Mục
Lục |
1.
Quán Thân
-
quán về hơi thở
-
quán về bốn oai nghi
-
quán về thân hành
-
quán về thân bất tịnh
-
quán về thân tứ đại
-
quán về cửu tưởng |
2.
Quán Thọ
-
cảm thọ khoái lạc
-
cảm thọ đau khổ
-
cảm thọ trung tính |
3.
Quán Tâm
-
tâm ý tham dục
-
tâm ý sân hận
-
tâm ý si mê
-
tâm ý thu nhiếp
-
tâm ý tán loạn
-
tâm ý trở thành rộng lớn
-
tâm ý trở thành hạn hẹp
-
tâm ý đạt đến trạng thái cao nhất
-
tâm ý có định
-
tâm ý giải thoát |
4.
Quán Pháp
-
quán về ngũ triền cái
-
quán về ngũ uẩn
-
quán về sáu nội ngoại xứ
-
quán về thất giác chi
-
quán về tứ diệu đế |
5.
Quả Vị |
6.
Kinh Tứ Niệm Xứ |
|
|
c
PHÁP LUẬN
SỒNG TRONG
TỪNG SÁT NA
Trường
Đinh
Kinh Bốn Lãnh
Vực Quán Niệm
Tôi
nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật đang cư trú ở Kammasadamma,
một khu phố của dân Kuru. Một hôm, Ngài gọi các vị chư
tăng: “Nầy các thầy”. Chư tăng đáp: “Thưa Đức Thế
Tôn”. Đức Phật nói: “Nầy các vị, đây là con đường
duy nhất để thanh tịnh thân tâm, vượt thắng phiền não,
diệt trừ ưu khổ, đạt tới chánh đạo và chứng nhập niết
bàn - đó là con đường của bốn lãnh vực quán niệm”.
Bốn
lãnh vực quán niệm là những lãnh vực gì?
Nầy
các vị, người hành giả an trú trong sự quán niệm về thân
thể nơi thân thể, tinh cần, ý thức rõ ràng và sáng suốt
về thân thể, xa lìa mọi tham đắm và ưu tư đối với cuộc
đời.
Người
ấy an trú trong sự quán niệm về cảm thọ nơi cảm thọ,
tinh cần, ý thức rõ ràng và sáng suốt về cảm thọ, xa lìa
mọi tham đắm và ưu tư đối với cuộc đời.
Người
ấy an trú trong sự quán niệm về tâm thức nơi tâm thức,
tinh cần, ý thức rõ ràng và sáng suốt về tâm thức, xa lìa
mọi tham đắm và ưu tư đối với cuộc đời.
Người
ấy an trú trong sự quán niệm về đối tượng của tâm thức
nơi đối tượng của tâm thức, tinh cần, ý thức rõ ràng
và sáng suốt về đối tượng của tâm thức, xa lìa mọi
tham đắm và ưu tư đối với cuộc đời.
Nầy
các vị, người hành giả an trú trong sự quán niệm về thân
thể nơi thân thể như thế nào?
Người
ấy tìm đến một khu rừng, tới một gốc cây, hay một nơi
vắng vẻ, ngồi xuống trong tư thế kiết già, giữ thân hình
ngay thẳng và thiết lập sự quán niệm trên đối tượng
thiền định. Với ý thức rõ ràng và sáng suốt, người ấy
thở vào. Với ý thức rõ ràng và sáng suốt, người ấy thở
ra.
Thở
vào một hơi thở dài, người ấy ý thức rằng: “ta đang
thở vào một hơi thở dài”. Thở ra một hơi thở dài, người
ấy ý thức rằng: “ta đang thở ra một hơi thở dài”.
Thở
vào một hơi thở ngắn, người ấy ý thức rằng: “ta đang
thở vào một hơi thở ngắn”. Thở ra một hơi thở ngắn,
người ấy ý thức rằng: “ta đang thở ra một hơi thở ngắn”.
Người
hành giả tự mình thực tập như sau:
Với
ý thức rõ ràng về toàn hơi thở, ta thở vào. Với ý thức
rõ ràng về toàn hơi thở, ta thở ra.
Với
ý thức rõ ràng về sự lắng dịu nơi hơi thở, ta thở vào.
Với ý thức rõ ràng về sự lắng dịu nơi hơi thở, ta thở
ra.
Như
người thợ tiện khéo tay hay người thợ học nghề, khi xoay
một vòng dài, người ấy ý thức rằng: “ta đang xoay một
vòng dài”. Hay xoay một vòng ngắn, người ấy ý thức rằng:
“ta đang xoay một vòng ngắn”.
Cũng
như người hành giả thở vào một hơi thở dài, người ấy
ý thức rằng: “ta đang thở vào một hơi thở dài”. Thở
ra một hơi thở dài, người ấy ý thức rằng: “ta đang thở
ra một hơi thở dài”.
Thở
vào một hơi thở ngắn, người ấy ý thức rằng: “ta đang
thở vào một hơi thở ngắn”. Thở ra một hơi thở ngắn,
người ấy ý thức rằng: “ta đang thở ra một hơi thở ngắn”.
Người
hành giả tự mình thực tập như sau:
Với
ý thức rõ ràng về toàn hơi thở, ta thở vào. Với ý thức
rõ ràng về toàn hơi thở, ta thở ra.
Với
ý thức rõ ràng về sự lắng dịu nơi hơi thở, ta thở vào.
Với ý thức rõ ràng về sự lắng dịu nơi hơi thở, ta thở
ra.
Và
như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm về thân
thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên
trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán
niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc
quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể.
Hoặc người ấy quán niệm rằng: “có thân thể đây”,
như thế đủ để phát khởi sự quán chiếu và ý thức về
thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi
tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc đời.
Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là
như vậy, thưa các vị.
Khi
đi, người hành giả ý thức rằng: “ta đang đi”. Khi đứng,
người hành giả ý thức rằng: “ta đang đứng”. Khi ngồi,
người hành giả ý thức rằng: “ta đang ngồi”. Khi nằm,
người hành giả ý thức rằng: “ta đang nằm”. Bất cứ
thân thể đang ở trong tư thế nào, người hành giả cũng
ý thức về tư thế đó.
Và
như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm về thân
thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên
trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán
niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc
quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể.
Hoặc người ấy quán niệm rằng: “có thân thể đây”,
như thế đủ để phát khởi sự quán chiếu và ý thức về
thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi
tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc đời.
Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là
như vậy, thưa các vị.
Khi
đi tới hay đi lui, người hành giả ý thức rõ ràng về việc
đó. Khi nhìn trước hay nhìn sau, cúi xuống hay đứng lên,
người hành giả ý thức rõ ràng về việc đó. Khi mặc áo
cà sa hay mang bình bát, người hành giả ý thức rõ ràng về
việc đó. Khi ăn hay uống, nhai hay nếm, người hành giả ý
thức rõ ràng về việc đó. Khi đi đại tiện hay tiểu tiện,
người hành giả ý thức rõ ràng về việc đó. Khi đi hay
đứng, nằm hay ngồi, ngủ hay thức, nói hay im lặng, người
hành giả cũng ý thức rõ ràng về việc đó.
Và
như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm về thân
thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên
trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán
niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc
quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể.
Hoặc người ấy quán niệm rằng: “có thân thể đây”,
như thế đủ để phát khởi sự quán chiếu và ý thức về
thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi
tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc đời.
Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là
như vậy, thưa các vị.
Người
hành giả quán niệm về chính thân thể nầy, từ gót chân
trở lên và từ đỉnh đầu trở xuống, bao bọc bởi một
lớp da và chứa đầy các loại bất tịnh. Thuộc về thân
thể nầy: “tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy,
thận, gan, hoành cách mạc, lá lách, phổi, ruột, bao tử, phân,
mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước bọt,
nước mủ, nước khớp xương, nước tiểu”.
Nầy
các vị, thí dụ có một cái bao đựng các loại ngũ cốc
như gạo lức, gạo hẻo rằng, lúa, đậu xanh, đậu ngự,
mè, gạo trắng. Hai đầu bao có thể mở ra được. Một người
có mắt tốt khi mở bao ra, thấy rõ mọi loại hạt chứa đựng
trong đó. Đây là gạo lức, gạo hẻo rằng, lúa, đậu xanh,
đậu ngự, mè, gạo trắng.
Cũng
như thế, khi quán niệm về thân thể nầy, người hành giả
thấy được mọi thứ, từ gót chân đến đỉnh đầu và
từ đỉnh đầu xuống gót chân, bao bọc bởi một lớp da
và chứa đầy các loại bất tịnh. Thuộc về thân thể nầy:
“tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận,
gan, hoành cách mạc, lá lách, phổi, ruột, bao tử, phân, mật,
đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước bọt, nước
mủ, nước khớp xương, nước tiểu”.
Và
như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm về thân
thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên
trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán
niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc
quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể.
Hoặc người ấy quán niệm rằng: “có thân thể đây”,
như thế đủ để phát khởi sự quán chiếu và ý thức về
thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi
tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc đời.
Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là
như vậy, thưa các vị.
Lại
nữa, nầy các vị. Trong bất cứ tư thế nào của thân thể,
người hành giả cũng quán niệm về những yếu tố cấu tạo
thành thân thể. Trong thân thể nầy, có yếu tố đất, có
yếu tố nước, có yếu tố lửa, có yếu tố gió. Như người
đồ tể rành nghề hay người thợ học nghề, khi giết một
con bò, ngồi giữa ngả tư và xẻ con bò ra thành nhiều phần.
Người hành giả cũng vậy, trong bất cứ tư thế nào của
thân thể, cũng quán niệm về những yếu tố cấu tạo thành
thân thể. Trong thân thể nầy, có yếu tố đất, có yếu
tố nước, có yếu tố lửa, có yếu tố gió.
Và
như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm về thân
thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên
trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán
niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc
quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể.
Hoặc người ấy quán niệm rằng: “có thân thể đây”,
như thế đủ để phát khởi sự quán chiếu và ý thức về
thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi
tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc đời.
Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là
như vậy, thưa các vị.
Lại
nữa, nầy các vị. Như khi thấy một xác chết bị bỏ nơi
bãi tha ma, đã được một ngày, hai ngày, hoặc ba ngày, sình
trương, thâm tím và thối rữa. Người hành giả quán niệm
về thân thể đây cũng vậy, cũng sẽ trở thành như thế,
không có cách nào tránh thoát.
Và
như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm về thân
thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên
trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán
niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc
quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể.
Hoặc người ấy quán niệm rằng: “có thân thể đây”,
như thế đủ để phát khởi sự quán chiếu và ý thức về
thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi
tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc đời.
Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là
như vậy, thưa các vị.
Rồi
như thấy một xác chết bị bỏ nơi bãi tha ma, bị quạ rỉa,
bị diều hâu, kên kên và chó sói rừng gặm xé, bị dòi bọ
rúc rỉa. Người hành giả quán niệm về thân thể đây cũng
vậy, cũng sẽ trở thành như thế, không có cách nào tránh
thoát.
Và
như thế, người hành giả an trú trong sự quán niệm về thân
thể nơi thân thể, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc bên
trong và bên ngoài thân thể. Người ấy an trú trong sự quán
niệm về quá trình sinh khởi, hoặc quá trình hủy diệt, hoặc
quá trình sinh khởi và quá trình hủy diệt nơi thân thể.
Hoặc người ấy quán niệm rằng: “có thân thể đây”,
như thế đủ để phát khởi sự quán chiếu và ý thức về
thân thể. Người ấy không lệ thuộc vào bất cứ gì nơi
tham đắm, cũng không bám víu vào bất cứ gì trong cuộc đời.
Người hành giả quán niệm về thân thể nơi thân thể là
như vậy, thưa các vị.
Rồi
như thấy một xác chết bị bỏ nơi bãi tha ma, chỉ còn lại
bộ xương dính ít thịt và máu, các khớp xương còn gắn
liền nhau bởi gân cốt. |