|
.
CUỘC ĐỜI
AJAHN CHAH
Tâm
Thái
Ajahn
Chah (danh xưng chánh thức do chùa Wat Pah Pong, Thái Lan dùng,
cũng có nơi phiên âm là Achaan Chah) (1918-1992) là một vị cao
tăng Thái Lan nổi tiếng về pháp Thiền thuộc Phật giáo Nguyên
Thủy. (Ajahn là danh tôn xưng, không phải là tên). Ðại đức
tu theo truyền thống khổ hạnh của các vị tăng chỉ sống
trong rừng chứ không ở chùa tại các đô thị. Các vị tăng
này nhiều khi chỉ sống dưới gốc cây hoặc sau này chỉ
ở tại các nơi xa xôi, hẻo lánh, các vị chỉ lập một chỗ
sơ sài để tu hành, mà không làm những công việc khác như:
cúng lễ, dạy học, nghiên cứu kinh điển. Các vị tăng này
xa lánh các nơi đông đúc vì muốn để hết thời giờ vào
việc hành Thiền một cách toàn vẹn và nghiêm chỉnh. Ajahn
Chah sinh trưởng trong một gia đình khá giả tại miền đông
bắc Thái Lan. Ðại đức xuất gia rất sớm và thọ giới
Tỳ kheo năm 20 tuổi. Ðại đức theo học nhiều thầy, trong
đó có Ajahn Mun là vị tăng Thái lan nổi tiếng. Sau nhiều
năm di chuyển trong rừng, tu theo pháp khổ hạnh, đại đức
trở về gần vùng nơi sanh trưởng và sống tại một khu rừng
rậm, không có người ở, chỉ có nhiều hổ, rắn. Nhưng sau
một thời gian thì nhiều người biết và đến xin thụ huấn
nên dần dà trở thành chùa Wat Pah Pong, gồm nhiều nhà nhỏ
rải rác quanh đó. Sau đó tại Thái Lan hàng trăm chùa theo
pháp Thiền của đại đức đã được thành hình do các đệ
tử của đại đức dựng lập. Ðại đức đã đi thuyết
pháp tại Anh, Mỹ và Gia nã đại. Một số rất đông người
Tây phương đã đến Wat Pah Pong thụ huấn và nhiều người
đã thành Tăng và trở về nước tiếp tục truyền bá Phật
pháp. Chùa lớn nhất tại ngoại quốc ở tại Chihurst (1979)
và Amaravati (1984), Anh quốc với vị tăng gốc Mỹ Ajahn Sumedho
trụ trì. Ngoài ra nhiều ngôi chùa khác cũng được thành lập
tại Thụy Sỹ, Úc và Tân tây Lan. Ajahn Chah mất đi năm 1992
tại Thái Lan. Nhiều sách bằng tiếng Anh ghi lại những bài
thuyết pháp của đại đức đã được xuất bản, một số
đã được Trung Tâm Narada tại Kent, Washington dịch ra tiếng
Việt.
Pháp
Thiền của Ajahn Chah
Cũng
như các pháp Thiền khác của Phật giáo Nam Tông nên có thể
gọi pháp Thiền của đại đức là vipassana nhưng việc thực
hành rất đặc biệt, được mô tả là "đi thẳng vào trọng
tâm của Thiền Phật giáo"[4]. Pháp hành Thiền của
đại đức giản dị và trực tiếp để định tâm và đạt
trí huệ. Những bài thuyết pháp của đại đức đều dản
dị, không cầu kỳ với những danh từ khó hiểu, có những
thí dụ rất thiết thực nên đại đa số có thể hiểu và
hành được, mà vẫn theo đúng Phật pháp thâm sâu. Ðại đức
không chọn một phương pháp cố định nào mà chỉ tùy theo
hành giả mà chỉ dậy. Có người hỏi đại đức tại sao
nhiều khi những lời giảng gần như mâu thuẫn nhau thì đại
đức nói "Như tôi nhìn người bước đi trên đường,
nếu người đó sắp té về rãnh bên phải thì tôi nói họ
phải bước qua trái, nếu người đó sắp té về rãnh bên
trái thì tôi nói họ phải bước qua phải. Việc tu tập chỉ
là giữ cho tâm thăng bằng, không chấp vào gì cả, cần buông
xả hết." [4]
Ðại
cương pháp tu là theo dõi hơi thở ra vào cho đến khi tâm an
định, sau đó quán xét sự diễn tiến của thân, tâm để
thấy rõ tính cách Vô thường, Khổ, Vô ngã của chúng. Sự
theo dõi, thấy biết (awareness) một cách tự nhiên về hơi
thở cũng như về sự diễn tiến (sinh, trụ, diệt) của thân,
tâm là điều căn bản của pháp Thiền này. Cần giữ sự
hằng biết (mindfulness), tức sự thấy biết đó một cách
liên tục, không bị ngoại cảnh cũng như những ý nghĩ lăng
xăng làm gián đoạn. Theo đại đức thì đạo Phật chủ yếu
là tu tâm để đạt đến giác ngộ, giải thoát. Tu tâm đây
không chỉ riêng có nghĩa đơn giản là làm điều thiện, tránh
điều ác, mà là nhìn thẳng vào tâm, quán xét cho kỹ để
biết rõ sự hoạt động và bản tính của nó. Muốn tu tâm
thì hành giả phải tự cố gắng, kiên trì chứ không có đấng
thần linh nào làm thay mình được. Nhưng mỗi người có một
tâm khác nhau nên cũng khó nói có một pháp nào áp dụng cho
tất cả mọi người được, vì vậy đức Phật đã chỉ
nhiều pháp khác nhau để mỗi người tùy căn cơ áp dụng.
Như trong kinh Tứ Niệm Xứ (Pali: Satipatthana Sutta), là kinh căn
bản của Thiền Vipassana, có kể đến nhiều pháp hành khác
nhau chứ không định rõ một pháp riêng biệt nào. Vì vậy
chúng ta không nên ngạc nhiên khi cùng một tên gọi là Vipassana
mà phương pháp của mỗi vị tăng có thể thấy như khác nhau
mặc dầu cùng chung một mục đích.
Tu
Chỉ
Pháp
Thiền Phật giáo nào cũng khởi đầu bằng tu Chỉ (Samatha)
để tập cho tâm yên tĩnh rồi mới tiến đến tu Quán. Pháp
tu của Ajahn Chah rất là thực tế, dễ hiểu nên nhiều người
có thể áp dụng được. Theo đại đức thì bước đầu cần
áp dụng pháp "theo dõi hơi thở" (Anapanasati) bằng cách chú
ý vào chóp mũi hoặc môi trên gần chân mũi, để thấy rõ
hơi thở ra, hơi thở vào ở nơi đó. "Ðiểm chánh là
phải ghi thấy rõ hơi thở trong khi thiền, như vậy hành giả
hằng biết lúc nào hơi thở ra và lúc nào hơi thở vào.Khi
bước đi thì thấy rõ cảm giác khi chân chạm đất."[1]
Lúc đầu nếu chưa chú tâm được thì có thể theo dõi hơi
thở vào đi qua mũi, ngực, bụng, còn hơi thở ra từ bụng
lên ngực và mũi. Sau khi đã có tiến bộ về sự chú tâm
thì chỉ cần theo dõi hơi thở ở mũi thôi. Trong bước đầu
mà sự chú tâm còn yếu thì có thể dùng câu chú "Bud-dho"
mỗi khi hơi thở vào và ra. Cũng có thể niệm "Dharmo" hoặc
"Sangho"[3]. Câu chú chỉ có mục đích chú tâm chứ
không có mục đích nào khác nên đại đức nói là có thể
dùng câu nào khác cũng được[1]. Ðiều cần là phải
tập cho đều thì mới có kết quả tốt. Khi đang theo dõi
hơi thở nếu có ý nghĩ khác chợt đến thì cần gạt đi
để chỉ thấy biết có hơi thở. "Ðừng nghĩ đến điều
gì hết - chỉ theo dõi hơi thở",[1] đó là
điều mà đại đức nhắc nhiều lần. Trong khi tu Chỉ thì
"Ðừng nghĩ" đây không phải là chỉ nói riêng đến những
ý nghĩ lăng xăng vô ích mà ngay cả những ý nghĩ như cố
giữ cho tâm an tịnh, như cố gắng để chứng đắc, hoặc
cố giữ cho đừng có ý nghĩ nào nổi lên[3]. Ðiều
khó khăn khi bắt đầu tu Chỉ là hành giả muốn tâm yên tĩnh
để chú tâm theo dõi hơi thở nhưng những ý nghĩ không đâu
vẫn ào ào nổi dậy, mặc dù có đem hết ý chí cương quyết
để dẹp bỏ mà không được. Hành giả trở nên chán nản
vì cái tâm "bất trị" và cho rằng không thể nào tu được.
Ðại đức thấy rõ điều này nên trong nhiều bài giảng đã
chỉ kỹ càng. Ðiều cần trước hết là phải kiên trì tiếp
tục vì tu tập lâu ngày sẽ có kết quả tốt chứ không thể
muốn gì cũng cấp tốc, tức khắc. Ðiểm chánh là cần biết
nhìn thẳng vào tâm mình để hiểu nó thì mới có kết quả
được. Cái tâm chưa được luyện tập thì đặc tính tự
nhiên của nó là vọng động, chạy chỗ này, chạy chỗ kia,
không lúc nào ngừng. Ðặc tính của tâm phàm là vậy, mình
đang sống với phiền não thì tâm đó không ngừng dao động.
Thấy được tánh chất của tâm phàm là vậy thì mình sẽ
không thấy khổ sở và chán nản khi muốn trị nó ngay mà
không được. Thấy điều đó là đã bắt đầu nhìn rõ "như
thực", tức vạn vật thế nào, thấy được như vậy. Lúc
đó hành giả có thể nói: "À thì ra tâm vọng nó là như vậy."
Hành giả sẽ không còn thấy cần phải chống đối với nó
nữa. Sau đó hành giả chỉ cần "theo dõi" hơi thở, tức là
chỉ thấy biết một cách tự nhiên, không phải chủ ý điều
khiển hơi thở, cũng không phải là tập trung tư tưởng. Ðại
đức kể kinh nghiệm riêng: "Khi tôi không làm gì đặc
biệt hết và tôi không đang hành Thiền, thì tôi thấy bình
thường. Nhưng khi tôi có chủ ý là tập trung tư tưởng thì
tâm trí tôi rối loạn. Mọi cố gắng để bắt buộc tâm
mình an tĩnh chỉ là biểu thị sự bám chấp và mong cầu,
điều đó lại càng khiến tâm rối loạn"[2].
Tâm đang rối loạn mà nay lại thêm ý muốn là mình phải
trị cho nó yên lặng, chỉ làm tăng thêm sự rối loạn. Nói
như vậy không phải là hành giả cứ ngồi yên để các phiền
não tiếp tục khuấy động như trước. Chính lúc hành giả
thấy rõ những cảm giác, ý nghĩ lăng xăng nổi lên và hiểu
rằng chúng chỉ là trạng thái tự nhiên của tâm vọng thì
sẽ thấy là chúng không có một thực thể mà chỉ là hiện
tượng do duyên nào đó tạo ra thôi và do mình bám níu mà
có. Thí dụ như khi đang ngồi Thiền mà có tiếng động nào
đó làm mình cảm thấy bực tức, khổ sở. Thực ra tiếng
động tự nó đâu có ý thức muốn gây phiền não cho hành
giả. Mà chính là tâm hành giả đã tạo ra phiền não đó.
Tiếng động là một hiện tượng ở ngoài, mà tâm hành giả
đã thọ nhận rồi tạo ra sự bực tức. Chỉ cần coi tiếng
động là tiếng động, tâm mình là tâm mình, không bám níu,
không chấp vào đó thì mọi sự an bình. Biết như vậy, hành
giả chỉ cần ghi nhận những ý nghĩ, cảm giác nổi lên mà
không chạy theo, bám níu chúng thì tự chúng sẽ qua đi, sau
đó hành giả tiếp tục chú tâm vào việc theo dõi hơi thở.
Ðó là hành giả đã biết tách rời tâm và cảm giác, không
để tâm bị cảm giác chi phối. "Cảm giác" (feeling, danh từ
Pali là Vedana, tức Thọ) dùng theo nghĩa của đại đức là
những tâm trạng khởi lên khi ngoại cảnh hoặc hình bóng
ngoại cảnh qua sáu căn, tác động vào tâm.[2] Ngay
những lúc không ngồi Thiền, hành giả vẫn theo dõi tâm trạng
của mình đễ biết rõ chúng đang ở trạng thái nào, đang
bị những cảm giác nào chi phối. Biết chúng nhưng không để
chúng chi phối tâm mình. Khi sự chú tâm đã thuần thục thì
tâm sẽ trở nên an tịnh. Pháp tu này có lợi là khi có sự
hằng biết, tức là chú tâm một cách liên tục, thì tâm vẫn
giữ được an tịnh ngay trong mọi tư thế như đi, đứng,
nằm, ngồi chứ không phải chỉ an tịnh khi ngồi Thiền, còn
khi đi, đứng thì tâm lại rối bời như trước. Mục đích
của tu Chỉ là đạt được Ðịnh. Ðại đức cũng lưu ý
những hành giả khi đã đạt được Ðịnh trở nên mê mải,
hài lòng và tự mãn với tình trạng đó: "Khi hằng biết
về mọi tác động và hoạt động của mình thì hành giả
đạt được tâm an định và trong sáng. Nhưng cái an định
này không phải là mục đích cuối cùng của việc tu hành.
Tình trạng an định giúp cho tâm tạm thời yên tịnh, cũng
như ăn thì tạm thời làm hết cơn đói lúc đó, nhưng không
phải chỉ có thế là đủ. Hành giả cần biết dùng tâm an
định đó để nhìn sự vật dưới một ánh sáng mới, ánh
sáng của Trí huệ." [3]
Tu
Quán
Khi
tâm đã an định thì bỏ sự chú tâm theo dõi hơi thở và
bắt đầu tu quán (vipassana). Quán rõ thân và tâm này chỉ
là năm uẩn (khandhas) tức là sắc, thọ, tưởng, hành và thức
hợp thành. Quán rõ các uẩn đó sinh, trụ và diệt như thế
nào và thấy rõ tính cách của chúng là Vô thường, Khổ và
Vô ngã (Anicca, Dukkha, Anatta). Thấy rõ được như vậy là thấy
chân lý về thân và tâm, tức là đạt được trí huệ (wisdom).
Nhiều người có quan niệm không đúng khi cho rằng có Ðịnh
là đương nhiên có Huệ. Ngoại đạo hay tà đạo cũng đạt
tới mức Ðịnh cao nhưng vẫn không đạt được Huệ. Theo
pháp Thiền này, khi biết quán đúng thì hành giả thấu hiểu
được bản chất của tâm, thấy rõ tâm đó vốn thanh tịnh,
chỉ có những cảm giác sướng, khổ nổi lên. Vì vậy như
khi hành giả cảm thấy khổ, thì chỉ cần ghi nhận có cảm
giác khổ xẩy ra chứ không đồng hóa tâm mình với cảm giác
đó. Hành giả không còn thấy muốn bám níu vào cảm giác
nào, dù cảm giác sướng cũng vậy. Chỉ cần ghi biết có
một cảm giác hiện ra, biết cảm giác đó sẽ theo luật vô
thường là nó đến rồi sẽ biến đi, đồng hóa với nó
là chuốc lấy khổ, vì vậy chẳng bám mà cũng chẳng cần
diệt nó. Thông thường chúng ta thấy điều nào hay thì giữ
lại, nhưng tu Thiền thật sự là dù điều hay, điều dở
cũng bỏ hết. "Cuối cùng thì phải ném đi hết. Nếu
điều nào sai, ném đi; điều nào đúng, cũng ném luôn."[2]
Khi
đã đạt Huệ thì thấy rõ tất cả những điều như sướng/khổ,
yêu/ghét, vui/buồn, phải/trái, hơn/thua .... đều chỉ là những
cảm giác, có tính cách Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã nên
đều đáng buông xả hết. Pháp Thiền này là: "Trước
hết, biết chú tâm theo dõi hơi thở là tu Giới (Sila), theo
dõi hơi thở cho đến khi tâm định là tu Ðịnh (Samadhi), quán
thấy hơi thở có tính cách Vô thường, Khổ và Vô ngã và
không còn tham luyến gì là tu Huệ (Panna)".[1]
Tu được Giới, Ðịnh, Huệ là đã tu Bát Chánh Ðạo (Eightfold
Path), là con đường Giải thoát. "Người nào tu hành và
đạt được chân lý này thì người đó sẽ thành Phật."[2]
Ðại đức nói thành "Phật" là thành "người giác ngộ" (One
Who Knows), danh từ này thường được nhắc nhở nhiều lần.
Ðại đức cũng giảng: "Thấy Thiên nhiên (Nature) là thấy
Pháp, thấy Pháp là thấy Thiên nhiên. Pháp là Thiên nhiên,
cho nên không có gì mà không phải là Pháp." [2]
"Tâm là Pháp" (The mind is Dhamma)[2] Thiên nhiên
đây có nghĩa là tất cả các sự vật về vật chất cũng
như về tinh thần. Vì vậy tu hành là biết rõ tâm này, cũng
là biết các Pháp. Cũng có thể hiểu chữ Nature (do các tác
giả dịch từ tiếng Thái lan ra) theo từ ngữ Thiền tông là
Tánh, tức bản thể của mọi vật. Việc tìm tòi, học hỏi
kinh điển chỉ là phương tiện để biết tâm này thôi. Tại
mỗi khóa Thiền, đại đức thường yêu cầu các thiền sinh
dẹp bỏ tất cả sách vở, dù là kinh điển, để chỉ chú
tâm vào việc tu tập, quán xét, tìm hiểu tâm mình. Ðại đức
không bác bỏ kinh điển, mà chỉ muốn cho chúng ta không nên
quá chú tâm vào việc tìm hiểu kinh điển mà không chú ý
tới việc thực nghiệm tu hành. Những điểm căn bản của
giáo lý vẫn thường được đại đức nhắc nhở nhưng không
quá chi tiết về những từ ngữ cao xa, bóng bẩy hay huyền
bí. "Sự hiểu biết do hành Thiền với một tâm an tịnh
khác xa với sự hiểu biết do học hỏi."[2]"Ðừng
đọc sách! Hãy đọc ngay tâm mình. [1]" "Phật
pháp không phải là ở trong sách. Nếu muốn thực sự thấy
lời Phật dạy thì đừng tìm ở trong sách. Hãy quán xét ngay
chính tâm mình. Quán xem các cảm giác đến và đi, các ý nghĩ
đến và đi. Ðừng bám níu vào bất cứ cái gì. [4]"
Tuy vậy cũng nên lưu ý là nếu không may mắn được gặp
những vị thầy chân chánh, như Ajahn Chah, mà gặp những thầy
tà, ngoại đạo rồi chê bai kinh điển thì không khỏi lầm
đường, lạc lối.
Tóm
tắt
"Yếu
chỉ của việc tu hành rất là giản dị, không cần phải
giải nghĩa dài dòng. Buông xả mọi điều yêu và ghét, mọi
sự vật thế nào thì chỉ coi chúng như vậy. Ðó là tất
cả kinh nghiệm của bản thân tôi. Ðừng cố để "trở thành"
một cái gì. Ðừng biến đổi mình thành một cái gì. Ðừng
coi mình như một người đang hành Thiền. Ðừng muốn trở
thành người giác ngộ. Khi ngồi, chỉ biết ngồi, khi đi chỉ
biết đi. Không bám chấp vào bất cứ gì. Không chống chọi
lại bất cứ gì."[3] Lời giảng mới nghe thì
thật khó hiểu nhưng đã biểu lộ sự thâm sâu pháp Thiền
của đại đức. Khó hiểu vì người nào khi tu hành cũng muốn
thành công, đạt được mục đích nào đó và cũng hiểu là
khi tu thì phải bỏ những tật xấu, lỗi lầm xưa nay để
được cái gì cao quý hơn. Nhưng theo những lời giảng đó
thì đại đức cho rằng tu như vậy là sai lầm cả sao. Tuy
vậy nếu coi kỹ thì thấy những lời đó không sai lạc với
lời dạy của đức Phật trong kinh 'Bốn mươi hai chương':
"Cúng một trăm người thiện không bằng cúng một người
trì năm giới. .... Cúng một trăm triệu đức Phật, không
bằng cúng một vị vô niệm, vô trụ, không tu, không chứng."
'Không tu' là không thấy có gì để mình trở thành, 'không
chứng' là không thấy có gì để chứng. Kinh Pháp Hoa chỉ
rõ tất cả chúng sinh đều sẵn có Tri kiến Phật, tức Phật
tánh, không phải là tu hành rồi mới có. Mà nói sẵn có thì
đâu có phải khi tu là được, là đắc gì. Nhưng hiểu như
thế thì những người không tu hành hoặc lười biếng tu hành
có cớ vin vào đó để không tu thì thật là hết sức sai
lầm. Ngoài ra còn có những người đã tu hành tới mức nào
đó mà tự mãn cho như thế là mình đã chứng đắc rồi.
Còn thấy có "mình" tức còn chấp Ngã, thấy có "chứng đắc"
tức còn chấp Pháp, như vậy chưa thể nói là tới chỗ cứu
cánh được.
Vài
đoạn pháp ngắn của Ajahn Chah
***
Dù chúng ta cảm nhận thế nào về đời sống của chúng ta,
thì cũng đừng tìm cách thay đổi sự vật. Thay vào đó, chúng
ta chỉ quán xét và biết chúng như vậy. Khi có Khổ mà biết
đó là Khổ thì cũng thấy con đường thoát Khổ. Tất cả
các pháp Thiền đều có giá trị là phát triển sự hằng
biết (mindfulness). Ðiều cần thiết là dùng sự hằng biết
để thấy được chân lý ẩn kín. Với sự hằng biết đó
chúng ta theo dõi các ham muốn, thích và ghét, hạnh phúc và
đau khổ, khi chúng hiện ra trong tâm. Thấy được chúng Vô
thường, Khổ và Vô ngã, chúng ta buông xả chúng. Như vậy,
trí huệ sẽ thay thế vô minh, trí biết sẽ thay thế nghi hoặc.
***
Khi đang ngồi Thiền mà tâm bị sao lãng thì ngừng lại và
chú tâm trở lại. Lúc đầu, khi muốn chú tâm vào một chỗ
thì tâm lại kéo mình đi nơi khác. Nhưng đừng kềm chúng
hoặc bực bội về chúng. Chỉ cần ghi biết thôi và để
mặc vậy. Tiếp tục như vậy. Samadhi sẽ tự nó đến. Khi
tiếp tục tu tập thì có lúc thấy hơi thở như ngừng lại,
nhưng đừng có sợ hãi, đó chỉ là cảm nhận ngừng lại.
***
Trong lúc ngồi Thiền có khi thấy những hiện tượng khác
thường hoặc những hình ảnh lạ lùng như thấy hào quang,
thiên thần hoặc Phật hiện ra. Khi thấy vậy thì quay lại
nhận xét tình trạng tâm mình lúc đó ra sao. Ðừng nên quên
điểm chánh này. Hết sức chú ý. Ðừng mong muốn những hình
ảnh đó hiện ra hoặc không hiện ra nữa. Quán xét những
hình ảnh đó, đừng để chúng lôi kéo đi. Coi chúng không
phải là tâm mình, chúng cũng chỉ có tính cách vô thường,
khổ và vô ngã. Ðừng coi chúng quá quan trọng. Nếu chúng
không biến đi thì tiếp tục chú ý vào hơi thở. Tất cả
chỉ là ảo ảnh, do tâm tạo ra, khiến mình ưa thích, bám
níu hoặc sợ sệt.
***
Nhiều khi mình muốn bắt cái tâm phải yên lặng, và chính
sự cố gắng đó lại làm cho tâm rối loạn thêm. Chúng ta
cần tập để buông xả tất cả lòng ham muốn, dù là ham
muốn giác ngộ. Có như vậy chúng ta mới được giải thoát.
***
Chúng ta không thể mong có được tâm an tĩnh ngay khi mới khởi
công hành Thiền. Chúng ta phải để cho tâm tự do nghĩ ngợi,
mặc nó hoạt động theo đặc tính của nó, chỉ cần quan
sát nó và không phản ứng theo nó.
***
Theo như tôi thấy, tâm như là một điểm, trung tâm của vũ
trụ, còn những trạng thái của tâm thì như những người
khách tới ở đó trong một thời gian ngắn hoặc dài. Cần
tìm hiểu những người khách đó cho kỹ. Làm quen với những
hình ảnh họ gợi ra, những câu chuyện họ bày ra để lôi
kéo mình theo họ. Nhưng đừng rời khỏi cái ghế mình đang
ngồi, chỉ có một cái ghế thôi. Nếu mình tiếp tục ngồi
chắc chắn và không rời ghế, để tiếp đón những người
khách đó khi họ đến, mà vẫn giữ vững sự thấy biết
để đổi tâm mình thành 'Người giác ngộ', người tỉnh
giác, thì những người khách đó sẽ không còn tới nữa.
Tài
liệu trích dẫn:
[1]
Bodhinyana, A collection of Dhamma Talks by the Venerable Ajahn Chah (Pra
Bodhinyana Thera), Wat Pah Pong xuất bản.
[2]
A Taste of Freedom, Selected Dhamma Talks by Ven. Ajahn Chah of Wat Pah
Pong
[3]
A Still Forest Pool, The Insight Meditation of Achaan Chah, của Jack
Kornfield và Paul Breiter.
[4]
Living Buddhist Masters, của Jack Kornfield.
|