|
. |
Ánh Sáng Á Châu
(Light of Asia)
Tác giả : Sir Edwin Arnold
Pháp dịch : L.Sorg
Việt dịch : Đoàn Trung Còn
--o0o--
Phần thứ
tám
Một vùng
đồng cỏ xanh rì.
Ven Cô-há-ná
(1), sông nầy chảy nhanh.
Từ Ba-la-nại
đại thành,
Theo chiều
Đông Bắc lộ trình ngưu xa.
Năm ngày mới
tới đó mà,
Dưới là vườn
tược, trên là Tuyết-sơn (2).
Triền non
nghiêng xuống lần lần.
Bóng cây mát
mẻ, hương phân phức cùng.
Hiện nay ở
tại trong vùng,
Nơi không
khí thánh còn lồng tịnh hương!
Gió chiều
man mác, dịu dàng,
Phớt trên
bụi rậm, các hàng đá xưa.
Ấy tòa kiến
trúc còn thừa,
Rễ xen kẽ
hở, nhành đưa lá vào;
Một màn xanh
mịt phủ bao,
Rong rêu, cỏ
dại, lá xao chập chồng.
Rắn dài ra
khỏi vách phòng,
Nằm trên cẩm
thạch, mở vòng, tháo thân,
Một con rắn
mối lẹ chơn,
Chạy trên
nền đá láng trơn đền rồng.
Dưới ngôi đổ
vỡ tứ tung,
Kìa con chồn
xám nằm trông yên lành.
Núi sông,
gió mát, đồng xanh,
Vẫn không
thay đổi, tình hình như xưa.
Ngoài ra,
mọi vật tiêu mờ,
Ca-tỳ-la-vệ
(3) hiện giờ phế hoang!
Còn đâu là
cánh đồi vàng
Cùng ngôi
Phật giảng với hàng bà con?
Trong Kinh,
sự tích hãy còn,
Ngự-lâm có
suối đường mòn, hồ sen:
Hoa đình,
biệt thự lần xen,
Ở nơi vườn
ấy, Phật quen thuyết truyền.
Chúng dân
cung kính lặng yên,
Nghe lời
khuyến thiện cho miền Á châu.
Chúng sanh
vô số ứng hầu,
Một hôm
chứng cuộc thuyết mầu bao la.
Phật ngồi
bên mặt vua cha;
Triều-thần,
Thích-chủng, Đề-Bà, A-Nan.
Đủ đầy thân
thích, bá quan,
Đều quanh
theo Phật, ngồi an nơi liền.
Xá-lhất,
Mục Kiền Liên,
Hai vị đệ tử
đại hiền đứng sau.
Dựa theo gối
Phật, đứng hầu,
Ra-hầu-La
trẻ ngước đầu ngó cha.
Ngồi bên
chơn Phật có bà
Da-Du nay đã
thoát ra não phiền.
Thấy rằng
tình ái thiêng liêng
Há cầu
xác-thịt không miên trường gì!
Sanh, Già,
Bệnh, Chết từ đây,
Đạt-Đa, công
chúa viễn ly dễ dàng.
Bà cầm tay
Phật nhẹ nhàng,
Áo bà phủ
vạt y vàng Như Lai,
Cảnh tình
hòa lạc, thanh bai,
Chúng sanh
ba cõi chờ Ngài diễn phân.
Bài hay, khó
tả cho cân,
Xuất từ kim
khẩu, dạy răn mọi loài.
Tôi là soạn
giả hậu lai,
Có lòng mộ
Phật trọn đời từ bi;
Thuật biên
Thánh truyện ly kỳ,
Phải nương
cổ điển là vì trí sơ.
Thời gian
làm chữ lu mờ.
Người nay
khó đạt nghĩa xưa diệu mầu.
Bài văn Phật
giảng rộng sâu,
Tôi đây cũng
biết, mặc dầu qua loa.
Dự nghe
quanh chốn pháp tòa,
Dương là
phần ít, âm là phần đông:
Vô biên, vô
số các ông
Ở miền thiên
thượng thảy đồng xuống đây;
Chư linh kẻ
thác xum vầy,
Các hồn địa
ngục cũng quy tựu về.
Trời chiều
nán lại chẳng xê,
Ánh hồng
chiếu rạng non tê êm đềm;
Dường như
chỗ sủng là đêm,
Ánh vàng
chểm chệ ở trên non tòng.
Đương khi
sáng, tối chập chồng,
Bóng như
thiên nữ vẻ trông hữu tình;
Mây luồn như
tóc cuốn xanh,
Sao giăng tợ
ngọc viền quanh mão vàng;
Trăng như
chiếc mão vinh sang,
Tối là tấm
áo nàng mang theo mình;
Hơi nàng
thở, tức gió thanh
Phớt phơ
trên những đồng xanh tít mù.
Trong khi
Phật thuyết pháp mầu,
Kẻ rừng,
người ruộng, sang giàu, hèn đê,
Những người
ngoại quốc tựu tề
Nghe Ngài
nói tiếng của quê hương mình.
Trẻ, già
cùng các chúng sanh,
Cảm lòng từ
ái, hoan nghinh đức Thầy.
Mặc dầu bò,
chạy, lội, bay,
Khỉ, hùm,
nai, gấu, sói hay ó diều,
Chim câu,
khổng tước mỹ miều,
Rắn, dơi,
cóc, cá cũng đều lắng nghe;
Thâu bác ái,
phát Bồ đề,
Rồi đây siêu
thoát khỏi bề súc sanh.
Trước vua,
trong pháp hội lành,
Thế Tôn
giảng thuyết đành rành dưới đây:
***
Án,
A-Di-Đà-Dà (4) nầy;
Chớ dùng lời
nói trình bày vô biên;
Đừng dùng tư
tưởng tiếp liên
Toan dò
vô-tận là miền thậm thâm!
Đành rằng kẻ
hỏi thì lầm,
Người nào
giải đáp cũng lầm lạc ngay.
Vậy nên nín
lặng là hay.
Kinh rằng
nguyên thủy chỉ đầy u minh;
Bấy giờ vạn
vật chưa sinh.
Phạm Thiên
nhập định một mình trong đêm.
Chớ nên nghĩ
tưởng Phạm Thiên
Cùng là
nguyên thủy mà thêm rối lòng.
Trí phàm mắt
thịt khó thông,
Lần hồi màn
tối sẽ bùng vọt ra.
Theo đường
tinh tú lại qua
Mà không gạn
hỏi gần xa thế nào.
Có sanh, có
tử chớ sao,
Sướng rồi
lại khổ, nhơn vào quả ra;
Thời gian,
giòng nước đời ta,
Chậm,
mau,lên, xuống, lại, qua chẳng ngừng;
Bắt từ nguồn
ngọn xa chừng;
Chảy lần tới
biển mới ưng dứt nguồn.
Thái dương
rút nước biển luôn,
Biến thành
mây nhuyễn bay luồn, chuyển mưa;
Non cao,
nước xuống tuôn bờ,
Cứ đi đi
mãi, chẳng giờ nghỉ ngơi.
Như vầy đủ
hiểu cuộc đời,
Các cơn phát
hiện, Đất, Trời, Thế gian,
Mọi điều
biến dị nguy an,
Bánh xe luân
chuyển tuần hoàn mạnh ghê;
Đấu tranh,
Sức lực theo về,
Không ai cản
nổi hoặc xê nghịch vòng (5)
Thôi đừng
cầu nguyện uổng công,
U minh chẳng
có sáng trong tí gì
Hỏi chi
thanh tĩnh vô vi,
Vẫn là yên
lặng có chi ứng lời!
Cũng đừng
khổ hạnh mòn hơi,
Trí thêm mòn
thảm, mà đòi phế vong!
Anh em các
chị đừng mong,
Thần không
tư vị mà hòng cúng dâng;
Chớ đem
huyết nhục lễ mầng,
Trái tươi,
bánh ngọt cũng đừng dọn mâm.
Đạo Giải
thoát tự mìng tầm,
Mình xây
ngục tối, mình cầm quyền to.
Chư linh oai
thế khó dò
Loài người,
mọi chúng quanh co sáu đường.
Thảy do
Hạnh, Nghiệp tạo thường,
Hoặc đem
phước lạc hoặc vương nạn sầu,
Việc rồi đưa
tới việc sau,
Dữ theo với
dữ, lành câu sự lành,
Chư vì các
cảnh Thiên đình,
Hiện nay
hưởng quả tu hành đã qua;
Quỷ yêu chốn
thấp phải sa.
Vốn xưa bày
chuyện phá gia, hại đời.
Không chi
tồn tại chẳng dời.
Phước dày
cũng hết, tội khơi cũng mòn.
Tôi đòi thân
phận héo hon,
Nhờ công
thiện đức làm con đế hoàng.
Đến như vua
chúa cao sang,
Do cơn lầm
lỗi, lang thang cõi trần!
Mạng ngươi
Đế Thích khó hơn,
Nhưng ngươi
có thể mang thân dế, trùng.
Muôn đời lên
tới mức cùng,
Muôn đời mới
xuống đến vùng thấp nê.
Xa luân còn
mãi đi về,
Con người
chẳng nghĩ, chẳng hề dừng chơn.
Kẻ lên có
thể tuột lần.
Kẻ nào sa
xuống lại cần trèo lên,
***
Chơn câm cứ
mãi quay bền,
Nều ngươi
dính mãi trong niền Bánh xe!
Ắt lòng Đức
Phật phải se,
Tâm hồn vạn
vật chỉnh e khổ sầu!
Nhưng ngươi
chẳng dính mãi đâu!
Tâm hồn vạn
vật ôn nhu, dịu dàng;
Tấm lòng Đức
Phật nhẹ nhàng;
Chí cao há
dễ nhịn nhường khổ nguy!
Việc tươi
đẹp ắt phát huy,
Sau cùng đến
mức tinh vi, hoàn toàn.
Bây giờ ngôi
Phật ngự an,
Ta từng khóc
kể, lầm than bao lần!
Nay ta vui
sướng, cười rân,
Vì ta tự tại
mười phân vẹn mười!
Anh em thảm
khổ hổ ngươi,
Tại mình tất
cả, trách người sao đang.
Không ai dốc
xúi, cản ngang.
Khiến mình
sống thác, đeo mang trong Vòng;
Lăn qua lộn
lại, lòng vòng,
Khóc than,
sầu não, bại vong, tán lìa;
Vậy ta chỉ
bảo cho nghe:
Thấp hơn địa
ngục, trên lề thượng thiên,
Xa hơn tinh
tú các miền,
Vượt ra cảnh
giới Phạm Thiên hẳn rồi,
Ấy năng lực
thánh một ngôi,
Khởi từ vô
thủy đến hồi vô chung;
Thường hằng
như cõi hư không,
Chắc là sự
thật, theo cùng thiên, minh,
Tuân hành
luật lệ của mình,
Tường vi nhờ
nó mà sanh hoa hồng;
Cánh sen nhờ
nó đơm bông.
Mùa xuân do
nó dệt xong áo dài.
Điểm to
những áng mây trời,
Khiến lông
khổng tước chói ngời như châu,
Các sao là
những dài lầu,
Gió, mưa,
ánh sáng, ứng hầu, kính vâng.
Làm cho tâm
ám sáng bừng,
Từ nơi quả
trứng, trĩ rừng nở ra.
Sức nầy động
tác mãi mà.
Chuyển lòng
giận, hại, hóa ra dịu, hiền;
Giữ gìn
những trứng chim quyên,
Bảo tồn mật
ngọt trong viền ổ ong.
Chim câu
trắng, con kiến hồng
Ở theo luật
ấy, hiểu thông cũng rành.
Phụng hoàng
vỗ cánh mây xanh,
Đem mồi về
ở, tuân hành sức kia.
Làm cho sói
mẹ quay về,
Khiến người
cô thế được bề ái thân.
Không chán
thối, chẳng tần ngần,
Yêu thương
tất cả đồng phần như nhau:
Nó căn sữa
mẹ đầy bầu,
Lại còn đem
nọc vào đầu răn đen.
Trong trời
rộng rãi vô biên,
Địa cầu,
tinh tú luân phiên điều hoà;
Sức kia tàng
trữ dưới xa
Bạc, vàng,
mã não, mọi tòa bửu châu.
Thường
thường định đặt cơ mầu,
Nương chơn
tòng bá, ẩn đầu rừng xanh;
Dưỡng nuôi
thảo mộc dị hình,
Phát minh
hoa, lá, ngọn ngành nhỏ to.
Giết rồi,
cứu sống lại cho,
Chẳng qua
thực hiện đắn đo mạng trời.
Tử và khổ tự
thoi dài,
Ái, sinh là
những chỉ gai dệt vào.
Sức kia
chẳng ngán chút nào,
Làm rồi lại
phá, sửa sao cho thuần.
Bàn tay khéo
léo quây quần,
Món đồ tạo
tác lần lần tinh vi,
Đó là trước
mắt thường khi,
Việc người
chẳng thấy còn hay hơn nhiều.
Tâm tình trí
thức đủ điều,
Nghĩ suy
chủng tộc, hướng chiều quốc gia,
Thảy tùy
pháp lý bao xa,
Tuy là chẳng
hiện, nhưng mà đõ nâng;
Chẳng ai
nghe tiếng nói năng,
Nhưng còn
phát mạnh hơn vầng bão to.
Từ, Bi là
lộc ấm no;
Bạo tàn từng
khiến thảm lo mọi người.
Sức linh ai
dám chê cười?
Tuân hành
được việc, nghịch lười bại vong.
Thưởng ban
người thiện ẩn công,
Phạt răn kẻ
ác giấu tung tích mình.
Thấy cùng
khắp, xét tình hình,
Phước trao
chánh trực, nạn dành tà tây.
Chẳng thù
hận, chẳng nới tay,
Đo lường
đúng mực, không hay lạc lầm.
Pháp nầy
chẳng hạn bao lăm,
Mai này nó
xử, hoặc cầm về sau.
Kẻ mưu sát
ắt đứt đầu.
Quan tòa bất
chánh bị thâu quyền hành,
Dối người
tội hại lấy mình,
Tham lam mất
của, giựt giành mất ăn.
Đó là lẽ
pháp (6) công bằng,
Không ai
trốn tránh hoặc ngăn được nào.
Tâm là từ ái
dồi dào,
Quả là an
lạc mức cao trọn lành
Trong Kinh
có dạy đành rành:
Đời nay là
quả của mình từ xưa:
Lỗi quá khứ,
khổ hiện giờ,
Trước mình
làm phải, nay nhờ phước đeo,
Người ta gặt
cái đã gieo,
Hãy xem vườn
ấy, mè theo với mè.
Lúa trồng,
gặt lúa há e?
U minh, Tịch
tĩnh hiểu, nghe lẽ nầy,
Mạng người
sẵn định như đây,
Xưa gieo mè,
lúa, trổ nay lúa, mè;
Đời xưa
trồng cỏ độc nè,
Đời nay, gặt
độc, nặng đè xót đau,
Nếu người
tỉnh ngộ siêng mau,
Nhổ loài cỏ
độc, trồng sâu giống lành,
Rồi đây
ruộng tốt, mùa xinh,
Mình và bá
tành mặc tình hưởng vui.
Nếu ai biết
cội khổ nguy,
Bền gan nhận
lấy cho rồi khổ xưa.
Thi hành
chơn lý, lòng từ,
Không sanh
tệ hại, dối lừa, tham riêng;
Chịu kham
khổ, rất dịu hiền,
Lấy ơn trả
oán, chẳng phiền kẻ ngu,
Lần hồi hòa
nhã, ôn-nhu
Công bình,
thanh khiết tâm tu chơn thành.
Nhổ lên rể
dục quấn quanh,
Làm cho hết
tríu cuộc sanh sống nầy.
Làm xong
những việc như vầy,
Mạng chung,
đời mới ắt xây móng nền.
Nợ nần cũ đã
xóa tên,
Chỉ còn
thiện mới, vững bền, tốt tươi,
Chẳng cần
mạng số làm người;
Xử xong
nghiệp thế, ra ngoài trần gian.
Chẳng còn
khổ cực, gian nan,
Tội tình hết
vướng, đắc An trọn bề.
Niết-Bàn
người được nhập về.
Thường hằng,
bất diệt, ngoài lễ tồn vong.
Án Ma Ni Bát
Di Hồng (7)!
Giọt sương
tản mác vào lòng biển khơi.
***
Đó là lẽ
Nghiệp (8) cao vời,
Lỗi lầm,
phiền não phải rời khỏi tâm;
Đời tàn lụn,
dầu chẳng châm,
Hết sanh thì
nghiệp hết tầm hiện ra.
Chớ nên kể
đến cái Ta:
Ta nay, Ta
đã, Ta là về sau.
Lại đừng
nghĩ nhớ tới câu:
"Ta lìa thân
khác mà đầu thân ni,
Cũng như lữ
khách đó đây,
Đổi thay chỗ
trọ trong khi viễn hành."
Bao nhiêu
đời trước hợp thành,
Xây đời hiện
tại đời sanh sau nầy;
Tạo thân
thể, cảnh nhà đây,
Như tằm kéo
kén, ngày ngày ở trong;
Sắm thêm vật
phẩm, tùy dùng,
Như trong
trứng rắn, phụ tùng răng, lưng;
Lại như hạt
giống sậy rừng,
Sa vào đất,
đá rồi bừng mọc cây.
Thân tâm đáo
lại chốn nầy,
Thọ nhiều
hạnh phúc hoặc hay khổ nàn.
Ác tà khí
thác chẳng an,
Những phần ô
trược, mê man, dật dờ,
Phiêu lưu
gió, bụi, bợn nhơ,
Sớm thì chịu
lạnh, đến trưa chịu nồng.
Người hiền
gặp lúc mạng chung,
Gió lành
thổi mát, Đời trông huy hoàng.
Như sông
chảy giữa đồng hoang,
Ẩn đây, hiện
đó lại càng đẹp xinh.
Vạy nên công
đức đắc thành
Tạo ra thời
đại hòa bình, an cư.
Nhưng cần
phải có lòng từ
Giữa người
trong xứ cũng như nước ngoài
Có chi trở
ngại hỡi ai ?
Ấy là ám độn
gạt đời: vô minh.
Con người
lạc nẽo đã đành,
Ngỡ là cảnh
giả là hình chánh chơn;
Chạy theo
bóng dáng chẳng sờn,
Được rồi,
ham nữa, sanh hờn, khổ, đau.
Đường "Trung
đạo", nếu muốn cầu,
Quyết mau
tiến tới để thâu Niết-bàn,
Hãy nghe ta
giảng từng ban,
Bốn nền
Diệu-đế vẹn toàn dưới đây:
***
Đế đầu tức
thị khổ lây,
Chớ nên mê
lụy, đắm say cuộc đời.
Chỉ là thống
thiết hỡi ơi,
Não nề, tồn
tại, hòa hài tách ra,
Khổ thay khi
mới sanh ra,
Khổ vì thất
vọng, thạnh là khổ luôn;
Âm suy khổ,
bệnh khổ buồn.
Già nua cũng
khổ, chết tuôn khổ sầu.
Trọn đời
khổ, có gì đâu?
Thế nhơn
thường lại tham cầu ái ân;
Má đào, môi
thắm, vóc trơn,
Có ngày cháy
khét, chịu phần hỏa thiêu,
Chiến công
rực rỡ bao nhiêu,
Vua tài,
tướng mạnh cũng đều bỏ thây.
Thế gian
cảnh đẹp phô bày,
Chúng sanh
tranh sống lại quày giết nhau,
Trời như
ngọc tốt một bầu,
Nhơn dân đói
khát, vái cầu chẳng mưa.
Hỏi người
bệnh, tật dây dưa,
Hỏi người
chống gậy, răng thưa, mù lòa:
Sống đời thú
vị chăng a?
Đáp rằng:
"Khen trẻ tu-oa chào đời!
***
Tập là
Diệu-đế thứ hai,
Nhơn duyên
khổ não chẳng ngoài ái tâm (9).
Căn, trần
hai thứ đụng nhằm,
Nháng ra
thành lửa mê lầm, tríu, tham.
Chẳng qua
ảnh dối, mộng xàm,
Các người
đeo riết, chẳng làm sao buông;
Giữa là bàn
ngã vọng cuồng,
Chung quanh
cảnh-giới như tuồng huyễn vu.
Các người
đeo riết, chẳng làm sao buông;
Các người
như kẻ đui mù
Chẳng nhìn
ánh sáng nhiệm mầu, rất cao;
Các người
tai điếc hay sao,
Chẳng nghe
tiếng gió ngọt ngào trên khơi?
Miệng câm
nên chẳng đáp lời
Cùng trang
chơn thật bỏ đời phỉnh ngoa.
Vậy nên
giành giựt, tham tà,
Làm cho mặt
đất can qua diễn bày.
Bị lầm, bao
kẻ nuốt cay,
Mắt sa giọt
lệ, tâm đầy xót đau.
Vậ﹠sanh
phiền não, oán-thù,
Ghét
ganh,tật đố, giận nhau cả đời.
Năm nầy hung
bạo máu rơi,
Năm kia giết
hại, phơi thây đầy đồng.
Chỗ nào có
lúa dòng dòng,
Tức xen cỏ
dại, rễ bông hại người.
Thiếu phân,
thiếu đất, tốt tươi được nào?
Tâm lạc nẻo,
độc uống vào,
Nghiệp sanh
ra nữa, khát khao lại nhiều,
Căn (10)
nương cảnh (11) ngoại mà đeo,
Làm cho
Bản-ngã mãi theo vọng lầm.
***
Đế ba, Diệt
khổ thân tâm,
Thắng lòng
tự ái, tình thâm với đời;
Rễ phiền
não, bứng rã rời,
Giữ không
chấn động ở nơi lòng mình.
Tình yêu
chuyển biến tốt xinh,
Con người tự
chủ, cao vinh hơn thần;
Trờ nên phú
túc vô ngằn,
Nhờ ơn bố
thí, tu thân, khuyên lành;
Những công
của ấy theo mình,
Sống thì giữ
lấy thác đành đem theo.
Bấy giờ khổ
não ắt tiêu,
Tử, sanh
phải dứt, đèn treo hết dầu!
Nợ xưa trúc
sạch làu làu,
Sổ nầy trắng
trẻo, người thâu Phước lành.
***
Thứ tư, Đạo
đế giải rành,
Con đường
bằng phẳng, thinh thinh hầu kề.
Mọi người có
thể theo về,
Noi đường
Bát-Chánh đắc bề lạc, an.
Xưa nay, tu
sĩ muôn ngàn.
Đã từng tới
đỉnh đầy tràn, tuyết, mây.
Triều non
chỗ dịu, chỗ gay,
Ai lên thì
ắt có ngày tới nơi,
Bấy giờ trên
đỉnh tót vời,
Trông xa
thấy một cảnh trời khác xưa.
Những người
dõng lực có thừa,
Lướt đường
thẳng, tắt lại vừa cheo leo.
Những ai yếu
sức cũng trèo.
Nghỉ chơn
nhiều chặng và theo đường dài.
Đó là
Bát-Chánh-Đạo khai,
Đưa về an
tĩnh, dốc, tài khác nhau;
Đầu non
tuyết phủ trắng phau,
Yếu thì đến
chậm, dạn mau tới miền.
***
Noi theo
chánh kiến đầu tiên,
(Pháp) (12)
lành nên giữ, Nghiệp (13) hiền khá luân;
Do Nhơn Quả,
(14) tạo hiện thân
Hãy lo kiềm
chế sáu phần giác quan.
Chánh tư
duy, biết xét bàn,
Thương người
xót vật, lo toan hiền lành,
Chẳng tham,
chẳng giận, chẳng ganh.
Dường như
gió mát, đời mình nhẹ trôi.
Thứ ba là
Chánh-ngữ rồi,
Giữ mồm như
lính đứng ngồi ngọ môn
Nói lời
thành thật, ôn tồn,
Cũng như
chầu bực quý tôn vua hiền
Bốn là Chánh
nghiệp tiếp liền;
Lỗi lầm giảm
bớt, phước điền cao thâm;
Việc làm
phát lộ từ tâm.
Như trong
hạt chuỗi thấy ngầm sợi dây.
Lại còn bốn
nẻo vinh thay,
Muốn nơi thì
phải rảnh tay việc trần
Chánh mạng
với Chánh Tinh-cần (15)
Chánh-Niệm,
Chánh-Định đủ phần tám ban,
Ớ hồn yếu
cánh chớ toan
Bay lên mặt
nhựt muôn ngàn cao xa!
Ở đây ,
không khí dịu hòa,
Vật dùng
quen thuộc vốn là không nguy.
Riêng nhà
dõng lực khó bì.
Tự mình có
thể vượt đi xa đường.
Thương con
mến vợ đạo thường.
Đó là việc
tốt chẳng phường hại chi.
Bạn bè có
lại có đi,
Lâu lâu giả
trí vậy thì cũng nên.
Của tiền
giúp kẻ khóc rên,
Ở ăn hiền
hậu, hưởng bền phước ân.
Lo lo, sợ
sợ, ngại ngần,
Tuy là sái
quấy, tinh thần vẫn quen.
Nếu cần, hãy
rán bòn chen,
Leo thang
từng nấc, tập rèn nết na.
Tháng ngày
tiến hóa dần dà,
Trước nương
hữu tướng, kế qua vô hình.
Hạ, Trung
rồi tới Thượng hành,
Tùy theo căn
tánh của mình mà lên,
Như vầy dễ
đạt mức trên,
Tội mòn,
tình giảm, nhập đền Thế-tôn.
***
Sơ Quả (16)
đắc, Tứ đế ôn.
Tu hành Bát
Chánh, Pháp môn Niết-bàn.
Kế thâu
Nhị-Quả (17) , tâm an,
Không nghi
Chánh pháp, dị đoan dẹp trừ ;
Chẳng mê
sách vở, ni sư,
Còn sanh một
thuở, nhập ư Niết-bàn.
Quả ba (18)
cao trổi khó bàn,
Tinh thần
oai mãnh lại hoàn tịnh thanh;
Từ tâm yêu
khắp chúng sanh,
Luân hồi tái
thế hẳn bành cáo chung,
Quả tư, La
hán viên dung,
Của hàng
Thánh giả Lục thông, Phật Đà.
Lần hồi bốn
quả trải qua,
Cuối cùng
hành giả lìa xa mười lầm;
Kiến thân,
thủ giới, nghi tâm,
Giận hờn, ái
luyến, tình thâm dục trần,
Ngưỡng mong
cõi sắc cao hơn,
Hoặc Tham vô
sắc, kiêu lờn, rối ren,
Vô minh lầm
lạc từng quen,
Sau cùng dứt
được, dự quen Niết bàn,
Nương cảnh
đảnh tuyết Thái san,
Ngó lên vô
tận một màn xanh xanh.
Thần tiên
thấp, muốn như mình,
Tang thương
tam giái chẳng chinh tấc lòng.
Tử sanh,
mình hết vướng vòng,
Nghiệp không
tạo tác nhà phòng làm chi.
Chẳng cầu,
nhưng có đủ đầy,
Tiêu tan bản
ngã, hòa vầy hư không.
Niết bàn
chẳng phải là không.
Cũng không
phải có, khó mong hiểu tường;
Đó là nguồn
sáng khôn lường,
Phước linh
vượt khỏi thế thường, thời-gian.
Hãy vào cửa
đạo vui an,
Càng nhiều
sân hận, càng lan khổ hình.
Ốm đau gây
bởi dục tình,
Giác quan là
bọn gạt mình vậy thôi.
Hãy vào cửa
đạo cho rồi,
Tình yêu, sở
thích bỏ trôi chả cần.
Hãy vào cửa
Đạo vững chân,
Suối lành,
nước tịnh thoả phần khát khao.
Muôn hoa
trường thọ ngạt-ngào,
Nở dài theo
lộ, đón chào khách tu.
Canh tàn
khắc lụn như ru,
Gởi thân vào
Đạo, xuân thu thanh-nhàn!
Pháp hơn
vàng ngọc thế-gian,
Diệu hơn mật
ngọt, vượt ngàn cuộc vui.
***
Tu hành muốn
chẳng thối lui,
Hãy nghe năm
giới đầu đuôi cho rành:
Lòng thương
chẳng giết mạng sanh,
Vật đương
tiến hóa thì mình đỡ nâng.
Khi cho, khi
nhận tùy ưng,
Của tiền phi
nghĩa thì đừng đoạt thâu.
Không láo
xược, chẳng phao vu.
Do lòng
trong sạch nói câu chơn thành.
Giữ gìn thân
tỉnh, tâm minh,
Rượu nồng
chớ uống, đồ tanh chớ cầm.
Tránh điều
hoa nguyệt tà dâm,
Ra vào
nghiêm chỉnh, ngồi nằm đoan trang.
***
Phật bèn
giảng dạy luân thường:
Mẹ cha, con
cái, lân bàng, anh em.
Những ai còn
bị buộc kèm,
Thê thằng tử
phược lèm nhèm chẳng ra;
Những ai
chưa lướt cao xa,
Hãy làm
phước thiện, hiền hòa, tu thân;
Trên đường
Bát chánh dò lần,
Sống cho
trong sạch, nghĩa, nhân, khiêm, nhường;
Chúng sanh
lên xuống sáu đường,
Mình thương
tất cả như thương lấy mình.
Việc chi tồi
tệ hiện hình.
Đó là kết
quả tội tình buổi xưa;
Việc chi tốt
đẹp chúng ưa,
Do nhơn
thiện phước ban sơ tạo thành,
Nhờ công thứ
tự tu hành,
Thoát ly bản
ngã, đức lành độ tha,
Chuyển sanh,
hưởng phước thêm ra,
Dự hàng Bất
thối chẳng xa Bồ đề.
Phật bèn
thuật chuyện tu tề:
Thế Tôn lúc
trước ngự về Trúc lâm,
Nước
Ma-kiệt, chốn phúc âm,
Kinh-đô
Vương-xá, trung tâm đạo mình,
Một hôm,
nhằm lúc bình minh,
Dạo chơi gặp
một thơ sinh con nhà.
Thi-Ca-La-Việt tên là,
Bà-la-Môn
chủng, nết-na tu hành.
Gội đầu, rửa
mặt, kỳ mình,
Bước lên
khỏi nước, kinh thành sáu phương :
Đông, Tây,
Nam, Bắc hướng thường:
Phương Trên,
Phương Dưới cũng đương lạy quỳ,
Phật
rằng:"Tiên tổ dạy thì phải vâng.
Ánh trời
buổi sáng vừa hừng.
Trước khi
làm lụng lạy mầng dưới, trên;
Cùng là lễ
kính bốn bên.
Cầu xa tai
ách, phước bền gia trung."
Thế Tôn gạn
đục lóng trong:
"Thôi đừng
rảy gạo khắp cùng sáu phương.
Hãy đem tư
tưởng hiền lương
Với hành
động thiện, khéo lường phổ xa:
Đông phương
là mẹ với cha,
Hào quang từ
đó phát ra thế trần,
Nam phương
thầy dạy ân cần,
Mình theo
học tập hưởng phần phước son,
Tây phương
là vợ với con,
Gia đình êm
thấm, cơm ngon buổ chiều.
Bắc phương
là bạn mến yêu,
Đồng bào,
đồng loại dắt dìu với nhau.
Hạ phương
tức kẻ tớ hầu,
Mình nên đùm
bọc, bảo câu ngọt ngào.
Thượng
phương, biểu hiện hùng hào,
Thánh hiền,
đạo đức, tiên cao, linh thần.
Sáٵ phương
kính, phận sự cần,
Thi hành
được vậy, phước gần họa xa (19)."
***
Đó là khuyên
kẻ tại gia;
Với hàng
Tăng chúng, Phật đà thuyết cao.
Dạy cho Thập
giới (21) thanh tao,
Tam-môn
(22), Tam trí (23), khiến vào Lục thông (24)
Lục-ba-la
mật (25) gắng công,
Dạy luôn
Bát-Định (26) thoát vòng lao luy.
Trước là dạy
phép Tam Quy (27)
Sống nơi
tịnh thất, an di, thanh bần.
Cơm rau,
nước mát là cần,
Tam y, bình
bát đủ phần nghiêm trang
Tăng già
giáo hội vinh vang,
Tiếp truyền
độ thế, áo vàng cà sa.
***
Trọn đêm
Phật ngự Pháp tòa,
Chẳng ai
buồn ngủ, nghe và thích ưa
Thế Tôn
thuyết diễn mãn giờ,
Đức vua lễ
bái, rồi thưa mấy lời :
"Từ bi nhờ
lượng của Ngài,
Nhận tôi đệ
tử vào nơi Hội lành."
Da Du công
chúa kính trình:
"Xin truyền
Pháp Bảo con mình Hầu-La" (28)
Ba người
(29) nhập Đạo Phật-đà,
Pháp môn
giải thoát cho nhà tỉnh tu.
Đến đây xin
phép ngừng câu,
Tôi người
ngưỡng mộ đức mầu Thích Ca,
Ngài thương
tất cả chúng ta,
Tiếc tôi
biết ít, nói ra kém bề.
***
Kể từ thành
Đạo Bồ đề,
Bốn mươi
chín tuế chợ quê giảng truyền,
Thuyết bằng
ngôn ngữ các miền.
Chỉ cho mọi
lối dứt phiền, đắc an,
Ánh minh Ấn
Độ rọi lan,
Á châu rồi
lại khắp tràn năm châu.
Gió lành bủa
cả hoàn cầu,
Sức linh
Phước huệ đổi sầu hóa vui.
Trong Kinh
có chép đủ hồi,
Thị thành,
tinh xá, Phật lui tới thường;
Các vua ghi
tích cúng dường,
Khắc trên
hòn đá, nẻo đường, động thanh,
Đến khi sự
nghiệp hoàn thành,
Như lai nhập
diệt, pháp lành còn rơi,
Đạo nầy, vô
số người noi,
Niết Bàn mục
đích, nhắm coi mà về,
Phật Đà oai
đức cao xuê.
Dung tha đệ
tử vụng về câu văn!
Trí phàm
khôn độ thánh căn,
Lời thơ yếu
ớt khó phăng lòng từ!
Phật
là đèn sáng, Đạo sư (30)
Qui-y với
Phật, dứt trừ tối tăm,
Pháp
Ngài, Đạo lý thậm thâm,
Qui y với
Pháp là nhằm lẽ hay,
Tăng
là trong sạch hằng ngày,
Qui y Tăng
chúng đức dày giúp nên,
Sương ngời
trên cánh hoa sen,
Trông vào
vầng nhựt lộ lên, chiếu cùng.
Án-Ma-ni
Bát-di hồng!
Bình-minh lố
thấy, vầng hồng sáng trưng.
Giọt sương
như ngọc chiếu bừng.
Tản vào biển
rộng, lâng lâng, vô cùng.
Dịch xong năm 1961
Đoàn Trung Còn
Chú Thích
(1) Cô-há-ná (Kohâna) - (2) Tuyết-sơn, dịch
nghĩa chữ Hỷ-mã-lạp-nhã (Himalaya).
(3) Ca-tỳ-la-vệ(Kapilavastou): Kinh-đô vua
Tịnh-Phạn, Thái-tử Thích-Ca sanh trưởng ở đó, lập gia đình ở đó, nửa đêm
bỏ thành mà xuất gia. Sau khi thành Đạo, Ngài trở về thành ấy mà giáo
hóa vua cha , vợ cũ, quan dân.
(4) Án, A-Di-Dà-Dà (Om Amitaya): câu
chơn-ngôn có sức linh thủ hộ người niệm.
(5) Bánh xe luân chuyển ấy do sự Đấu tranh
và Sức lực thúc đẩy nó quay mãi mà không ai ngăn cả nổi, không ai làm xê
dịch nổi.
(6) Pháp, Đạt ma (Dharma)
(7) Âm theo Phạn: Om mani; Padmé, om!
(8) Nghiệp. Phạn: Karma Nghiệp hợp bởi hai
(Nghiệp-nhơn). Quả (Nghiệp-quả) thiện hoặc
ác
(9) Ái, tức Ái-dục, Phạn: Trishna.
(10), Trong là sáu căn,(11) ngoài là
sáu cảnh (sáu trần).
(12) Pháp (Dharma)
(13) Nghiệp (Karma)
(14) Cái nghiệp (Karmâ) hợp lại bởi hai
phần:Nhơn tức nghiệp nhơn quả, tức Nghiệp Quả.
(15) Chánh Tinh cần, tức Chánh Tinh tấn.
(16) Sơ Quả: Phạn: Tu-đà-hoàn (Sotapatti).
(17) Nhị-Quả: Quả thứ nhì. Phạn: Tư-đà-hàm
(Sakadagami)
(18) Quả thứ ba, Phạn: A-na-hàm (Anâgâmi),
(19) Nghiệp, Phạn: Karma.
(20) Đoạn trên đây trích ở Thi-Ca-La-Việt
Kinh, Kinh nầy tôi có dịch, xuất bản chung với quyển Na-Tiên Tỳ-Kheo
kinh,
(21) Thập Giái (Phạn : Dasa-sila) : Mười
Giái cấm. 1)- Chẳng giết mạng sống. 2)- Chẳng trộm cắp, 3)- Chẳng dâm
dục, 4) -Chẳng nói bậy, 5)- Chẳng uống rượu, 6)- Chẳng sửa tóc đẹp,
hương tốt thoa mình, 7)- Chẳng đóng vai trò múa hát, Cũng chẳng tới xem,
nghe, 8)- Chẳng được ngồi trên giường lớn cao rộng, 9)- Chẳng được ăn
quá ngọ, 10)- Chẳng được chứa tienଠbạc, vàng, đồ quí.
(22) Tam môn, tức Tam giải thoát môn:
Không, Vô-tướng, Vô-tác (Vô nguyện)
(23) Tam trí: Thinh văn Trí. Duyên giác
Trí, Phật Trí.
(24) Lục thông: Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ
thông, Tha tâm thông, Thần túc thông, Túc mạng thông, Lậu tận thông.
(25) Lục Ba-la-mật: Bố thí, Trì Giới, Nhẫn
nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ. Sáu đại hạnh của Bồ tát tu để mau
thành Phật
(26) Bát Định: 1)- Sơ Thiền định, 2)- Đệ
nhị Thiền-định, 3) Đệ tam Thiền định, 4)- Đệ tứ Thiền định, 5)
Không có vô biên xứ định 6)- Thức vô-biên xứ Định, 7)- Vô sở hữu xứ
Định, 8)- Phi tưởng phi tưởng xứ Định.
(27) Tam quy: Qui y Phật, Qui y pháp, Qui y
tăng.
(28) Hầu-La. tức Ra-hầu La (Rahoula) con
trai của Thái-tử Tất-Đạt-Đa và của bà Da-Du-đà -la.
(29) Ba người: Vua cha Tịnh-phạn,công chúa,
Da-Du vợ cũ của Thái-tử, La-hầu-La con của Thái-tử và của công-chúa.
---o0o----
Lời tựa|
Phần 1|
Phần 2|
Phần 3|
Phần 4
Phần 5|
Phần 6|
Phần 7|
Phần 8
--o0o--
Vi tính : Bích Hương
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật : 01-01-03
|
|