|
.
TỔ LÂM TẾ
NGHĨA HUYỀN
Tâm
Thái
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được
nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn
được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay. Tại Nhật
Bản hai tông Zen, tức Thiền tông, còn tồn tại đến nay là
tông Lâm Tế (Nhật: Rinzai) và Tào Ðộng (Nhật: Soto). Tại
Việt Nam thì trừ vài chùa là thuộc tông Tào Ðộng còn lại
đều thuộc tông Lâm Tế. Như vậy nói tới Thiền tông thì
không thể không biết về đường lối tu hành do tổ Lâm Tế
truyền lại.
Nếu
kể dòng truyền thừa từ thời Lục tổ Huệ Năng (638-713),
thì kế tiếp là Nam Nhạc Hoài Nhượng, Mã Tổ Ðạo Nhất,
Bá Trượng Hoài Hải, Hoàng Bá Hy Vận và Lâm Tế Nghĩa Huyền.
Như vậy là khoảng 150 năm sau Lục tổ, hoặc hơn 300 năm sau
tổ Bồ Ðề Ðạt Ma, hạt giống Thiền tông được mang từ
Ấn Ðộ qua gieo trồng tại Trung Hoa đã trở thành một cây
cao lớn, tươi tốt. Thiền tông đã trở thành một tông phái
mạnh mẽ trong mười tông của Phật giáo. Sau này vào khoảng
thế kỷ 13 thì cây này bắt đầu trụi tại Trung Hoa, nhưng
may nhờ có được truyền sang Nhật Bản từ thế kỷ thứ
10 nên cây này còn được tươi tốt cho đến ngày nay.
Cuộc
đời
Tổ
hiệu là Nghĩa Huyền, họ Hình quê ở Nam Hoa thuộc Tào Châu.
Sử chỉ ghi tổ mất năm 866 (có tài liệu ghi là 867) mà không
ghi rõ năm sanh, theo một số học giả thì tổ sanh khoảng
810 đến 815. Vì sau đó tổ trụ trì tại chùa Lâm Tế, nên
sau này được gọi là Lâm Tế Nghĩa Huyền (Trung Hoa: Lin Chi
I Hsuan, Nhật: Rinzai Gigen).
Hồi
còn trẻ, sau khi thọ giới cụ túc, Lâm Tế nghiên cứu tinh
tường giới luật, thâm hiểu kinh luận, nhưng Lâm Tế thường
than: "Ðây là phương thuốc cứu đời, chưa phải yếu chỉ
của giáo ngoại biệt truyền." Vì vậy Lâm Tế đi tham
vấn các vị thiền sư để theo học Thiền tông. Lâm Tế tới
hội của tổ Hoàng Bá Hy Vận (Tr.H: Huang Po Hsi Yuan, Nh: Obaku
Kiun) và ở đó ba năm mà chưa tham hỏi gì. Có vị Thủ tọa
khuyên Lâm Tế nên lên tham hỏi Hoàng Bá để hỏi về thế
nào là đại ý Phật pháp. Ba lần lên gặp mà ngay khi chưa
nói dứt lời đã bị Hoàng Bá đánh cả ba lần. Khi Lâm Tế
thất vọng đến từ giã thì Hoàng Bá dặn đến gặp thiền
sư Ðại Ngu (Tr.H: Ta Yu).
Ðại
Ngu hỏi: "Hoàng Bá có dạy lời gì?"
-
"Con ba phen hỏi Ðại ý Phật pháp, ba lần bị đánh. Chẳng
biết con có lỗi hay không lỗi? "
-
"Bà già Hoàng Bá đã có lòng từ bi thắm thiết như thế đối
với ngươi mà ngươi còn đến đây hỏi có lỗi hay không
lỗi! "
Ngay
câu nói ấy Lâm Tế hoát nhiên đại ngộ, rồi thưa: "Phật
pháp của Hoàng Bá vốn chẳng có nhiều." Ðại Ngu nắm chặt
Lâm Tế rồi nói: "Con quỷ đái dưới sàn, vừa nói có lỗi
hay không lỗi, giờ lại nói Phật pháp của Hoàng Bá không
nhiều. Ngươi thấy đạo lý gì, nói mau! nói mau! " Lâm
Tế đánh vào hông Ðại Ngu ba thoi. Ðại Ngu buông ra, nói:
"Thầy của ngươi là Hoàng Bá, chẳng can hệ gì việc của
ta. " Lâm Tế từ tạ Ðại Ngu rồi trở về với Hoàng Bá.
Thấy Lâm Tế trở về, Hoàng Bá biết là Lâm Tế đã ngộ,
nhưng sau câu chuyện nhắc về Ðại Ngu thì Lâm Tế tát tai
Hoàng Bá!
Sau
khi được Hoàng Bá ấn chứng thì Lâm Tế vẫn tiếp tục
theo hầu Hoàng Bá một thời gian. Tình hình Phật giáo tại
Trung Quốc lúc đó gặp khó khăn vì đến năm 845 vua Wu-Tsung
có những biện pháp cứng rắn đàn áp Phật giáo. Chỉ trong
vòng có 8 tháng năm 845 mà có hơn 4.600 tu viện bị phá hủy,
hơn 260.000 tăng, ni bị ép buộc hoàn tục, hơn 40.000 ngôi chùa
bị phá hủy. Có lẽ cũng vì vậy nên Lâm Tế phải di chuyển
luôn và sau đó thì đến Hà Bắc, góc nam thành Ðông Trấn
Châu, đất Lâm Tế trụ trì tại một ngôi chùa của Phổ
Hóa (TrH: P'u Hua). Tại đây có quan Tri phủ là Vương Thường
Thị và các quan trong phủ thường tới hỏi đạo và cũng
ít nhất là hai lần mời Lâm Tế tới thuyết pháp. Khi giảng
pháp thì Lâm Tế có đặc điểm là dùng tiếng hét hoặc lấy
gậy đánh! Nhiều khi có người tới thưa hỏi về Phật pháp
thì Lâm Tế lớn tiếng hét chứ không nói gì khác. Nhiều
người không hiểu gì, nhưng cũng có nhiều người chỉ nhờ
tiếng hét đó mà đại ngộ.
Sau
khi tổ thị tịch, nhà vua ban cho hiệu là Huệ Chiếu Thiền
Sư, ngôi chùa hiệu Trừng Linh.
Ðệ
tử của tổ là Tam thánh Huệ nhiên (TrH: San-sheng Hui-jan) ghi
chép được những lời thuyết pháp cùng những mẩu chuyện
về đời sống của tổ và viết cuốn Lâm Tế Ngữ Lục (TrH:
Lin Chi ch'an-shih yu-lu, Nh: Rinzai Roku, Recorded Sayings of Ch'an Master
Lin-chi). Cuốn này có ghi lời tựa của một vị quan là Ma
Fang, viết vào năm 1120. Lời tựa rất ngắn, tóm tắt cuộc
đời của tổ và ghi rõ là cuốn này đã được sưu tập
kỹ lưỡng. Cuốn này được Burton Watson dịch đầy đủ với
tên sách là The Zen Teachings of Master Lin Chi, tài liệu này căn
cứ theo cuốn sách đó.
Pháp
môn Lâm Tế
Thời
đại của các tổ Mã Tổ, Bá Trượng, Hoàng Bá, Lâm Tế,
thuộc đời Ðường, thường được coi là thời cực thịnh
của Thiền tông tại Trung Hoa. Riêng địa vị của tổ Lâm
Tế lại nổi bật vì tổ thành công trong việc đem những
tinh hoa của Thiền tông từ tổ Bồ Ðề Ðạt Ma cho tới tổ
Hoàng Bá vào một pháp môn thực tiễn để đạt tới mục
đích cứu cánh. Những bài giảng về Tứ liệu giản, Tam huyền,
Tứ đoạt, Tứ vô tướng .. đã hướng dẫn được những
người theo đạo biết những bước đi cụ thể. Ðiểm đặc
biệt là tông Lâm Tế sau này chú trọng vào việc thiền theo
lối công án, còn tông Tào Ðộng thì chú trọng vào việc
ngồi thiền (tọa thiền). Ðó là nói đại cương chứ không
có nghĩa là tông Lâm Tế không ngồi thiền.
Thiền
và Giáo
Trước
khi tu hành theo Thiền tông thì tổ Lâm Tế đã rành biết về
Kinh, Luật. Nhưng sau khi ngộ lý Thiền thì có nhiều lời giảng
mới nghe như có tánh cách bài bác kinh điển.
-"Các
nơi nói lục độ, vạn hạnh cho là Phật pháp. Ta nói đó
là cửa trang nghiêm, cửa Phật sự, chẳng phải là Phật pháp."
-Vương
thường Thị đến thưa hỏi tổ, theo tổ đến trước tăng
đường, xem xong liền hỏi:
"Tăng
chúng trong tăng đường này có xem kinh chăng? " Tổ đáp: "
Chẳng xem kinh. ", "Lại học thiền chăng? ", "Chẳng học thiền.
", "Kinh đã chẳng xem, thiền lại chẳng học, cứu cánh làm
cái gì? ", "Thảy dạy họ làm Phật, làm Tổ."
Tổ
đến Hoàng Bá, thấy hòa thượng xem kinh. Tổ nói: "Tôi sẽ
bảo người ấy, xưa nay là hòa thượng già đếm đậu đen."
(đậu
đen: ý nói các chữ viết trên giấy)
Thực
ra mười hai phần giáo nói ra chỉ là để hiển bầy lẽ này,
kẻ học không lãnh hội bèn hướng vào danh cú mà vọng hiểu
biết, ấy đều là có y, có dựa, còn trong vòng nhân quả,
chưa ra khỏi sanh tử luân hồi trong tam giới - xem kinh, xem
giáo cũng là tạo nghiệp.
Một
niệm duyên khởi vô sanh, siêu việt quyền học tam thừa."
Như
vậy phải chăng Tổ có ý chê bai kinh điển và ngăn cấm đệ
tử xem kinh? Nhớ lại trong Kinh Pháp Bảo Ðàn có ghi việc
vị tăng Pháp Ðạt đến tham vấn Lục Tổ Huệ Năng với
tâm niệm tự phụ vì đã tụng 3.000 lần bộ kinh Pháp Hoa.
Khi Lục Tổ hỏi về nghĩa kinh thì Pháp Ðạt thú nhận là
không hiểu ý cùng căn bổn của kinh. Lục Tổ sau khi giảng
về "tông" của kinh thì có nói tiếp: "Người thế gian,
ngoài mê thì dính tướng, trong mê thì dính Không. Nếu đối
với tướng mà lìa tướng, đối với Không mà lìa Không thì
trong ngoài chẳng mê. Nếu hiểu rõ pháp này, một niệm tâm
mở sáng, ấy là mở Tri Kiến Phật." Sau khi tỏ ngộ thì
Pháp Ðạt có hỏi: "Nếu vậy, hiểu được nghĩa, thì chẳng
cần tụng kinh? " Lục Tổ đáp: "Kinh có lỗi gì, há có
ngăn trở sự tụng niệm của ngươi đâu. Miệng tụng mà
tâm làm theo nghĩa kinh, tức là mình chuyển kinh. Miệng tụng
mà tâm chẳng làm theo kinh, tức là mình bị kinh chuyển."
Chính vì những người bị kinh chuyển mà tổ Lâm Tế mới
nói là không cần xem kinh. Xem kinh mà hiểu rằng những lời
Phật dạy về những pháp tu là phương tiện để hoá độ,
để trang nghiêm cửa Phật chứ chưa phải là cứu cánh. Tổ
Hoàng Bá, trong cuốn "Truyền Tâm Pháp Yếu", có dạy: "Nhiều
người chỉ học biết để ngộ theo Giáo Pháp, mà không biết
tới Tâm Pháp, nên dù đến vô số kiếp cũng không đạt được
Phật đạo. Cho nên chỉ cần hiểu rõ Tâm này thì không cần
phải tìm Pháp nào khác, vì Tâm tức Pháp." Tổ Lâm Tế
giảng: "Thế nào là Pháp? Pháp là tâm pháp. Tâm pháp không
hình, thông xuốt mười phương, hiện dụng trước mắt. Người
tin không đến, bèn nhận danh, nhận cú, hướng vào danh tự
tìm cầu, lấy ý để suy xét Phật pháp, thật cách xa như
trời với đất.
-
Có vị tăng hỏi: "Thế nào là chân Phật, chân Pháp, chân
Ðạo, xin thầy chỉ dạy." Tổ đáp: "Phật là tâm thanh tịnh,
Pháp là tâm sáng suốt, Ðạo là mỗi chỗ không chướng ngại.
Tịnh, sáng, không chướng ngại .. tuy ba mà một, đều là
danh từ suông, không thật có."
-
Người học không hiểu, chấp danh cú, bị danh phàm thánh làm
chướng ngại. Mười hai phần giáo nói ra cốt biểu hiển
lẽ này. Học giả không hội, bèn nhằm trên danh cú biểu
hiển sanh hiểu, đều là nương tựa rơi tại nhân quả, chưa
khỏi sanh tử trong tam giới. "
Như
vậy nên nay nói Thiền Giáo song tu thì không phải là ý các
tổ vậy. Kinh điển có thể giúp người tu một phần nào
căn bản để đạt lý Thiền, như Lục tổ Huệ Năng chỉ
nghe một câu trong kinh Kim Cang mà ngộ, thiền sư Huyền Giác
xem kinh Duy Ma Cật mà ngộ, nhưng đối với Thiền tông thì
kinh điển là một phương tiện để tu hành, cho nên không
đặt nặng vấn đề xem và tụng kinh. Ðức Sơn (780-865), tinh
thâm kinh luật, chuyên giảng kinh Kim Cang, nên lúc đầu chê
bai Thiền tông nhưng khi gặp thiền sư Sùng Tín thì mới thấy
sự sai lầm và xin ở lại học Thiền. Sau khi ngộ rồi sư
mới thấy là kinh điển không phải là cứu cánh, và sư nổi
lửa đốt hết bộ sớ sao.
Thiền
tông không chú trọng về kinh điển, không phải vì có ý chê
bai nhưng cho rằng nếu không được xử dụng đúng thì còn
có thể gây chướng ngại cho pháp tu nữa. Mỗi tông phái đều
có pháp tu riêng biệt cho nên nếu đem pha trộn với pháp tu
khác thì chẳng bao giờ có kết quả tốt đẹp được. Những
người lập ra các pháp song tu là tỏ ra ý nghĩ chê bai tổ
các tông phái nên pha chộn 2, hoặc 3 tông khác nhau để lập
ra tông mới mà chẳng giống chút nào ý các tổ của mỗi
tông.
Chỉ
thẳng người đang nghe pháp
Các
tổ trước thời tổ Lâm Tế đều chỉ rõ mục đích của
Thiền tông là thấy Tánh (kiến tánh), nhưng tổ có đặc điểm
là nhân cách hóa "cái đó":
"Trên
cục thịt đỏ* có vị chân nhân không ngôi vị*, thường
từ cửa mặt (từ sáu căn) các ông ra vào. - Chỉ có
đạo nhân vô y* đang nghe pháp là cội nguồn của chư Phật,
vì chư Phật đều từ vô y sanh - Cái người hiện nay đang
nghe pháp đó, chẳng phải là tứ đại của các ông. Tứ đại
các ông không biết nghe pháp và nói pháp. Hư không cũng không
biết nói pháp và nghe pháp. Vậy cái gì biết nói pháp và
nghe pháp, ấy là cái không hình dáng mà sáng tỏ rõ ràng trước
mắt của các ông đó. Nếu thấy được như thế thì cùng
Phật, Tổ không khác - Các ông nếu muốn đi lại tự do trong
sanh tử thì phải nhận biết cái người đang nghe pháp đây,
vốn là vô hình, vô tướng, vô căn, vô bản, không nơi trụ,
mà hoạt bát rõ ràng, ứng dụng muôn thứ. Thực ra chỉ có
người hiện nay đang nghe pháp ngay trước mắt các ông đây,
vào lửa chẳng bị cháy, vào nước chẳng chìm, vào địa
ngục tam đồ như đi dạo vườn hoa, vào ngạ quỷ súc sanh
mà chẳng thọ ác báo."
-
Các ông muốn nhận biết chư Phật, chư Tổ chăng? Chính là
người đang nghe pháp trước mắt đây. Học nhân thiếu tự
tin bèn hướng ngoại tìm cầu. Dẫu cho tìm được cũng đều
chỉ là văn tự, danh tướng, trọn chẳng được ý của Tổ
sống. "
(*)
"Cục thịt đỏ" là sắc thân. "Vô ngôi vị" có nơi dịch
là vô địa vị, bản Anh văn dịch là "no ranks". "Vô y" là
không có nương vào đâu, vượt khỏi vòng phân biệt, đối
đãi, bản Anh văn dịch là "depend on nothing".
Tổ
nhắc đi nhắc lại nhiều lần để chỉ rõ vị chân nhân,
"cái người đang nghe pháp", ngay trước mắt và ngay hiện tại.
Thấy được người đó là ngang với Phật, Tổ. Cách giảng
dạy đó thật là độc đáo, khác hẳn các vị tổ trước.
Những
chiếc áo
Tổ
nói: "Các đạo lưu! Ðừng có bị lôi cuốn vì những cái
áo! - Có cái áo thanh tịnh, có cái áo vô sanh, áo bồ đề,
áo niết bàn, áo Tổ, áo Phật. - Các ông có biết cái người
mặc áo không? " Chúng ta thường chỉ nhìn thấy những
cái áo mà không biết "người" mặc cái áo đó ra sao. Thấy
được Người mặc những cái áo mới chính là điều mà đức
Phật muốn chỉ cho chúng ta biết, nhưng vì phương tiện nên
đức Phật tùy lúc mà cho mặc áo này, áo kia để chúng ta
dễ hiểu, cùng như tùy lúc mà đã dùng những danh tự khác
nhau để chỉ "người đó". Nhưng chúng ta chỉ mải mê nhắm
vào danh tự, say mê về những cái áo mà không thấy được
nghĩa thâm sâu của đạo. Khó mà chỉ ngay cái Người đó
được vì nó "vô hình, vô tướng, thông xuốt mười phương",
danh
tự, ngôn cú không diễn tả được, cho nên đức Phật khéo
léo choàng cho nó những cái áo khác nhau để chúng sanh tùy
căn cơ mà có thể hiểu được. Chúng ta sai lầm khi chỉ biết
trầm trồ ngắm nghía cái áo mà không thấy được Người
mặc cái áo mà đức Phật muốn chỉ cho chúng ta. Tổ Bồ
Ðề Ðạt Ma từ Ấn Ðộ qua Trung Hoa cũng chỉ có mục đích
chỉ ra được Người đó. "Nếu thấy được như thế thì
cùng Phật, Tổ không khác." Thấy được vị "chân nhân
không ngôi vị", người dang nghe pháp trước mắt, người đạo
nhân không chỗ trụ (vô y), người mặc những cái áo nói
trên là điểm trọng yếu trong tông Lâm Tế.
Pháp
tu
Người
Phật tử nào khi hành đạo cũng tìm hiểu đường lối tu
hành như thế nào, tu để được gì. Nhưng tổ Lâm Tế lại
giảng: "Các ông! Các nơi đều nói có đạo để tu, có
pháp để chứng, Ông nói thử xem chứng pháp nào, tu đạo
nào? Nay chỗ dụng của các ông có thiếu vật gì, tu bổ chỗ
nào?"
Câu
nói đó thật làm đảo lộn những hiểu biết thông thường,
làm chúng ta bỡ ngỡ, thắc mắc. Phải chăng như vậy là tổ
cho rằng chẳng có gì để tu hết? Nói tu là thường được
hiểu như tu tâm, sửa tánh, để rồi được tới một cái
gì tốt đẹp, cao cả hơn đời sống hiện tại. Nhưng con
đường tu hành mà hiểu như vậy thì tuy có đắc, có chứng
được gì thì cái đó vẫn còn trong vòng nhân quả, rồi cũng
theo luật vô thường mà chấm dứt. "Nếu do tu mà đắc
được , đều là nghiệp sanh tử."
Câu
nói trên cũng có thể so sánh với câu của tổ Hoàng Bá: "Hỏi:
Thế nào là Ðạo, và thế nào là tu hành? Tổ Hoàng Bá đáp:
Ðạo là vật gì mà các ông muốn tu hành?"
Ðể
giảng dạy cho đệ tử sơ cơ thì nói có tu, có chứng. Còn
đối với người thượng căn mà vẫn còn chấp có tu, có
chứng thì không thể nào tiến tới chỗ thâm sâu của đạo
được. Thiền tông đặt mục đích là cần thấy Tánh, tức
chân tâm, Phật tánh, mà Tánh đó thì dù là chư Phật hay chúng
sanh cũng đều có như nhau, không phải tu mới được, không
phải chứng mới được. Trong kinh Bốn mươi hai chương, đức
Phật cũng có dạy là cúng dường cả triệu chư Phật không
bằng cúng dường người không tu, không chứng. Những lời
nói này cao siêu tột bực, cần phải học hỏi cho kỹ, kẻo
có người lợi dụng, nói bừa bãi là Phật, Tổ dạy là đâu
có cần tu.
Cách
dạy người
Theo
ngữ lục ghi chép thì thấy cách dạy người của tổ Lâm
Tế rất là đặc biệt.
"-
Tổ thấy một vị tăng đến, liền giơ cây phất trần lên.
Tăng lễ bái. Tổ bèn đánh.
Sau
đó lại có vị tăng nữa đến, tổ cũng giơ cây phất trần
lên. Ông tăng không màng đến. Tổ cũng đánh.
Lại
có vị tăng khác đến, tổ cũng lại giơ cây phất trần lên.
Ông tăng này nói: "Tạ ơn hòa thượng khai thị!" Tổ cũng
đánh.
-
Tổ thăng tòa, có một ông tăng ra. Tổ bèn hét, vị tăng cũng
hét, sau đó tăng lễ bái. "
Nếu
không đặt được mình vào hoàn cảnh, môi trường, tâm trạng
của những người lúc đó thì mọi sự suy luận, giải thích
hay chỉ trích cách dạy người đó chỉ là vô ích.
Các
tổ thường tránh việc giảng giải nhiều vì thấy rõ rằng
những lời nói, danh tự không thể giảng được tới chỗ
cứu cánh, mà nhiều khi lại còn khiến người nghe bám chặt
vào đó, suy tính để tìm hiểu thì lại càng xa đạo.
"-Hôm
nay sự bất đắc dĩ, sơn tăng chiều theo nhân tình mới lên
tòa này. Nếu nhằm dưới cửa Tổ tông, khen ngợi việc lớn,
hẳn là mở miệng không được.
-
Các ông nếu hay bặt được tâm luôn luôn chạy tìm, liền
cùng Phật, Tổ chẳng khác.
-
Như chỗ thấy của sơn tăng: không Phật, không chúng sanh,
không xưa, không nay, được liền đó được, chẳng trải
qua thời tiết, không tu không chứng, không được không mất.
Trong tất cả thời lại không có một pháp riêng.
-
Sơn tăng nói ra đều là một lúc thuốc bệnh trị, trọn không
có pháp thật. Nếu thấy được như vậy là người chân xuất
gia.
-
Các ông muốn cùng Phật, Tổ chẳng khác, chỉ chớ tìm kiếm
bên ngoài. Trên một tâm niệm thanh tịnh sáng suốt của ông
là ngôi nhà Phật pháp thân của ông. Trên một tâm niệm vô
phân biệt sáng suốt của ông là ngôi nhà Phật báo thân của
ông. Trên một tâm niệm vô sai biệt sáng suốt của ông là
ngôi nhà Phật hóa thân của ông. Chỉ không tìm kiếm bên
ngoài liền có công dụng này.
-
Nếu niệm đã khởi chớ cho tiếp tục, mà niệm chưa khởi
đừng cho sanh khởi. Làm được như thế thì hơn đi hành cước
mười năm. Ðừng để bất cứ nội, ngoại vật nào trói
buộc, gặp chướng ngại nào cứ đạp bỏ hết: gặp Phật
giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, cho đến gặp gì cũng giết
cả. Ðó là con đường duy nhất để đi đến giải thoát.
(giết
có nghĩa là bỏ cái tâm chấp trước, để khỏi bị tâm và
cảnh dính mắc)
-
Người học từ bốn phương đến, sơn tăng ở dây phân chia
căn cơ để tiếp độ. Có khi đoạt nhân chẳng đoạt cảnh,
có khi đoạt cảnh chẳng đoạt nhân, có khi nhân cảnh đều
đoạt, có khi nhân cảnh đều chẳng đoạt." (Ðây là pháp
Tứ
liệu giản, rất quan trọng trong việc giảng dạy, vị
thiền sư chân chánh cần hiểu rõ căn cơ người học để
tùy theo đó mà dẫn dắt họ. Pháp này chỉ rõ đường tu
hành đi từ phân biệt hai bên, đến chỗ phủ nhận cả hai
bên và cuối cùng đến chỗ không phủ nhận, không phân biệt,
tức như như.)
Chỉ
rõ những lối tu sai lầm
Tổ
cũng chỉ rõ những sai lầm của những người tu học mà không
có sự hiểu biết chân chánh:
"-
Nói rằng ta hiểu thiền, hiểu đạo, biện luận thao thao như
nước chảy, đều là người tạo nghiệp địa ngục.
-
Dù cho đến ở trên chóp núi, một ngày ăn một bữa, thường
ngồi chẳng nằm, sáu thời hành đạo, vẫn là người tạo
nghiệp.
-
Ðạo lưu! Phật pháp không có chỗ dụng công, chỉ bình thường
vô sự, đi đại, đi tiểu, mặc áo, ăn cơm, nhọc đến thì
nằm. Người ngu cười ta, người trí biết ta. Người xưa
nói: "Làm công phu bên ngoài, thảy là kẻ ngu si."
-
Sơn tăng nói hướng ngoài chẳng có pháp, học nhân không lãnh
hội được bèn cho là hướng trong, rồi liền dựa vách ngồi
trạm nhiên chẳng động; chấp lấy cái này là Phật pháp
của tổ môn, thực là sai lầm lớn. Nếu ông chấp lấy cảnh
thanh tịnh, bất động là đúng, vậy tức là ông nhận cái
vô minh làm chủ.
-
Các đại đức! Ðộng với bất động là hai thứ cảnh, còn
đạo nhân vô y thì động cũng dùng, bất động cũng dùng.
-
Người chân xuất gia phải biện được kiến giải chân chánh
bình thường, biết Phật, biết ma, rành chân, rành ngụy, rõ
phàm rõ thánh. Nếu biện được như thế, gọi là chân xuất
gia. Nếu ma, Phật không biết, chính là xuất gia này vào gia
kia, gọi là chúng sanh tạo nghiệp, chưa được gọi là người
chân xuất gia.
-
Cái lục thông của Phật thì chẳng phải vậy. Nghĩa là: vào
sắc giới chẳng bị sắc mê hoặc, vào thanh giới chẳng bị
thanh mê hoặc, vào hương giới chẳng bị hương mê hoặc,
vào vị giới chẳng bị vị mê hoặc, vào pháp giới chẳng
bị pháp mê hoặc. Cho nên nói hiểu rõ sáu thứ: sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp đều là tướng không, chẳng bị trói
buộc, ấy là đạo nhân vô y. (Chúng ta thường hiểu lục
thông theo các kinh điển là: (1) Thần túc thông, (2) Thiên nhĩ
thông, (3) Tha tâm thông, (4) Túc mạng thông, (5) Thiên nhãn thông
và (6) Lậu tận thông. Nhưng Tổ thấy rằng lục thông đó
không liên hệ gì đến con đường tu hành giải thoát.)
Tóm
lược
Cuốn
Truyền Tâm Pháp Yếu của tổ Hoàng Bá đã giảng dạy về
nền tảng giáo lý rõ ràng, đầy đủ về Tâm, còn cuốn ngữ
lục của tổ Lâm Tế thì có những lời giảng thực dụng,
chỉ rõ đường lối tu hành, nhất là những sai lầm để
biết đường mà tránh. Muốn tu học về Thiền tông thì không
thể nào thiếu xót được những lời dạy của các tổ.
Nhiều
người cho rằng những lời dạy của Tổ Lâm Tế nhiều khi
có vẻ quá mạnh, nhất là đối với những người xuất gia
không chân chánh. Thực ra vì lúc trước Tổ đã là người
thông hiểu kinh điển và Tổ thấy rõ những đường lối
tu hành của số đông thì tuy có kết quả đó, nhưng thực
ra vẫn còn trong vòng duyên khởi, sanh diệt. Tổ ví như mũi
tên bắn ra từ cây cung, khi có sức mạnh sẽ bay cao và xa,
nhưng khi hết đà thì vẫn phải rớt xuống. Tu trong vòng hữu
vi thì vẫn có được phước tốt đó, nhưng khi hết phước
sẽ trở lại tình trạng trước, vẫn còn loanh quanh trong vòng
luân hồi, chưa phải là con đường giải thoát mà đức Phật
chỉ dạy. Do đó khi Tổ hiểu được pháp tu đốn ngộ truyền
từ Lục Tổ Huệ Năng thì Tổ thiết tha trong việc giáo hóa
đệ tử nên nói mạnh để thức tỉnh họ ra khỏi cơn mê,
chỉ biết phí sức theo đuổi những mộng huyễn: "Ðạo
lưu! Các ngươi chớ nhận lấy các mộng huyễn làm bạn, trong
khoảng sớm chiều sẽ trở về vô thường. Các ngươi đến
trong thế giới này tìm vật gì làm giải thoát? -Tam
giới duy tâm, vạn pháp duy thức, nên nói như mộng huyễn,
như hoa đốm trên không, cần gì phí sức nắm bắt." Trong
kinh Kim Cang, đức Phật có nói bài kệ: "Nhất thiết hữu
vi pháp, Như mộng, huyễn, bào ảnh, Như lộ diệc như điển,
Ưng tác như thị quán. " (dịch: Tất cả pháp hữu vi, Như
mộng, huyễn, bọt bóng, Như sương cũng như chớp, Nên khởi
quán như thế). Có hiểu được điều này thì mới biết được
con đường tu hành chân chánh của đạo Phật.
Tổ
dạy khi tu hành phải có sự hiểu biết (kiến giải) chân
chánh để cương quyết gạt bỏ mọi chướng ngại về hình
thức, về danh từ, khái niệm xuông, để tiến thẳng tới
đích. Vì vậy đã có câu nói sắc bén là "gặp Phật giết
Phật, gặp Tổ giết Tổ" mà chúng ta cần hiểu là nếu còn
bám, chấp vào mọi danh từ, khái niệm thì không thể nào
đến chỗ cứu cánh được. Nếu còn cứ nhìn miết vào ngón
tay thì không khi nào thấy được mặt trăng vậy. Tổ Lâm
Tế nói rõ là chỉ cần rời mắt khỏi ngón tay của đức
Phật và ngẩng mặt lên là nhìn thấy rõ ràng mặt trăng thiệt
chứ không phải mặt trăng trong bức hình hoặc mô tả bằng
văn chương bóng bảy. Mặt trăng đây chỉ cái Chân Tánh, Chân
Tâm, Tri Kiến Phật của mỗi người chứ không phải những
pháp hữu vi, mộng huyễn, vô thường mà chúng ta thường phí
sức chạy theo, bám níu.
Ngoài
ra chúng ta cũng cần cảnh giác là đã có Thiền "cuồng" căn
cứ vào một câu hoặc nửa câu của các Tổ mà quyết rằng
chính các Tổ nói không cần phải đọc kinh điển, phải dẹp
hết, chẳng cần ngồi thiền, chẳng cần cả lục độ, vạn
hạnh và .. dĩ nhiên là chỉ học theo lời của các vị giáo
chủ đó thôi. Ðó chính là lý do mà chúng ta, dù không tu học
Thiền tông, cần phải học hỏi kỹ lời dạy của các Tổ
để tránh xa những người mà các Tổ cho là "làm mù mắt
thiên hạ".
Tài
liệu trích dẫn:
Hình
vẽ: Tổ Lâm Tế - của họa sĩ Nhật Suio, thế kỷ thứ 18.
-
The Zen teachings of Master Lin-Chi, bản dịch của Burton Watson,
1993.
-
The Zen Teaching of Rinzai, bản dịch của Irmgard Schloegl, 1975.
-
Zen Buddhism: A History - India and China, của Heinrich Dumoulin, 1988.
-
Lâm Tế Ngữ Lục, bản dịch của thiền sư Thích duy Lực.
-
Băng giảng "Lâm Tế ngữ lục" của thiền sư Thích thanh Từ.
|