ba năm bú nương sữa
mẹ
Thân gầy mòn nào nệ với
con
Khi con vừa được lớn khôn
Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ
lòng
Cho đi học mở thông
trí-tuệ
Dựng vợ chồng có thể làm
ăn
Ước mong con được nên thân
Dầu cho cha mẹ cơ bần quản
chi
Con đau ốm tức thì lo chạy
Dầu tốn hao đến mấy cũng
đành
Khi con căn bệnh đặng lành
Thì cha mẹ mới an thần
định tâm
Công dưỡng-dục sánh bằng
non biển
Cớ sao con chẳng biết ơn
nầy
Hoặc khi lầm-lỗi bị rầy
Chẳng tuân thì chớ lại bày
ngỗ ngang
Hỗn cha mẹ phùng mang trợn
mắt
Khinh trưởng huynh nộ-nạt
thê nhi
Bà con chẳng kể ra chi
Không tuân sư phụ lễ nghi
chăng tường
Lời dạy bảo song đường
không kể
Tiếng khuyên răn anh chị
chẳng màng
Trái ngang chống báng mọi
đàng
Ra vào lui tới mắng càn
người trên
Vì lỗ-mãng tánh quen làm
bướng
Chẳng kể lời trưởng thượng
dạy răn
Lớn lên theo thói
hung-hăng
Ðã không nhẫn nhịn lại
càng hành-hung
Bỏ bạn lành theo cùng
chúng dữ
Nết tập quen làm sự trái
ngang
Nghe lời dụ-dỗ quân hoang
Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê
người
Trước còn tập theo thời
theo thế
Thân lập thân tìm kế sanh
nhai
Hoặc đi buôn bán kiếm lời
Hoặc vào quân lính với đời
lập công
Vì ràng buộc đồn công mối
nợ
Hoặc trở ngăn vì nợ vì con
Quên cha quên mẹ tình-thâm
Quên xứ quên sở lâu năm
không về
Ấy là nói những người có
chí
Chớ phần nhiều du hí mà
thôi
Sau khi phá hết của rồi
Phải tìm phương kế kiếm
đôi đồng xài
Theo trộm cướp hoặc là bài
bạc
Phạm tội hình tù rạc phải
vương
Hoặc khi mang bịnh giữa
đường
Không!người nuôi dưỡng bỏ
thân ngoài đồng
Hay tin dữ bà con cô bác
Cùng mẹ cha xao-xác buồn
rầu
Thương con than khóc âu
sầu
Có khi mang bịnh đui mù
vấn-vương
Hoặc bịnh nặng vì thương
quá lẽ
Phải bỏ mình làm quỉ giữ
hồn
Hoặc nghe con chẳng lo
lường
Trà đình tửu điếm phố
phường ngao du
Cứ mải miết với đồng bất
chính
Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ
khan
Làm cho cha mẹ than van
Sanh con bất hiếu phải
mang tiếng đời
Hoặc cha mẹ đến hồi già
yếu
Không ai nuôi thiếu thốn
mọi điều
Ốm đau đói rách kêu rêu
Con không cấp dưỡng bỏ
liều chẳng thương
Phận con gái còn nương cha
mẹ
Thì có lòng hiếu đễ thuận
hòa
Cần lao phục dịch trong
nhà
Dễ sai dễ khiến hơn là nam
nhi
Song đến lúc tùng phu xuất
giá
Lo bên chồng chẳng sá bên
mình
Trước còn lai vãng đến
thăm
Lần lần nguội lạnh biệt
tăm biệt nhà
Quên dưỡng-dục song thân
ân trọng
Không nhớ công mang nặng
đẻ đau
Chẳng lo báo-bổ cù-lao
Làm cho cha mẹ buồn rầu
thảm thay
Nếu cha mẹ la rầy quở mắng
Trở sanh lòng hờn giận
chẳng kiên
Chớ chi chồng đánh liên
miên
Thì cam lòng chịu chẳng
phiền chẳng than
Tội bất hiếu lưỡng ban nam
nữ
Nói không cùng nghiệp dữ
phải mang
Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng
Trong hàng Ðại-chúng lòng
càng thảm thay
Gieo xuống đất lấy cây lấy
củi
Ðập vào mình vào mũi vào
hông
Làm cho các lỗ chân lông
Thảy đều rướm máu ướt đầm
cả thân
Ðến hôn mê tâm thần bất
định
Một giây lâu mới tỉnh than
rằng
Bọn ta quả thật tội nhân
Xưa nay chẳng rõ không hơn
người mù
Nay tỏ ngộ biết bao lầm
lạc
Ruột gan dường như nát như
tan
Tội tình khó nỗi than van
Làm sao trả đặng muôn ngàn
ân sâu
Trước Phật tiền ai cầu
trần tố
Xin Thế-Tôn mẫn cố bi ân
Làm sao báo đáp thù ân
Tỏ lòng hiếu thuận song
thân của mình
Phật bèn dùng phạm thinh
sáu món
Phân tỏ cùng Ðại-chúng
lóng nghe
Ơn cha nghĩa mẹ nặng-nề
Không phương báo đáp cho
vừa sức đâu
Ví có người ân sâu dốc trả
Cõng mẹ cha tất cả hai vai
Giáp vòng hòn núi Tu-di
Ðến trăm ngàn kiếp ân kia
chưa vừa
Ví có người gặp cơn đói
rét
Nuôi song thân dâng hết
thân nầy
Xương nghiền thịt nát phân
thây
Trải trăm ngàn kiếp ân đây
chưa đồng
Ví có người vì công
sanh-dưỡng
Tự tay mình khoét thủng
song ngươi
Chịu thân mù tối như vầy
Ðến trăm ngàn kiếp ơn này
thấm đâu
Ví có người cầm dao thiệt
bén
Mổ bụng ra rút hết tâm can
Huyết ra khắp đất chẳng
than
Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân
đâu bằng
Ví có người dùng ngàn mũi
nhọn
Ðâm vào mình bất luận chỗ
nào
Tuy là sự khó biết bao
Trải trăm ngàn kiếp không
sao đắp đền
Ví có người vì công
dưỡng-dục
Tự treo mình cúng Phật thế
đèn
Cứ treo như vậy trọn năm
Trải trăm ngàn kiếp ân
thâm chưa đền
Ví có người xương nghiền
ra mỡ
Hoặc dùng dao chặt bửa
thân mình
Xương tan thịt nát chẳng
phiền
Ðến trăm ngàn kiếp ơn trên
chưa đồng
Ví có người vì công
dưỡng-dục
Nuốt sắt nóng thấu ruột
thấu gan
Làm cho thân-thể tiêu tan
Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân
chưa đền
Nghe Phật nói thảy đều
kinh khủng
Giọt lệ tràng khó nổi cấm
ngăn
Ðồng thanh bạch Phật lời
rằng
Làm sao trả đặng ân thâm
song đường
Phật mới bảo các hàng
Phật-tử
Phải lóng nghe ta chỉ sau
này
Chúng ngươi muốn đáp ân
dày
Phải toan biên chép kinh
đây lưu truyền
Vì cha mẹ trì chuyên phúng
tụng
Cùng ăn năn những tội lỗi
xưa
Cúng dường Tam-Bảo sớm
trưa,
Cùng là tu phước, chẳng
chừa món chi.
Rằm tháng bảy đến kỳ
Tự-tứ,
Thập phương Tăng đều dự lễ
này
Sắm sanh lễ vật đủ đầy
Chờ giờ cu hội đặt bày
cúng dâng
Ðặng cầu nguyện song đường
trường thọ,
Hoặc sanh về Tịnh-độ an
nhàn
Ấy là báo đáp thù-ân
Sanh thành dưỡng-dục song
thân của mình.
Mình còn phải cần chuyên
trì giới,
Pháp Tam-qui ngũ giới
giữ-gìn
Những lời ta dạy đinh ninh
Khá nên y thử phụng hành
đừng sai
Ðược như vậy mới là khỏi
tội
Bằng chẳng thì ngục tối
phải sa
Trong năm đại tội kể ra
Bất hiếu thứ nhất thật là
trọng thay
Sau khi chết bị đầy vào
ngục
Ngũ Vô Gián cũng gọi A-tỳ
Ngục này trong núi
Thiết-vi
Vách phên bằng sắt vây
quanh bốn bề
Trong ngục này hàng ngày
lửa cháy
Ðốt tội nhơn hết thảy
thành than
Có lò nấu sắt cho tan
Rót vào trong miệng tội
nhơn hành-hình
Một vá đủ cho người thọ
khổ
Lột thịt ra đau thấu tâm
can
Lại có chó sắt cắn gan
Phun ra khói lửa đốt đoàn
tội nhơn
Ở trong ngục có giường
bằng sắt
Bắt tội nhơn nắm khắp đó
xong
Rồi cho một ngọn lửa hồng
Nướng quây chúng nó da
phồng thịt thau
Móc bằng sắt thương đao
gươm giáo
Trên không trung đổ tháo
như mưa
Gặp ai chém nấy chẳng chừa
Làm cho thân thể nát nhừ
như tương
Những hình phạt vô phương
kể hết
Mỗi ngục đều có cách trị
riêng
Như là xe sắt phân thây
Chim ưng mổ bụng trâu cầy
lưỡi le
Chớ chi đặng chết liền rất
đỡ
Vì nghiệp duyên không nỡ
hành thân
Ngày đêm chết sống muôn
lần
Ðến trăm ngàn kiếp không
ngừng một giây
Sự hành phạt tại A-tỳ ngục
Rất nặng-nề ngỗ nghịch
song thân
Chúng người đều phải ân
cần
Thừa hành các việc phân
trần khoản trên
Nhất là phải kinh này in
chép
Truyền bá ra cho khắp đông
tây
Như ai chép một quyển này
Ví bằng đặng thấy một vì
Thế-Tôn
Nếu in được ngàn muôn
quyển ấy
Thì cũng bằng thấy Phật
vạn thiên
Do theo nguyện lực tùy
duyên
Chư Phật ủng hộ y như sở
nguyền
Cha mẹ đặng xa miền khốc
lãnh
Lại hóa sanh về cảnh thiên
cung
Khi lời Phật giảng vừa
xong
Khắp trong Tứ-chúng một
lòng kính vâng
Lại phát nguyện thà thân
này nát
Ra bụi tro muôn kiếp chẳng
nài
Dầu cho kéo lưỡi trâu cầy
Ðến trăm ngàn kiếp lời
thầy không quên
Ví như bị đá thiên đao
kiếm
Khắp thân nầy đâm chém
phân thây
Hoặc như lưới trói thân
này
Trải trăm ngàn kiếp lời
thầy chẳng sai
Dẫu thân này bị cưa bị
chặt
Phân chia ra muôn đoạn rã
rời
Ðến trăm ngàn kiếp như vầy
Chúng con cũng chẳng trái
lời thầy khuyên
Ðức A-Nan kiền thiền đảnh
lễ
Cầu Thế-Tôn đặt để hiệu
kinh
Ngày sau truyền bá chúng
sanh
Dễ bề phúng tụng trì
chuyên tu hành
Phật mới bảo A-Nan nên
biết
Quyển kinh này quả thiệt
cao xa
Ðặt tên "BÁO HIẾU MẸ CHA"
Cùng là "AÂN TRỌNG" thật
là chơn kinh
Các ngươi phải giữ gìn
châu-đáo
Ðặng đời sau y giáo phụng
hành
Sau khi Phật dạy rành rành
Bốn hàng Phật-tử rất mừng
rất vui
Thảy một lòng vâng theo
lời Phật
Và kính thành tin chắc vẹn
truyền
Ðồng nhau trở lại Phật
tiền
Nhất tâm đảnh lễ rồi liền
lui ra.
SÁM VU-LAN
Ðệ-tử chúng con,
Vâng lời Phật dạy,
Ngày rằm tháng bảy,
Gặp Hội Vu-Lan,
Phạm Vũ huy-hoàng,
Ðốt hương đảnh lễ.
Mười phương Tam-thế,
Phật, Pháp, Thánh, Hiền,
Noi gương Ðức
Mục-Kiền-Liên,
Nguyện làm con thảo,
Lòng càng áo-não,
Nhớ nghĩa thân sanh,
Con đến trưởng-thành,
Mẹ dày gian khổ,
Ba năm nhủ bộ,
Chín tháng cưu mang.
Không ngớt lo toan,
Quên ăn bỏ ngủ,
Ấm no đầy đủ,
Cậy có công cha,
Chẳng quản yếu già,
Sanh nhai lam lủ,
Quyết cùng hoàng-vũ,
Phấn đấu nuôi con,
Giáo dục vuông tròn,
Ðem đường học đạo,
Ðệ-tử ơn sâu chưa báo,
Hổ phận kém hèn,
Giờ này quỳ trước đài sen,
Chí thành cung kính,
Ðạo tràng thanh-tịnh,
Tăng-bảo trang-nghiêm.
Hoặc thừa tự-tứ.
Hoặc hiện tham-thiền,
Ðầy đủ thiện duyên,
Dủ lòng lân-mẫn,
Hộ-niệm cho:
Bảy kiếp cha mẹ chúng con,
Ðượm nhuần mưa Pháp,
Còn tại thế:
Thân tâm an ổn,
Phát nguyện tu trì,
Ðã qua đời:
Ác đạo xa lìa,
Chóng thành Phật-quả,
Ngữa trông các Ðức
Như-Lai,
Khắp cõi hư không,
Từ bi gia hộ.
MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA
MẬT-ÐA TAÂM-KINH
Quán-tự-tại Bồ-tát, hành
thâm Bát-nhã Ba-la mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất
thiết khổ ách.
Xá-Lợi-Tử ! Sắc bất dị
không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng,
hành, thức, diệc phục như thị.
Xá-Lợi-Tử ! Thị chư Pháp
không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm.
Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ,
thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí
vô ý-thức-giới, vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc
vô lão-tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề
tát-đỏa y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, tâm vô quái-ngại; vô quái-ngại cố, vô
hữu khủng-bố, viễn ly điên-đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam-thế chư
Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
Cố tri Bát-nhã
Ba-la-mật-đa, thị đại-thần chú, thị đại minh chú, thị vô-thượng chú, thị
vô đẳng đẳng chú năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết
Bát-nhã-ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết-đế yết-đế, ba-la
yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.
(3
lần)
VÃNG-SANH QUYẾT-ÐỊNH CHƠN-NGÔN:
Nam-mô a di đa bà dạ, Ða tha dà đa
dạ, Ða địa dạ tha.
A di rị đô bà tỳ,
A di rị đa tất đam bà tỳ,
A di rị đa tì ca lan đế,
A di rị đa, tì ca lan đa,
Dà di nị dà dà na,
Chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần)
TÁN PHẬT
A-Di-Ðà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang-minh vô đẳng-luân,
Bạch hào uyển-chuyển ngũ tu-di,
Cám mục trừng thanh tứ đại hải.
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ-tát chúng diệc vô-biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới,
đại-từ đại-bi, A-Di-Ðà Phật.
Nam-mô A-Di-Ðà Phật.
(108 lần)
NIỆM TỨ THÁNH
Nam-mô Ðại-bi Quán-Thế-AÂm Bồ-tát.
(10 lần)
Nam-mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát. (10 lần)
Nam-mô Ðại-Tạng Vương Bồ-tát. (10
lần)
Nam-mô Thanh-tịnh Ðại-Hải chúng
Bồ-tát. (10 lần)
HỒI HƯỚNG
Phúng kinh công-đức thù thắng hạnh,
Vô biên thắng phước giai hồi-hướng,
Phổ nguyện pháp-giới chư chúng-sanh,
Tốc vãng vô-lượng-quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam-chướng trừ phiền-não,
Nguyện đắc trí-huệ chơn minh liễu,
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.
Thế thế thường hành Bồ-tát đạo.
Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung,
Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công-đức,
Phổ cập ư nhứt thiết,
Ngã đẳng dữ chúng-sanh,
Giai cộng thành Phật-đạo.
TAM QUY-Y:
Tự quy-y Phật, đương nguyện
chúng-sanh, thể giải đại-đạo, phát vô-thượng tâm. (1 lạy)
Tự quy-y Pháp, đương nguyện
chúng-sanh, thâm nhập kinh-tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)
Tự quy-y Tăng, đương nguyện
chúng-sanh, thống-lý đại-chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy)
--- o0o ---
Mục lục
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11
|
12
|
13
|
14--- o0o ---
Vi tính : Hải Hạnh Ngọc Dung
Trình bày :
Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-08-2002