Mục
Lục |
1.
Quán Thân
-
quán về hơi thở
-
quán về bốn oai nghi
-
quán về thân hành
-
quán về thân bất tịnh
-
quán về thân tứ đại
-
quán về cửu tưởng |
2.
Quán Thọ
-
cảm thọ khoái lạc
-
cảm thọ đau khổ
-
cảm thọ trung tính |
3.
Quán Tâm
-
tâm ý tham dục
-
tâm ý sân hận
-
tâm ý si mê
-
tâm ý thu nhiếp
-
tâm ý tán loạn
-
tâm ý trở thành rộng lớn
-
tâm ý trở thành hạn hẹp
-
tâm ý đạt đến trạng thái cao nhất
-
tâm ý có định
-
tâm ý giải thoát |
4.
Quán Pháp
-
quán về ngũ triền cái
-
quán về ngũ uẩn
-
quán về sáu nội ngoại xứ
-
quán về thất giác chi
-
quán về tứ diệu đế |
5.
Quả Vị |
6.
Kinh Tứ Niệm Xứ |
|
|
c
PHÁP LUẬN
SỒNG TRONG
TỪNG SÁT NA
Trường
Đinh
4. quán pháp
Lãnh
vực thứ tư là quán pháp. Về phần niệm pháp, đây là pháp
quán về các đối tượng của tâm thức, bao gồm các lãnh
vực về thân thể, cảm thọ và tâm thức.
Trong
bốn lãnh vực quán niệm, pháp căn bản làm nền tảng cho
sự tu tập là pháp quán hơi thở. Phương pháp quán niệm hơi
thở rất thiết thực cho cuộc sống, đơn giản, dễ hành
trì, hiệu lực lại rất cao. Nuôi giữ ý thức trên hơi thở
có thể giúp cho thân tâm được vững chải, phát triển định
lực tập trung, duy trì được tính khí và sức khỏe. Do vậy,
pháp quán niệm hơi thở được coi là trọng tâm điểm của
sự tu tập bốn lãnh vực quán niệm.
Trong
phần thực tập về tuệ quán ở các lãnh vực thân thọ tâm,
đã có đề cập đến ít nhiều về các pháp quán vô thường,
tàn hoại, giải thoát và buông bỏ. Ở đây, phương pháp quán
niệm về các đối tượng của tâm thức, tức pháp quán về
các pháp, được đặt trên căn bản các pháp quán vô thường
và tàn hoại. Thực tập thiền quán mà không đi vào cửa ngõ
của các pháp quán về vô thường thì chẳng thể nào soi thấu
được bản chất thật của mọi phiền trược khổ đau và
phù du khoái lạc trong cuộc đời.
Các
đối tượng của tâm thức:
- năm
hiện tượng ngăn che của tâm thức (ngũ triền cái)
-
năm uẩn (ngũ uẩn)
-
sáu giác quan và sáu đối tượng của giác quan (sáu nội ngoại
xứ)
-
bảy yếu tố của sự giác ngộ (thất giác chi)
-
bốn sự thật cao quý (tứ diệu đế)
Quán
về ngũ triền cái
Đây
là 5 hiện tượng phóng túng gây nhiều trở ngại cho sự giác
ngộ tâm linh, gồm ái dục, sân hận, mê muội và buồn ngủ,
giao động bất an và hối hận, nghi ngờ.
- Ái
dục
Hiện
tượng ngăn che đầu tiên của sự giác ngộ là dục niệm.
Theo quan điểm Phật giáo, dục niệm bao gồm năm phương diện
tham đắm của con người (ngũ dục) là tiền của, sắc đẹp,
danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ. Năm nhóm ái dục nầy là
những trở ngại rất lớn cho người hành giả trên con đường
tu tập thiền quán.
Khi
trong tâm chợt phát khởi một ý niệm ái dục, tâm thức chỉ
cần ghi nhận rõ ràng về sự phát khởi của dục niệm đó.
Ngay khi một ý niệm ái dục phát khởi và tâm thức đã giác
tỉnh nhận biết được liền thì ngay đó làn sóng dục niệm
cũng đã bị giảm suy. Hãy đưa tâm ý trở về với hơi thở
ý thức. Thở vào, ta biết ta đang thở vào và ta biết có
một dục niệm đang sinh khởi. Thở ra, ta biết ta đang thở
ra và ta biết dục niệm đó đang suy diệt.
Ta
quán sát và ghi nhận sự phát khởi, tăng trưởng, suy yếu
và hủy diệt của dục niệm. Chỉ cần khách quan ghi nhận
về điều đó. Hãy nhìn ngắm mọi dục niệm như gió
thoảng như mây bay, tâm thức sẽ tìm thấy được sự bình
an ít nhiều.
- Sân
hận
Khi
sân niệm trổi dậy trong tâm thức, ta cần ghi nhận khách
quan về sự phát khởi đó. Nhận biết trong tâm đang có một
ý niệm sân hận. Cũng như phương thức đối trị về dục
niệm, tâm ý hoàn toàn thụ động để ghi nhận sự việc.
Hãy
bình tâm để quán sát mọi sân niệm. Hãy nhận biết một
cách tỉnh thức trong suốt quá trình sinh khởi, tăng trưởng,
giảm suy và hủy diệt của nó. Hãy cố gắng giữ thân tâm
bình thản với lửa lòng sân niệm. Đừng nói một lời nào.
Đừng suy nghĩ bất cứ điều chi. Cũng đừng làm bất cứ
việc gì. Hãy đưa tâm ý trở về với hơi thở ý thức. Thở
vào, ta biết ta đang thở vào và ta biết có một sân niệm
đang sinh khởi. Thở ra, ta biết ta đang thở ra và ta biết
sân niệm đó đang suy diệt.
Khi
ý niệm giận dữ phát sinh, tâm thức tỉnh giác nhận biết
được liền thì ngay đó ngọn đuốc sân hận cũng đã bị
giảm suy ít nhiều. Hãy duy trì hơi thở trong ý thức. Khách
quan ghi nhận mọi vận hành biến chuyển và suy diệt của
sân niệm. Với hơi thở ý thức, với sức mạnh của định
lực tập trung và ý thức chánh niệm, thân tâm sẽ trở nên
tươi mát lại và sân niệm cũng dần tan biến đi.
- Mê
muội và buồn ngủ (hôn trầm)
Khi
đang ngồi thiền, đôi lúc trong tâm có sự mờ mịt, tưởng
thức mơ màng như buồn ngủ, ta hãy liền ý thức về điều
đó. Khách quan ghi nhận về sự phát khởi của nó. Hãy đưa
tâm ý trở về với hơi thở. Thở vào, ta biết ta đang thở
vào. Thở ra, ta biết ta đang thở ra. Ta biết ta đang có sự
mê muội và buồn ngủ. Ngay khi nhận biết có sự mê muội
phát sinh thì ánh sáng tâm thức cũng đã tự tỏ sáng.
Đối
với tất cả ý niệm mơ màng buồn ngủ trổi dậy trong lúc
ngồi thiền, ta chỉ cần chú tâm quán sát khách quan và ghi
nhận tất cả mọi diễn biến của nó trong suốt quá trình
sinh diệt. Ta an trú trong sự quán niệm “có sự mê muội
và buồn ngủ đây”. Với sự ghi nhận như vậy đủ để
giúp ta quán chiếu và ý thức được sự có mặt của mê
muội và buồn ngủ trong tâm thức.
- Giao
động bất an (trạo cử) và hối hận
Lúc
đang ngồi thiền, đôi khi có những giao động trong tâm trí,
cảm thức như thân xác động chuyển, gây tạo cho tâm thức
bất an. Khi ấy, cảm thức của thân và tâm trong sự giao động
cũng giống như đang ngồi trên con thuyền giữa biển khơi.
Khi
tâm thức xao xuyến bất an, hãy cố gắng nhận biết về điều
đó. Khách quan ghi nhận như vậy đúng như thật. Hãy giữ
sự bình tâm để quán sát sự việc. Hãy bình thản nhẹ nhàng
đưa tâm ý trở về với hơi thở. Tập trung tất cả tâm
trí vào hơi thở. Thở vào, ta biết ta đang thở vào và ta
biết thân thể đang có sự giao động. Thở ra, ta biết ta
đang thở ra và ta biết tâm thức đang có sự bất an.
Hãy
thực tập thản nhiên để nhìn sự việc, ghi nhận về sự
giao động bất an trong suốt quá trình sinh khởi và hoại diệt
của nó.
Ngoài
những giao động trạo cử trong khi ngồi thiền, còn có những
ảnh hưởng giao động khác ở thân thể, ngay trên lời nói
và trong tâm thức (làm việc cẩu thả, đi đứng thiếu chỉnh
tề, hành động vụït chạt, nói năng lung tung, tư tưởng
tán loạn…) Tất cả đó đều là những giao động bất an.
Lúc
ngồi thiền, đôi khi tâm thức trổi dậy với những ý tưởng
hối hận về hành vi của mình, về công việc mình bất cẩn,
về ngôn từ mình đã nói trong lúc giận dữ, về cách cư
xử thô tệ với người... gây tạo cho ta những buồn phiền
hối hận trong nội tâm. Đối với những ý niệm sầu ưu
như vậy, tâm thức cần tỉnh giác ghi nhận về điều đó.
Hãy đưa tâm ý trở về với hơi thở ý thức. Thực tập
bình thản mà nhìn sự kiện từ lúc nó phát sinh, tăng trưởng,
suy yếu, cho đến khi nó hoàn toàn tan biến đi.
Hãy
nhìn ngắm sự kiện một cách khách quan. Không dính mắc vào
đề mục ta, những việc ta đã làm, những lời ta đã nói.
Chỉ cần nhận biết khách quan “đang có những ý tưởng
hối hận phát sinh”. Tỉnh giác nhận biết như vậy và thản
nhiên trở về với hơi thở ý thức. Thở vào, ta biết ta
đang thở vào và nhận biết ta đang có sự hối hận. Thở
ra, ta biết ta đang thở ra và nhận biết đang có sự ray rứt
trong ta. Thực tập ghi nhận và tiếp xúc với sự hối hận
một cách thản nhiên, như nước nhìn trời, như mây nhìn trăng.
Sự
ghi nhận và quán sát về sự hối hận cần phải thật khách
quan. Đừng suy nghĩ quá nhiều về ta. Cố gắng tỉnh giác
không để bị rơi vào vòng quay náo loạn của tư duy.
Sự
ghi nhận về hối hận nên hiểu là khách quan nhận biết về
những sai lầm ta đã làm để không tạo dựng thêm khổ đau.
Tự tâm ta quán chiếu để soi sáng tâm thức ta với ngọn
đuốc giác tỉnh, để sẽ không tạo tác thêm ra những lỗi
lầm cho mình cho người.
Như
vậy, sự nhận biết về hối hận không phải để ưu tư
ray rứt mà trở lại xâu xé cõi lòng. Cần tỉnh biết mà
ngắm nhìn từng đợt sóng sầu ưu đó.
Bất
cứ sự giao động nào gây tạo cho tâm thể bất an, hãy liền
nhận biết đúng như vậy. Biết đang có sự giao động. Biết
đang có sự bất an. Chỉ khách quan nhận biết như vậy, thế
thôi. Không chạy đuổi phân tích sự kiện. Hãy đưa tâm ý
nhẹ nhàng trở về với hơi thở. Chỉ hơi thở đây là vấn
đề tối quan trọng mà ta phải để hết tâm sức vào sự
an trú. Cố gắng không nghĩ gì khác, cũng không bận tâm về
bất cứ điều gì khác. Tâm trí chỉ cần ghi nhận sáng suốt,
nhận biết rõ ràng ngay khi vọng tưởng phát sinh, tăng trưởng,
suy yếu và tan biến. Thản nhiên mà nhìn sự kiện phát khởi
đổi thay trong từng mỗi phút giây vô thường.
Nếu
có một ý nghĩ trổi dậy, nhận biết “có một ý nghĩ”,
rồi nhẹ nhàng trở về với hơi thở. Nếu có một cảm giác
phát sinh, nhận biết “có một cảm giác”, rồi nhẹ nhàng
trở về với hơi thở. Có sự giao động trên thân xác, ta
nhận biết thân xác đang có sự giao động. Có sự bất an
trong tâm thức, ta nhận biết tâm thức đang có sự bất an.
Rồi nhẹ nhàng trở về với hơi thở. Thực tập bình thản
trong ý thức đó. Thở vào, ta biết ta đang thở vào. Thở
ra, ta biết ta đang thở ra. Cố gắng duy trì hơi thở trong
ý thức và thản nhiên mà nhìn sự việc.
Mọi
ý tưởng có sinh có diệt. Sự giao động có đến có đi.
Cảm thức có phát khởi có tan biến. Những gì đến cứ để
nó đến, không xao xuyến mến ưa. Những gì đi cứ để nó
đi, không nuối tiếc sầu tư. Hãy thực tập nhận định sự
kiện như thiền sư Shunryu Suzuki - “chính ngươi đã tạo dựng
ra những làn sóng trong tâm tư ngươi, nếu cứ thản nhiên
để tâm trí như bình thường thì tâm trí sẽ tự trở thành
vắng lặng” (zen mind). Một ý tưởng khởi dậy, một cảm
thức phát sinh, tất cả cũng chỉ là những trổi dậy diệt
sinh vô thường của các ý niệm.
Sự
ghi nhận về giao động bất an không những chỉ thực tập
trong lúc ngồi thiền mà phải tỉnh biết ghi nhận về điều
đó trong mọi thời lúc. Khi đang đi, đang ngồi, đang nằm,
đang đứng, hay đang làm việc, nếu tâm thức bất an, thần
trí giao động, hãy liền tỉnh biết ghi nhận về điều đó.
Những khi không còn sự giao động bất an, tâm trí cũng nhận
biết sáng suốt như vậy. Hãy cố gắng duy trì hơi thở trong
ý thức. Hãy nhìn vào tâm thức mình để thấy rõ sự sinh
khởi và hoại diệt của mọi vọng động biến sinh.
Ma
cảnh
|