|
. |
Ánh Sáng Á Châu
(Light of Asia)
Tác giả : Sir Edwin Arnold
Pháp dịch : L.Sorg
Việt dịch : Đoàn Trung Còn
--o0o--
Phần thứ bảy
Nhiều năm dài
dặc lần trôi,
Đức vua Tịnh
Phạn đứng ngồi buồn tênh.
Thường khi ngự
giữa triều đình,
Thánh hoàng nhớ
vọng tưởng hình Đông cung.
Da Du cũng mảng
sầu lòng.
Xuân thu nhiều
lượt, mà chồng bặt tin.
Lúc nào nghe
tiếng đồn lên,
Có nhà tu ẩn đến
bên hoàng thành;
Lệnh truyền sứ
giả đăng trình,
Thảy đều về tấu
đành rành như sau
Chúng tôi có gặp
chư tu
Ở nơi vắng lặng,
không đâu là nhà.
Hỏi thăm Thái Tử
Thích Ca,
Không ai biết
mặt cùng là nghe tên.
Hoặc Chàng ẩn
dật xa miền,
Thay tên đổi họ,
quy tiên không chừng!
***
Một hôm nhằm lúc
đầu xuân,
Cành xoài trổ
nụ, đất bừng khí tươi.
Trong vườn, công
chúa lặng người,
Dưới chơn, dòng
nước gợi khơi ảnh hình:
Nhớ ngày bên
rạch trong xanh,
Hoa sen chứng
kiến đôi mình kề nhau!
Mắt từng lả chả
giọt châu.
Mí nay mệt mỏi,
má dàu dàu thon;
Môi son rút lại,
hết tròn,
Tóc theo quả
phụ, cuốn lòn, giấu che.
Nàng không trang
sức hoa hòe,
Chỉ dùng tang
phục, chẳng khoe ngọc vàng.
Hai bàn chơn
nhỏ, mịn màng
Không còn đi
đứng lẹ làng như xưa.
Hồi nào Chàng
gọi, thiếp thưa,
Bước thoang như
lộc, nhẹ đưa lá hồng.
Mắt nàng đèn ánh
tình nồng,
Trước như mặt
nhựt soi trong tối thầm ;
Bây giờ lờ lệch,
lạc lầm,
Cảnh xuân tươi
đẹp, chẳng hăm hở nhìn.
Một tay nâng đới
ngọc lên,
Vật Chàng để
lại, nàng gìn kỷ cang.
Ôi! đêm khổ nhứt
của nàng!
Thương nhau,
Chàng phải lên đường đi xa!
Tay kia dắt đứa
con nhà,
Ra-hầu-La (1)
trẻ thật là tiên phong.
Đó là tín vật
của chồng,
Nay đầy bảy
tuổi, chơi rong bên nàng.
Trẻ thơ vui dạ
nhìn sang
Hoa xuân rạng nở
điểm trang cảnh trần.
***
Mẹ con chầm
chậm rời chân,
Quanh theo hồ
rộng, sen phưng phức mùi.
Ra-hầu-La rất
sướng vui,
Thảy cơm cho cá
khoe đuôi xanh, hồng.
Mẹ thời ngước
mặt lên không,
Buồn trông đoàn
nhạn, bà mong than rằng:
"Ớ nầy các bạn
phi thăng!
Cho ta nhắn gởi,
rồi phăng lên đường;
Ví bằng gặp chỗ
của Chàng,
Da-Du là vợ sẵn
sàng hy sinh.
Miễn chàng mở
miệng phân minh,
Hoặc chàng mơn
trớn cho đành nhớ nhung."
Con chơi giỡn,
mẹ ước mong,
Bỗng vài thể nữ
nội cung đến trình:
"Thưa bà! do cửa
Nam thành,
Đế-lê, Bạt-l(2)
hai anh mới vào.
Ấy là thương
khách danh cao,
Đến đây với mọi
trân hào biển non:
Đồ tơ lụa, lưỡi
dao con,
Bát đồng, ngà
chạm, món ngon vật lành;
Thuốc men, chim
lạ, báu xinh,
Nhứt là đem đến
món mình ước mong;
Hai người có
thấy Đức Ông.
Đạt Đa Thái tử
là chồng Quý nương!
Thấy Ngài tận
mặt rõ ràng,
Cả hai đỉnh lễ
,cúng dường thức ăn.
Ứng theo lời Sấm
đã phân,
Nay Ngài thành
Phật, dương trần kính tôn;
Cứu người trọn
cả xác, hồn,
Cứu luôn muôn
loại sanh tồn thế gian.
Lời Ngài dịu
ngọt an nhàn,
Từ, Bi, Hỷ, Xả
rộng lan đất trời.
Xứ ta sắp tiếp
đón Ngài,
Đó là lời mách
của hai lữ hành."
***
Niềm vui, mạch
nhảy thình lình,
Cũng như tuyết
rã đổ quanh sông Hằng;
Da-Du đứng dậy
thẳng băng,
Vỗ tay, cười
lớn, lệ lăn theo tròng,
Truyền rằng "Hãy
rước vào trong,
Đưa kề dưới
trướng mà thông tin nhàn,
Như người khát
nước, cổ khan,
Ta đây ham biết
việc toan tỏ bày.
Đưa hai người ấy
vào đây,
Ta nghe chuyện
thật, thưởng ngay ngọc vàng,
Các cô cũng đến
cho tường,
Rồi ta ban
thưởng mỗi nàng đáng công."
***
Hai người thương
khách vào cung.
Trên đường vàng
hực, thung dung tiến lần;
Mỹ nhìn quanh đó
nhìn trân,
Hai chàng ngơ
ngẩn cung tần nguy nga.
Khi vừa vào tới
trướng hoa
Bỗng nghe cất
tiếng dịu hòa, thê lương;
"Kính chào khách
quý viễn phương;
Các ngài đã gặp,
cúng dường Thích Ca;
Trượng phu của
thiếp đó mà,
Đắc thành Phật
đạo, người ta kính vì.
Độ đời, cất bước
ra đi,
Rồi đây về tới
xứ nầy, quê hương.
Xin chư quí
khách tỏ tường.
Nếu là như vậy
thiếp đương rước mừng:
Nhà nầy, hai vị
nghĩ lưng,
Kể như thân
thích và đừng ngại chi."
***
Đế-Lê ứng đáp
tức thì:
"Chúng tôi có
gặp đức Thầy Thánh nhơn;
Để đầu làm lễ
dưới chơn
Ngài đà đạt cảnh
cao hơn Đế hoàng.
Bồ đề thọ, ấy
Đạo tràng,
Nghiệp to thành
tựu, sắp mang cứu đời
Ngài đương mạnh
khoẻ thảnh thơi,
Không mang tật
bệnh, chẳng vời khổ nguy.
Như Trời thoát
tục suy vì
Mặt mày sáng rỡ,
chứng ghi lý lành.
Ngài đi tới mỗi
thị thành
Giảng chư phương
tiện cao minh, an hòa,
Lòng người theo
đạo Thích Ca
Cũng như lá
rụng, nương đà gió giông;
Lại như đoàn thú
ngoài đồng
Theo người dắt
dẫn, rõ thông mục trường
Chúng tôi nghe
Pháp lạ thường
Do Ngài thuyết
diễn tại vườn Ni ca (3).
Gần bên thành
phố Già da (4)
Đầu mùa mưa tới,
Ngài qua xứ nầy."
***
Da-Du nghe thuật
vui thay!
Nghẹt hơi, bà
chỉ vân vi mấy lời:
"Tin lành đưa
tới tận nơi
Tôi cầu quí vị
đời đời phước an
Nhưng khi nghiệp
cả thành toàn
Có chi biểu
hiện, mưu toan thế nào
Bấy giờ Bạt Ly
nói vào
Lời người sơn
cốc làm nao lòng mình
Trọn đêm khủng
khiếp giao tranh,
Hư không mờ ám,
đủ hình quỉ ma;
Đất rúng động,
nước ngập nhà.
Do Ma vương giận
tạo ra dọa Ngài.
Kế trời rựng
sáng khắp nơi,
Nhựt quang mới
chiếu, lòng đời khởi mong;
Bấy giờ Đạo cả
thành công,
Cội cây ngồi
lặng, mặt trông tươi nhuần.
Ngài còn trầm
tọa nhiều tuần
Mặc dầu
Giải-thoát, cò quằn quại lo,
Như người ôm
khối vàng to,
Tâm tư nặng
trĩu, đương dò dứt nghi,
Người đời ưa
thích lỗi nghi,
Đoe theo cảm
giác tà tay gạt mình;
Họ không có trí
thấy lanh,
Cũng không sức
phá các tình trói ngăn.
Làm sao họ biết
lần phăn
Mười hai Duyên
(5) chánh phải cần dứt xong ?
Làm sao hiểu
Pháp thoát vòng,
Đạo nầy mới mẻ,
họ không dám hành ?
Ví như Phật bỏ
chúng sanh,
Nghĩ rằng người
thế chẳng thành Đạo cao,
Ngài bèn chẳng
khứng truyền trao,
Chúng-ta há
hưởng dồi dào phước thêm ?
Thế Tôn đem đức
từ tâm
Phổ vào tư-tưởng
đương lâm Định-Thiền
Bỗng nghe tiếng
dữ hét liền:
"Chắc ta mất cả
thế quyền, chúng dân."
Tiếp theo có
tiếng vang lơn:
"Xin Ngài truyền
Đạo, thì ơn cứu đời."
Thế-Tôn nhìn
chúng mọi nơi:
Kẻ nầy cần phải
nghe thời Pháp linh;
Kẻ kia chưa đủ
sức mình,
Khá tua chờ đợi,
thi hành về sau.
Tỷ như nhựt
chiếu sen bàu,
Đoá thì nở rạng,
đóa đầu búp non.
Mỉm cười, Phật
phán vẹn tròn,
"Ta đi truyền
Giáo, thâu gom tín đồ."
***
Khách
rằng:"Xuống núi, vào đò,
Thành Ba-la-nại
(6), Ngài thâu Năm người;
Chỉ cho cách
diệt luân hồi,
Việc làm quá khứ
tô bồi đời nay,
Địa ngục khổ, tự
mình xây,
Nếu không mê
dục, lên ngay thiên đường,
Pháp luân khởi
chuyển tỏ tường,
Ngày rằm tháng
bốn (7) tại vườn Lộc Viên (8).
***
Trong hàng Năm
vị người Tiên,
Kiều Trần Như
(9) trước hiểu liền Tứ Chơn (10),
Đắc La-Hán quả
an toàn;
Bà-sa-Ba (11)
với Ma-Nam (12), Bạc-Đề (13),
Kể luôn Át-Bệ
(14) trọn bề,
Chơn nhơn Năm vị
lần kề đắc thông.
Hoàng nam Da-Xá
(15) đến cùng
Năm mươi bốn bạn
ngưỡng mong Đạo mầu;
Nhập môn, lễ
Phật, cạo đầu,
Trong vườn
Lộc-uyển cùng nhau tu hành.
Những người nghe
Phật giảng Kinh,
Tâm sanh an-lạc,
huệ linh phổ vào;
Như nơi đồng bái
mưa dào,
Hoa thơm, cỏ đẹp
hồng hàxanh tươi.
***
Khách thương
thuật tiếp: sáu mươi
Là chư Tăng số,
người người sạch trong;
Phật sai truyền
Đạo các vùng.
Còn Ngài ngự đến
nước ông Tần-Bà,
Nhiều hôm giảng
lý gần xa,
Độ cho vua chúa
cả và chúng dân,
Giảng về từ ái,
bi lân,
Luân hồi, Nhơn,
Quả, Tứ ân đáp đền.
Tần-Bà ngưỡng mộ
cúng lên
Trúc-lâm tinh xá
êm đềm dễ tu.
Vua sai chạm đá
mấy câu:
"Như lai tuyên
bố Nhơn đầu, Quả đuôi;
Thế Tôn truyền
dạy chúng tôi
Pháp môn thoát
khổ đánh lui lỗi lầm."
***
Khách thương
nói: Tại Trúc-lâm (16),
Có ban Tăng
chúng cao thâm tu trì,
Phật chuyên giáo
hóa hằng ngày,
Những ai nghe
giảng qui y lẹ làng;
Chín trăm người
mặc áo vàng.
Cũng như y phục,
Phật mang nơi mình;
Đều đi truyền bá
đạo lành,
Mỗi lời Phật ban
hành dưới đây:
"Càng làm dữ, nợ
càng vay,
"Làm lành trừ
khấu tội gây bởi mình;
"Hãy lo lánh dữ,
tạo lành,
"Giữ gìn ý tứ,
là hành Đạo ta (17)."
***
Thuật xong
chuyện đức Phật-đà,
Hai người được
thưởng nhiều quà tốt xuê;
Quí hơn của tặng
vừa kê,
Là lời cảm tạ
của bà công nương.
Kế bà hỏi nữa
cho tường:
"Thế Tôn ngự tới
do đường nào đi?"
Khách thương đáp
lại tức thì :
Do-tuần (17) sáu
chục, thành nầy trở ra,
Rẽ qua Vương-xá
đó là,
Phật theo đường
đó mà qua xứ nầy
Bò đi tám cố
(18) một ngày,
Chúng tôi phí
một tháng chầy đến nơi."
***
Tin nầy vừa đến
tận tai,
Vua đòi quan
chức của ngài chín ông.
Lệnh truyền cỡi
ngựa thẳng xông,
Nối nhau tầm đến
Đông-cung, thưa rằng:
"Đức vua Tịnh
Phạn cỗi cằn,
Vì xa Thái tử
tính hằng bảy năm;
Mảng tìm, nhưng
lại bặt tăm,
Vậy nay Hoàng tử
về cầm quyền vua.
Nhớ Ngài, dân
chúng héo khô
E vua nhắm mắt
chẳng tua thấy Ngài."
Da-Du công chúa
cũng sai
Chín viên
mã-khắn lời dưới đây:
"Ra-hầu-la mẫu
kính bày,
Tựa nơi các tía,
ngày ngày luống trông;
Tỷ như hoa phấn
buồn lòng.
Vì gương trăng
tỏ vẫn không tái hồi
Vô-ưu (19) hoa
lá bồi hồi.
Đợi chờ thục nữ
đến ngồi dưới cây.
Nếu Ngài đắc quả
cao dày,
Xin chia cho vợ,
sớt lây con mình.
Nhưng bà công
chúa cố tình
Cầu Ngài trở lại
gia đình như xưa."
Các trang sứ giả
tốc thừa,
Bước vào vườn
Trúc, nhằm giờ thuyết Kinh.
Mảng nghe Phật,
quên cáo trình,
Quên vua
Tịnh-Phạn, quên hình Da-Du;
Mắt nhìn Phật,
dạy tín đồ,
Tai nghe Kim
Khẩu diễn phô lý từ
Viên dung, hùng
biện, chơn như,
Lời thanh, lẽ
nhã chiếu chư vật, người
Tỷ như ong dạo,
hoa tươi
Tổ dầu đủ mật,
cũng bươi thêm vào;
Trời đêm mưa gió
chẳng nao
Miễn là thoả chí
núc hào nhụy bông
Sứ vua lại cũng
như ong
Mộ nghe Phật
thuyết, quên công hành trình
Bỏ luôn mọi việc
của mình
Nhập đoàn tăng
chúng hầu quanh đức Thầy.
Cuối cùng vua
phái một vì
Ưu-Đà-Di vẫn
thường khi trung thành
Làm quan nhứt
phẩm trào đình
Đã cùng Thái tử
kết tình bạn son
Đi vào vườn Trúc
đường mòn.
Ưu-Đà-Di hái
bông gòn nhét tai
Cho nên người
khỏi cảm hoài,
Bèn trình vương
mệnh và lời công nương.
***
Cúi đầu một cách
dịu dàng,
Thế tôn phán với
các hàng dự nghe;
"Phải rồi, ta sẽ
trở về,
Viếng thăm cha
ruột, trọn bề hiếu thân.
Nay mình thoát
khỏi trầm luân.
Đến nơi Bờ Giác,
đủ Nhân, Ái, Từ,
Chớ nên, báo
đáp, kính thờ
Mẹ sanh, cha
dưỡng, ơn như biển trời.
Nay anh lui gót
kính lời
Rằng ta sắp sửa
về nơi quê nhà."
Trong thành
ngoài quận nghe qua,
Chúng dân dự bị
để mà đón nghinh.
Dựng lên ở cửa
Nam thành,
Đài hoa rực rỡ,
trướng xanh lẫn hồng.
Xa xa trên các
lộ công,
Cành tươi đơm
kết thành vòng nguyệt thơm;
Nước lài, trầm
thuỷ cả ôm,
Đựng đầy bì đại
(20), lom khom tưới đường.
Mỗi nhà cờ xí
phô trương,
Voi to bành rộng
sắp hàng nghiêm tinh.
Trống chiêng
chực đánh liên thinh.
Các vì họ Thích
đến nghinh tiếp Ngài.
Những trang vũ
nữ điện đài
Rảy oa, nhảy
múa, hát bài, âu ca
Ngựa Ngài, sẽ
biết trên hoa,
Đường đi tốt
đẹp, vui la khắp thành
Đó là sắc chỉ
ban hành,
Chúng dân nghe
kỷ trống đoành báo tin.
***
Kiệu đưa công
chúa tiến lên
Trước hàng công
chúng, đó bên khán đài
Ni-câu-đà (21)
uyển bao ngoài
Chà là, cây vả,
mọi loài trái, hoa
Bóng mát mẻ, khí
vui hòa
Nẽo cong, hồn
cỏ, cũng đà sửa san
Theo đường ra
khỏi cửa Nam
Đến vùng chòi lá
bần hàn lê dân
Họ là giai cấp
hạ phần
La môn, Sát
l22) chẳng gần, sợ dơ;
Họ đương bứt rứt
đợi chờ
Trời chưa rựng
sáng, đứng bờ nhìn ra
Trống khua voi
rống đàng xa
Họ leo đại thọ,
đứng mà dòm quanh.
Không ai đi đến
phía thành,
Họ bèn quét cửa,
sửa cành lá treo
Thấy người hành
cước, hỏi theo:
Cớ chi trể nãi,
vắng teo bóng Ngài
Công nương cặp
mắt sầu giai
Ngó đoàn bần
tiện, nhìn ngoài đường xa
Lắng tai nghe kẻ
lại qua
Coi ai biết được
tin nhà Đông cung
Từ xa lần tới
một ông
Vai mang tấm áo
vàng ròng thầy tu
Đầu cạo tóc, tay
ôm bầu
Ghé từng chòi lá
cần cầu hóa trai;
Nhận đồ chú
nguyện ít lời,
Nhà nào không
thí thì Ngài cũng vui
Có hai người nữa
nối đuôi
Mặc đồ vàng hực,
bước xuôi theo hầu
Riêng Người ôm
bát dắt đầu,
Tướng đi nghiêm
chỉnh, vẻ mầu dáng tôn;
Đức oai cảm động
tâm hồn
Chúng dân cúng,
thí, lạy, hôn chơn Ngài
Nhiều người xót
phận lưng vơi
Bánh, cơm chẳng
có đặng mời nhà tu
Nữ, nam, già,
trẻ theo sau
Xì xào:"Ai đó?
Tiên đâu giáng
trần?"
Ngài vừa chậm
bước đến gần,
Cửa đài mở rộng,
nghe rân tiếng nàng;
"Tất-Đạt-Đa! Ơi
hỡi chàng!"
Công nương kêu
khóc, nằm ngang chơn Thầy,
***
Về sau bà cũng
tu trì,
Có người thỉnh
Phật giải bày cho thông;
"Ngài đà nguyện
dứt tình nồng.
Không còn đụng
chạm thịt hồng nữ nhơn.
Tại sao lúc nọ
đứng gần,
Để cho vợ cũ ân
cần ôm hôn?"
Ngài rằng:"Quảng
đại tâm hồn
Cũng còn luyến
ái như phồn nhỏ nhen.
Mặc dầu cao nhã
đáng khen,
Chớ đem Giải
thoát làm phiền người ta:
Lưới tình ví
được thoát ra,
Nhờ vào kiên
nhẫn, hiền hòa, thông minh.
Ba kỳ dài dặc
thử mình,
Sau rồi Bồ tát
mới thành Đạo thâm,
Trước là Bồ tát
phát tâm
Kế là Bất thối,
Bổ lâm(23) cuối cùng
Thuở xưa, ta mới
dự dòng
Phát tâm Bồ tát
hay mong chuyện lành;
Ta hằng tầm kiếm
Huệ Minh
Nhưng đôi mắt
trí chưa tinh chút nào
Kìa vườn đu đủ
dồi dào,
Hể bao nhiêu hạt
là bao năm rồi:
Tên Ram thuở ấy
là tôi;
Chuyên buôn bán
ngọc, ở đồi miền Nam.
Lục-mi, (24) nội
trợ của Ram
Chuyển thân từ
đó, nay làm công-nương (24)
Đôi ta xưa ngụ
một làng,
Dựa bờ biển cả ở
ngang Lăng-già(25)
Bấy giờ ta phải
đi xa
Lo bề sinh hoạt
vì nhà chẳng dư,
Lục-mi rơi lụy
từ từ
Khuyên ta chớ
mạo nạn ư biển, rừng
Nàng rằng:"Nếu
thật yêu cưng,
Sao chàng lại nỡ
băng chừng dặm xa?"
Nhưng rồi ta
bước chơn ra,
Đi vào Biển cả,
xông pha bão bùng
Đấu tranh với
vật thủy trung
Lướt muôn khổ
nhọc, ngàn trùng sóng giăng
Đem lên hạt ngọc
như trăng
Các vua ắt sẽ
trả bằng giá cao
Miền non, vui vẻ
trở vào
Nhưng nhằm thuở
đói, hại bao dân lành!
Thiếu ăn, kiệt
quệ sức mình,
Mà ta đem được
ngọc xinh về nhà,
Hiền thê nằm
thiếp xót xa,
Vì không cơm
cháo đã qua nhiều ngày
Ta hô: "Như ở
lại đây,
Ai cho chút gạo
cứu rày vợ tôi;
Đồ ăn nếu nhận
được rồi
Tôi dem ngọc quí
đáp bồi công ơn
Bước vào một gã
hương lân,
Trao thăng rưỡi
(26) gạo và cầm ngọc đi
Lục mi hồi tỉnh
tỏ bày
"Chàng yêu như
vậy có chi quí bằng!"
Thuở xưa ngọc
sáng tợ trăng
Ta đem mà chuộc
mạng căn bạn vàng
Đời nay ta được
ngọc sang,
Từ trong biển
trí mà mang ra ngoài:
Nhơn duyên đủ số
mười hai (27)
Với nền diệu
pháp không phai, chẳng lờ
Ngọc nầy chẳng
bán bao giờ
Tặng không cho
kẻ căn cơ hạp dùng
Nầy là đụn kiến
ổ ong
Với Tu Di đảnh
há đồng lớn cao?
Nọ là sương đọng
thành ao
Há như biển cả
rộng bao do tuần?
Thuở xưa thí một
vật cần
Đời nay ta thí
muôn lần đức oai
Tình yêu ví được
rộng dài
Nhờ về tự chủ,
ra ngoài giác quan
Tình yêu thật
rất khôn ngoan
Biết nương lòng
dạ yếu non người đời
Da-Du lễ kính
dưới ngai,
Thuận chìu ta
dắc lên đài phước an."
***
Vua nghe Thái tử
hồi loan.
Đầu thì cạo tóc,
vấn toàn áo nâu;
Tay ôm bình bát
thỉnh cầu
Những nhà bần
tiện thí đồ ăn dư.
Vua phiền, quên
nghĩa phụ từ,
Bứt chòm râu
bạc, ói ư đền vàng.
Bước ra một cách
lẹ làng,
Khiến chư quan
chức ngỡ ngàng, sợ lo
Thót kên chiến
mã thật to
Hằm hằm khí sắc,
quanh co các đường
Chúng dân thấy
việc lạ thường.
Kêu nhau: "Vua
tới mau đương lạy chào!"
Đến chùa, quẹo
khỏi vách rào,
Nam môn lố thấy
với bao dân tình,
Người ta đầy
nghẹt đường thành,
Càng lâu, càng
đặc, theo quanh đức Thầy.
Cha con bốn mắt
chiếu lây,
Vua liền hết
giận, lòng đầy yêu thương
Mắt hiền nhìn
thẳng phụ vương
Từ từ ngó xuống,
chơn đương cúi quỳ
Đức vua cảm động
tức thì
Thấy con mình lộ
đủ đầy đức, oai
Đỉnh đầu có ánh
chói ngời
Người người kính
mộ mà dời chơn theo
Tuy nhiên, vua
trách mấy điều
"Cớ chi về nước
có chiều ẩn thân?
Ngày xưa sống
tựa thiên thần,
Nay sao áo bã,
dép rơm, cạo đầu ?
Cần chi Chàng
phải ôm bầu,
Ghé nơi chòi
rách, chực cần miếng ăn?
Dòng vua phú quý
ai hơn.
Kẻ hầu, người
hạ, sơn trân hải vì.
Con về nên dự lễ
nghi,
Đau thương người
ngựa đứng quỳ tiếp nghinh
Kìa xem, trên lộ
quân binh
Chúng dân khắp
cả thị thành chờ con
Nhiều năm chàng
bỏ nước non
Cha già sầu
thảm, mỏi mòn trên ngôi
Công nương chịu
phận góa côi
Vải bò đạm bạc,
nhạc bôi chẳng màng
Nay nàng mặc áo
rỡ ràng
Để mà đón rước
một chàng ăn xin!"
Phật rằng:"Tập
quán như in,
Người trong
chủng tộc kính tin giữ tròn."
Vua rằng:"Chủng
tộc của con.
Trăm ngôi truyền
nối, nay còn nơi ta,
Kể từ Thủy tổ
Sam-ma (Maha-Sammât),
Không hề có việc
xấu xa như vầy."
Thế Tôn hoan hỷ
giảày:
"Giống dòng phàm
thế, tôi nay chẳng bàn,
Ý tôi muốn nói
đến ban
Phật Đà tiếp nối
muôn ngàn từ xưa.
Tôi là vị Phật
hiện thừa
Thi hành những
việc Phật xưa đã hành;
Chuyện chi hiện
xảy đến mình,
Phật xưa đã gặp
tình hình như nay
Một vì vua cả
trước đây,
Ngự ra thành
ngoại, uy nghi chỉnh tề;
Đón chào Thái tử
trở về,
Nhưng chàng ăn
mặc theo bề ẩn tu
Ấy là vị Phật
hòa nhu,
Đức, oai cao cả
hơn vua hoàn cầu
Phật xưa quỳ
gối, cúi đầu,
Tỏ lòng cung
kính ơn sâu sanh thành
Lệ này, tôi cũng
thi hành,
Và đem Của Báu
mà trình tặng cha."
***
Đức vua kinh
ngạc hỏi qua:
"Bảo trân nói đó
vậy là những chi?"
Cầm tay
Hoàng-thượng dắt đi,
Thế Tôn lần bước
giữa bầy lê dân.
Bên cha, bên vợ
theo gần.
Ngài bèn bày tỏ
lý chân nghĩa mầu
Bốn nền Diệu đế
gồm thâu,
Cũng như hải
ngạn chứa bầu biển khơi
Giải thêm Chánh
Đạo tám nơi,
Cũng là Tám
Định, Bốn Thời Quả linh,
Cứ theo pháp ấy
tu hành
Niết-bàn chứng
đắc. Tử sanh chẳng còn.
Công nương mắt
phụng chói ngời
Không còn ngấn
lệ vắn dài như xưa,
Đêm nay ai nấy
hưởng nhờ.
Đức lành yên
tĩnh Đạo vừa phát huy.
*****
Chú Thích
(1) Ra-hầu-La
(Rahoula) : Con trai của Thái-Tử Tất-Đạt-Đa và công chúa Da-Du đà-la.
Theo sách nầy. Ra-hầu-La sanh ra sau khi Thái-Tử đi xuất gia.
(2)
Đế-lê-phú-bà (Tripousha). Ba-la (Bhallou).
(3) Vườn Ni-ca
(Bosque Tchirnika)
(4) Thành phố
nầy ở phía bên núi Gí-da, cách chỗ cây Bồ-đề chừng hai chục dặm. Khi
Phật thành Đạo, Ngài từ giã cây Bồ-đề ở Già-da sơn mà vào Già da thành.
Kế Ngài ngự đến Ba-la-nại (Bénsrès) mà độ năm vị chơn nhơn.
(5) Mười hai
Duyên : Duyên, chữ Phạn : Nidâna, tức nhơn duyên. Mười hai duyên, tức
thập nhị Nhơn-duyên, từ Vô minh tới Tử, từ Tử trở lại Vô-minh.
(6) Ba-la-nại:
Bénares, một đô thị lớn ở Ấn-độ,
(7) Tháng
Vaishya, âm lịch Ấn-độ lối cuối tháng 5 dương lịch
(8) Lộc-viên,
Lộc-uyển (Phạn: Magadavà, Pháp: Pare sux daims.
Pare aux
gazelles), trong vườn nầy có rất nhiều con lộc
(9)
Kiều-trần-như (Kaudinya) người dẫn đầu trong năm vị.
(10) Tứ-chơn:
Tứ chơn đế, Tứ diệu đế.
(11) Bà-sa-Ba
(Basava)
(12) Ma-Nam
(Mâhanâma)
(13) Bạc-đề
(Bhadrika)
(14) Át-Bệ
(Asvadjit)
(15)
Da-Xá(Yasad)
(16) Trúc-lâm,
Venuvana, Pháp : Bois de Bambous. Cảnh vườn tre gần thánh Vương xá, kinh
đô nước Ma-kiệt-đề của vua Tần-bà-sa-la.
(17) Bốn câu
trên đây đồng nghĩa với bài kệ bốn câu bằng Hán văn
Chư ác
mạc tác, |
Đừng tạo
ra việc ác, |
Chúng
thiện phụng hành; |
Hãy làm
hết điều lành; |
Tự tịnh
kỳ ý, |
Tâm ý
giữ cho sạch, |
Thị chư
Phật giáo. |
Đó là
chư Phật dạy. |
(17) Do tuần
(Yodjans) số mực đề đo lường bên Ấn Độ, mỗi do tuần là 16 dặm, mỗi dặm
(lý) là 576 thước tây.
(18) Cố (Koss
): số mực để đo đường. Xe bò 1 ngày đi cố, 1 cố có lẽ từ 8 đến 10 ngàn
thước tây
(19) Vô-Ưu
(Asôka) : Truyện thần thoại Ramayana thuật rằng nàng Sita trồn trong bụi
cây vô-ưu, bị ác thần Ravana quấy nhiễu.
nhưng nàng
chống cự được thắng lợi. Vì vậy nên hàng phụ nữ Ấn Độ tôn kính cây vô ưu
và hái hoa của cây ấy mà ăn.
(20) Bì-đại
(Pháp: outre): dãy đựng nước làm bằng da con thú (da dê).
(21) Phía
ngoại thành Ca-tỳ-la-vệ, có cảnh vườn cây Ni-câu đà (Nyagrodha), dịch
nghĩa: Vô-tiết, cây không có đốt. Cũng viết: Ni-câu-luật-đà, Ni-cư-đà.
(22) La-môn
(Bà-la-môn) , Sát-là hai giai cấp thanh cao nhứt ở Ấn-độ. Kế đó có hai
giai cấp: Phệ-xá (Trưởng Giả), Thủ-đà (Cư-sĩ). Ngoài ra có giai cấp hèn
hạ nhứt kêu là Chiên-đà-la mà phong tục Bà-la-môn cho là ô-trược.
(23)
Ba thời kỳ: Thời kỳ làm Bồ-tát phát tâm, tức Tân phát ý Bồ tát. Thời kỳ
làm bất thối chuyển Bồ tát. Thời kỳ Bồ lâm tức Nhứt bổ xứ Bồ-tát ,
còn giáng sanh một lần nữa thì thành Phật.
(24) Lục-mi
(loukshmi) -
(25) Lục-mi,
vợ của Ram là một tiền thân của công chúa Da-Du-đà-la vợ Thái-tử
Tất-đạt-đa.
(25) Lăng-già
(Lanka) , ngày nay keu là Tích -lan (Ceylan). Miền Nam Ấn-độ là bán Đảo
Đề căn (đókhan), ngó ngang Tích lan
(26) Thăng
rưởi, tức một lít rưởi. Chữ Ấn Độ: ba-xe (seses), mỗi xe bằng nửa lít.
(27) Thập Nhị
Nhơn duyên do Phật dạy cho tín đồ tu định để dứt luân hồi khổ não.
---o0o----
Lời tựa|
Phần 1|
Phần 2|
Phần 3|
Phần 4
Phần 5|
Phần 6|
Phần 7|
Phần 8
--o0o--
Vi tính : Bích Hương
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật : 01-01-03
|
|