Phần
này, tôi không biên những lời cao siêu của chư Tổ, chỉ
rút những chỗ thực hành công phu khẩn thiết. Lại rút gọn
những chuyện cốt yếu cho tiện hằng ngày đọc qua để kích
lệ thân tâm.
1.
Hoàng
Bá Vận Thiền sư dạy Chúng
Về
trước tu tập nếu chưa thấu triệt, một phen lưỡi hái tử
thần kề cổ, sẽ thấy trăm mối rối ren. Thế mà, có một
bọn ngoại đạo vừa thấy người hạ thủ công phu, bèn cười
lạt, bảo rằng : Còn có cái ấy nữa. Ta thử hỏi ông : Nếu
khi thần chết đến, ông lấy cái gì để chống cự lại
? Vậy lúc rảnh rang lo giải quyết cho xong, đến khi gấp rút
được ít nhiều tỉnh lực. Chớ đợi khát nước mới lo
đào giếng, khi tay chân co rút, đường trước mịt mờ, trăn
trở rối loạn, khổ thay ! Khổ thay ! Bình nhựt chỉ học
Tam muội ngoài môi, nói thiền, nói đạo, trách Phật, chê
Tổ, đến lúc này tất cả buông xuôi. Chỉ tưởng dối với
người, đâu ngờ ngày nay dối mình.
Tôi
khuyên hết thảy huynh đệ, lúc thân thể còn tráng kiện nên
chọn lấy những điều mình đã hiểu, làm động cơ tu tiến
thì rất dễ dàng. Tự các ông không chịu lập chí quyết
chết thực tập công phu, chỉ nghĩ là khó thì lại càng thấy
khó. Nếu là bậc trượng phu hãy khán công án. Có vị Tăng
hỏi ngài Triệu Châu : "Con chó có Phật tánh không ?" Ngài
Triệu Châu đáp : "Không". Suốt 12 thời (24 tiếng đồng hồ)
khán một chữ KHÔNG. Ngày tham, đêm tham, đi, đứng, ngồi,
nằm, mặc áo, ăn cơm, đại tiểu tiện v.v… đều dồn hết
tinh thần khán một chữ KHÔNG. Lâu ngày chầy tháng kết thành
một khối, bỗng nhiên tâm hoa khai phát, ngộ được cái máy
nhiệm mầu của Phật, Tổ, sẽ không còn ngờ vực câu nói
của Lão Hòa thượng, thấu triệt đại ngộ. Tổ Đạt Ma
từ Ấn Độ đến, không gió đã làm dậy sóng. Đức Thế
Tôn đưa cành hoa cả hội đều ngơ ngác. Lý này, dù nói đến
chết, cả ngàn vị Thánh còn chẳng biết thế nào, chưa tin
được cái đạo quá kỳ đặc như thế. Việc này chỉ ngại
người hữu tâm.
2.Triệu
Châu Thẩm Thiền sư dạy Chúng
Các
ông chỉ thấu đạt lý tọa thiền, chuyên khán hai ba mươi
năm, nếu không hội ngộ chặt đầu Lão Tăng đi. Lão Tăng
ngót 40 năm chuyên khán không dụng tâm tạp loạn, trừ hai
thời cơm và cháo mới tạp dụng tâm.
3.Huyền
Sa Bị Thiền sư dạy Chúng
Phàm
người học Bát nhã Bồ tát phải đủ đại căn cơ, đại
trí tuệ mới được. Nếu căn cơ trì độn, phải chuyên cần
khổ nhọc, nhẫn nại đêm ngày quên mệt, giống như người
đi đưa đám ma mẹ, cần cù cấp bách sẽ có người phụ
lực. Ghi tạc trong lòng chuyên tâm thật cứu, ắt có ngày
hội ngộ.
4. Đại
Nghĩa Thiền sư răn dạy
Chớ
có quên mình với tử tâm,
Bệnh
này khó trị thật quá thâm,
Mau
mau đề khởi tâm suy xét,
Cần
kiếm Tổ sư nghĩa nhiệm mầu
Lỡ
khi ngủ gật, liền trợn mắt,
Xem
thử kèo nhà, nó là gì ?
Nếu
người tịnh tọa chẳng dụng công,
Bao
giờ mới được ngộ tâm không ?
5.Vĩnh
Minh Thọ Thiền sư răn dạy
Cửa
học đạo không có gì kỳ đặc, chỉ cần gột sạch căn,
trần và những chủng tử nghiệp thức từ vô lượng kiếp
đến giờ. Các ông nếu tiêu trừ hết tình niệm, đoạn dứt
vọng duyên, đối với tất cả thứ ái dục ở thế gian tâm
không động nhiễm như cây đá, dù đạo nhãn chưa sáng, tự
nhiên thân tâm an tịnh. Nếu gặp bậc đạo sư chân chánh
phải thiết tha thân cận, giả sử tham chưa thấu triệt, học
chưa thành tài, một phen tai nghe đạo vị tạo thành chủng
tử đạo trong tàng thức, kiếp kiếp không sa vào ác thú,
đời đời không mất thân người, vừa sanh ra một nghe ngàn
ngộ.
6.Tử
Tâm Tân Thiền sư tiểu tham
Chư
Thượng tọa ! Thân này khó được, Phật pháp khó nghe, chính
đời này không lo độ, mong đời nào độ thân này ? Các ông
thích tham thiền ư ? Phải buông bỏ hết. Buông bỏ cái gì
? Buông bỏ tứ đại, ngũ uẩn, buông bỏ những nghiệp thức
từ vô lượng kiếp đến nay. Nhìn xuống gót chân mình suy
cùng, xét tận xem nó là cái gì ? Xét qua xét lại, bỗng nhiên
tâm hoa phát sáng, chiếu khắp cõi nước mười phương.
Có
thể nói được tại tâm, nắm trong tay, mới hay biến quả
đất thành vàng ròng, khuấy nước sông làm tô lạc, thật
khoái chí thay ! Chớ nên cắm đầu trên sách vở, xét lời
bàn chữ, nói thiền luận đạo, thiền đạo không có ở trên
sách vở. Dù nhớ hết Đại tạng kinh thuộc lòng Bách gia
chư tử, cũng chỉ là luận bàn suông chơi, đến khi chết
trọn không lợi ích gì.
7.Đông
Sơn Diễn Thiền sư tiễn đệ tử đi hành khước
Ông
nên ghi hai chữ Sanh Tử trên trán, xét nét tìm hiểu. Chớ
có kết bè, hiệp bọn cười giỡn qua ngày. Lúc Diêm vương
đến không thể đem cơm tiền đút lót được. Chớ bảo rằng
ta chưa từng nhắc ông.
Nếu
thực tập công phu, phải luôn luôn kiểm điểm thường thường
xét nét, thế nầy là chỗ đắc lực, thế kia là chỗ không
đắc lực, thế này là chỗ được, thế kia là chỗ mất.
Có một bọn vừa lên Bồ đoàn (2) liền ngủ gật, đến lúc
tỉnh thì tâm tưởng lăng xăng, vừa xuống Bồ đoàn là nói
chuyện vang rân. Biện đạo như thế đến Đức Phật Di Lặc
ra đời cũng chưa kết quả. Phải sáng suốt, mạnh mẽ đề
khởi câu thoại đầu, sáng tham, tối tham cùng với thùy miên,
loạn tưởng chống nhau, không nên tọa trong vô sự. Lại không
nên trên Bồ đoàn ngồi như chết. Nếu tạp niệm dấy khởi,
càng tranh đấu càng nhiều chi bằng nhẹ nhàng buông xả, bước
xuống đất đi một vòng. Lại lên bồ đoàn mở mắt, để
hai bàn tay ngón cái gối đầu nhau, xương sống thẳng lên,
y như trước đề khởi thoại đầu, liền có cảm giác mát
mẻ, in như trả nước sôi vừa đổ vào một gáo nước
(1)
Hành khước : Đi khắp nơi tìm thầy, tìm bạn học hỏi, cốt
yếu không ở lâu một chỗ để dứt tâm quyến luyến nhiễm
trước.
(2)
Bồ đoàn : Đồ lót ngồi trong lúc tọa thiền lạnh. Thực
tập công phu như vậy, quyết định có ngày đạt đạo.
8.Ghi
Am Chơn Thiền sư dạy
Tin
có 10 phần, nghi cũng có 10 phần ; nghi 10 phần, ngộ cũng 10
phần. Hãy đem những cái đã nghe, đã thấy, biết quấy, hiểu
lầm, câu hay, lời diệu, thiền đạo, Phật pháp, tâm cống
cao ngã mạn … trong lúc bình sanh trút đổ triệt để. Chỉ
để lại công án còn chưa minh liễu, an định tại gót chân,
ngồi thẳng xương sống, không phân biệt ngày đêm, liền
được quên lửng đông, tây, nam, bắc, tợ hồ như người
chết. Tâm tùy cảnh hóa, tự nhiên bên trong quên suy nghĩ,
bặt tâm thức, chợt phá vỡ đầu lâu, xưa nay không phải
do ai mà được. Bấy giờ đâu không thỏa chí bình sanh sao
!
9.Đại
Huệ Cảo Thiền sư đáp lời hỏi
Thời
nay có những kẻ tự mắt chưa sáng, chỉ biết dạy người
tu tâm như ngây, như chết là hết việc. Hoặc dạy người
tùy duyên quán xét, mang vọng tình lặng lẽ chiếu soi. Hoặc
dạy người việc ấy chớ soi xét. Các bệnh như thế, dụng
công phu rất uổng không bao giờ liễu ngộ. Chỉ cần an tâm
một chỗ, không việc gì chẳng được, một khi thời tiết
nhơn duyên đến, tự nhiên xúc chạm liền thấy khắp nơi
đều bừng sáng.
Đem
tâm thức duyên việc thế gian trần tục của mình, xoay lại
để trên lầu Bát nhã, dù đời này chưa triệt ngộ, nhưng
khi chết nhất định không bị ác nghiệp kéo lôi. Kiếp sau,
vừa ra đời là được ở trong nhà Bát nhã, thấy nghe liền
được thọ dụng. Việc này quyết định như vậy không thể
nghi ngờ.
Chỉ
phải tự luôn luôn đề khởi thoại đầu, khi vọng niệm
dấy khởi không cần dụng tâm đàn áp, nên khán câu thoại
đầu. Đi cũng đề khởi, ngồi cũng đề khởi, đề khởi
qua, đề khởi lại, không cần xét ý nghĩa, nơi nào cũng là
chỗ tốt, không nên phóng xả. Bỗng nhiên tâm hoa khai phát
chiếu soi khắp mười phương cõi nước, hay ở trong đầu
mảy lông hiện các cõi Phật, ngồi trong hạt bụi chuyển
đại pháp luân.
10.
Mông
Sơn Dị Thiền sư dạy chúng
Tôi
năm 20 tuổi mới hiểu đạo, đến năm 32 tuổi đi thưa hỏi
17, 18 vị Trưởng lão, thế nào thực hành công phu, đều không
ai chỉ ra manh mối. Sau đến tham học với Hoàng Sơn Trưởng
lão, dạy khán chữ KHÔNG. Suốt cả ngày đêm chăm chăm khán
nó như mèo rình chuột, như gà ấp trứng, không cho gián đoạn.
Khi chưa thấu triệt phải như chuột khoét rương chưa phủng
thì không dời chỗ khác. Thực hành công phu như vậy nhất
định có ngày phát minh. Tôi y lời dạy, ngày đêm chăm chăm
thể cứu trải 18 hôm, sau khi uống trà, chợt ngộ "Đức Thế
Tôn đưa cành hoa, Ngài Ca Diếp mỉm cười", vui mừng vô hạn.
Đi cầu 4, 5 vị Trưởng lão quyết nghi, các ngài đều không
dạy một lời. Hoặc bảo dùng Hải ấn tam muội (1), nhất
ấn mà ấn định, ngoài ra chớ để lòng. Tôi tin lời nầy
hơn hai năm. Nhằm năm Cảnh Định thứ 5 tháng sáu, tại Tứ
Xuyên phủ Trùng Khánh, tôi bị bệnh kiết nặng, ngày đêm
đi cả trăm lần, nguy kịch sắp chết. Tất cả công phu đều
không đắc lực, đến Hải ấn Tam muội cũng không dùng được.
Những điều hiểu ngộ ngày trước dùng cũng không được,
có miệng không thể nói ra lời, có thân không thể cử động,
chỉ chờ chết mà thôi. Tôi cố sức gắng gượng làm chủ,
phân phó mọi việc xong xuôi, bước lên bồ đoàn, sửa soạn
một lò trầm, chậm rãi ngồi định. Thầm khấn: "Tam bảo
Long Thiên chứng giám, con xin sám hối các nghiệp ác về trước.
Nếu đại hạn con đã đến, nguyện nương sức Bát nhã chánh
niệm thác sanh, sớm được xuất gia. Nếu bệnh được lành,
con xin xả tục làm Tăng, mau được giác ngộ, rộng độ những
kẻ sau". Khởi nguyện nầy rồi, tôi đề khởi chữ KHÔNG
hồi quang tự khán, không bao lâu nghe trong tạng phủ động
ba bốn lần, không quan tâm đến nó, chập lâu mí mắt không
động. Lại lâu lâu không thấy có thân, chỉ có thoại đầu
thầm thầm liên
(1)
Hải ấn Tam muội : Chánh định trong lặng tâm suốt thấu
vạn vật, như biển nước yên lặng vạn tượng đều in hình
không sót. tục.
Đến
chiều mới xuất định, bệnh bớt được phân nửa. Lại
tọa thiền đến cuối canh ba, các bệnh đều dứt, thân tâm
nhẹ nhàng. Đến tháng 8, tôi sang Giang Lăng xuất gia.
Qua
một năm, tôi rời đây đi hành khước, giữa đường dừng
lại thổi cơm, hiểu được công phu một mạch liên tục không
gián đoạn. Đến Huỳnh Long, vào tạm trú. Một hôm, đang
tọa thiền ma ngủ đến, liền tại tòa chấn chỉnh tinh thần,
ma ngủ nhẹ nhẹ rút lui. Lần thứ hai, ma ngủ lại đến,
cũng làm như lần trước chúng thối lui. Lần thứ ba, ma ngủ
rất trầm trọng, bèn bước xuống tòa đi lễ Phật, chúng
liền tiêu tán. Lại lên Bồ đoàn ngồi, y như nghi thức đã
định trước, tinh tấn mãnh liệt đuổi bọn ma ngủ đi mất.
Ban đầu khi ngủ dùng gối ngắn kê đầu, sau dùng cánh tay
gối đầu, sau nữa giữ không cho thân xoay trở. Qua hai ba đêm,
ngày đêm đều nhọc nhằn mỏi mệt, dưới chân bức bách
khó chịu, bỗng nhiên trước mắt như mây mù tan, tự thân
như tắm mới ra nhẹ nhàng mát mẻ. Trong tâm nghi tình càng
mạnh, không cần dụng công mà thầm thầm hiện tiền. Tất
cả thinh sắc, ngũ dục, bát phong đều không thể xâm nhập,
trong sạch tợ như tách pha lê đựng tuyết, như bầu trời
trong tạnh buổi sáng mùa thu. Tự suy nghĩ công phu tuy khả
quan, nhưng không thể quyết trạch. Tôi liền từ giã đi Chiết
Giang.
Dọc
đường quá nhọc nhằn nên công phu thối thất. Đến Thừa
Thiên, chỗ Cô Thiềm Hòa thượng tạm dừng. Tự thệ : "Nếu
không được hội ngộ, quyết không đi đâu". Hơn một tháng
công phu phục hồi như cũ. Bấy giờ khắp mình sanh ghẻ lở,
tuy thế không để ý đến, quyết tâm liều chết sấn sướt
công phu, tự nhiên được đắc lực. Thế là, thực hành được
công phu trong lúc bệnh. Một hôm nhơn đi thọ trai, vừa ra
khỏi cửa đề khởi thoại đầu, đi mà không hay mình đi
cho đến nhà trai chủ. Lại thực hành được công phu trong
lúc động. Công phu đến chỗ này như trăng hoa dưới đáy
nước, tuy sóng gió ầm ầm ở trên mà vẫn không tan, không
mất, hoạt bát linh động.
Ngày
mùng 6 tháng 3, tôi trong khi tọa thiền đề khởi chữ KHÔNG,
bỗng ngài Thủ tọa vào thiền đường thắp hương, đụng
hộp nhang khua lên tiếng, hốt nhiên như dưới đất động
một tiếng, chợt ngộ được chính mình, thấu đạt được
ý ngài Triệu Châu. Liền đắc ý một bài tụng :
Chớ
bảo cuối đường cùng,
Dẫm
ngược sóng là nước.
Lão
Triệu Châu siêu quần,
Diện
mục chỉ như thế. (1)
Khoảng
mùa thu đến yết kiến các vị Đại lão : An Kiến, Tuyết
Nham, Thối Tỉnh, Thạch Khanh, Hư Chu. Hư Chu khuyên trở về
Hoàng Sơn. Tôi y lời trở về Hoàng Sơn.
Vừa
vào chùa gặp Hoàng Sơn Trưởng lão hỏi : "Quang minh tịch
chiếu biến hà sa, đâu không phải lời của Tú Tài Trương
Chuyết ?". Tôi vừa mở miệng, Ngài nạt một tiếng, rồi
đi. Từ đây, đi, ngồi, ăn uống đều không còn ý tứ, trải
qua sáu tháng. Đến năm sau vào mùa xuân, nhơn ra ngoài thành
trở về, lên bực thang đá, bỗng nhiên nghi ngại trong lòng
đều tiêu tan, không còn biết có thân đi trên đường. Tôi
vào yết kiến Hoàng Sơn. Ngài hỏi lại câu trước. Tôi bèn
lật ngược thiền sàng. Về trước những phương pháp thực
hành, bao nhiêu công án, giờ này mỗi mỗi đều minh liễu.
Chư
nhơn giả ! Tham thiền rất là tinh mật, tôi nếu không bị
bệnh nặng ở Trùng Khánh có thể một đời đã trôi xuôi.
Cần thiết gặp bậc thầy thấy biết chơn chánh. Cho nên,
cổ nhơn sáng tham học, chiều thưa (1) Nguyên văn : Một hưng
lộ đầu cùng
Đạp
phiên ba thị thủy
Triệu
Châu lão siêu quần
Diện
mục chỉ như thị
hỏi
để quyết trạch thân tâm, chăm chăm khẩn thiết tham cứu
cho thấu đáo việc này.
11.
Tố
Am Điền Đại sĩ dạy Chúng
Gần
đây những người dốc chí tham thiền rất ít, vừa tham câu
thoại đầu liền bị ma hôn trầm, tán loạn lôi cuốn. Không
biết hôn trầm, tán loạn với nghi tình chống đối nhau. Tín
tâm nặng thì nghi tình nhiều, nghi tình nhiều thì hôn trầm,
tán loạn tự mất.
12.Vô
Lượng - Thương Thiền sư dạy
Suốt
cả ngày đêm đều ôm câu thoại đầu mà đi, mà đứng, mà
ngồi, mà nằm, tâm dường như dẫm lên gai nhọn, không bị
tất cả vô minh, ngũ dục tam độc nuốt sống. Đi đứng
ngồi nằm toàn thân là nghi tình, nghi qua, nghi lại, trọn ngày
như ngây ngốc, thấy sắc, nghe tiếng, chỉ giữ một tiếng
động ấy thôi.
13.
Cương
Nhu Thiền sư đáp thơ người
Thực
tập công phu cần phải khởi đại nghi tình. Ông tập công
phu chưa đầy một tháng đã kết thành khối. Nếu chơn nghi
hiện tiền thì dù khuấy cũng không động. Cần phải dõng
mãnh tiến tới, trọn ngày như kẻ ngây khờ, khi thời tiết
đến, không còn sợ con qui trong vò chạy mất.
14. Tuyết
Nham Khâm Thiền sư dạy
Thời
giờ không đợi người, một chớp mắt đã qua đời khác,
lúc thân thể còn tráng kiện sao không dốc chí học hỏi cho
thấu nguồn tột đáy. Chúng ta có cái diễm phúc gì mà ngày
nay được ở trong Tăng đường ấm cúng, tại pháp hội của
Tổ sư, trên ngọn danh sơn Đại trạch Thần long thế giới
này. Ăn thì cơm cháo ngon lành, uống thì nước nôi ấm áp.
Nếu không dốc chí học hỏi giáo lý cho tận cùng, triệt
để, là các ông tự thả trôi đời mình cam chịu trôi lăn,
thật là kẻ hạ liệt ngu si! Nếu thật là mờ mịt không
biết, sao không thưa hỏi các bậc tiên tri ? Phàm những khi
có người hỏi đạo, các bậc Trưởng lão chỉ dạy, hoặc
nói ngang nói dọc sao không ghi nhớ xét nghĩ rốt ráo thử
cái đó là cái gì ?
Sơn
tăng (Ngài tự xưng) xuất gia lúc năm tuổi, làm thị giả
thượng nhơn, mỗi khi Ngài cùng khách luận đạo đều lặng
tâm lóng nghe, liền biết có việc này, lòng tin chắc chắn
khởi sự học tọa thiền. Năm 16 tuổi làm Tăng, 18 tuổi đi
hành khước. Đến chỗ Hòa Thượng Song Lâm Viễn, thực tập
công phu từ sáng đến chiều không ra khỏi ngõ, dù vào liêu
của chúng cũng chỉ đi đến giá phía sau. Vòng tay trước
ngực, không ngó hai bên, chỉ nhìn trước không hơn ba thước.
Ban đầu khán chữ KHÔNG, chợt niệm đầu phát khởi, liền
phản quán trở lại, bỗng được một niệm như băng lạnh,
tâm lóng lặng trong trẻo không diêu động, hơn một ngày và
khoảng một khắc (15 phút) không nghe tiếng chuông trống.
Năm
tôi 19 tuổi dừng tại Linh Ẩn, được thơ Xử Châu gởi đến.
Trong thơ nói : "Nghe ông thực tập công phu như nước lạnh,
việc ấy không hay, hai tướng động và tịnh phải đoạn
dứt. Phàm tham thiền phải khởi nghi tình, nghi ít ngộ ít,
nghi nhiều ngộ nhiều…". Được Xử Châu chỉ bảo, tôi liền
đổi thoại đầu khán "càn niệu quyết" (1). Một bề đông
nghi tây nghi, khán ngang khán dọc, lại bị hôn trầm, tán loạn
giao công, không được một khắc yên tịnh. Tôi bèn dời sang
Tịnh Từ. Được bảy huynh đệ kết bạn tọa thiền, giao
ước không đấp mền và không kề lưng xuống chiếu. Ngoài
ra, có Tu Thượng tọa mỗi ngày ngồi trên bồ đoàn in tuồng
"thiết quyết tử" (2) khi bước xuống đi mở đôi mắt, xuôi
hai tay cũng tợ "thiết quyết tử". Muốn gần gũi Ngài để
hỏi thoại đầu, mà không được. Nhơn hai năm thân không
nằm, bị hôn trầm hành rất khổ sở. Bèn một buông, tất
cả đều buông. Sau hai tháng, mới chỉnh đốn được sự
tu tập trước, lần lần tinh thần hồi
(1)
Càn niệu quyết : có người hỏi Tổ Vân Môn : "Thế nào là
Phật ?" Tổ đáp: "Càn niệu quyết" (đồ hốt phẩn)
(2)
Thiết quyết tử : Dáng sừng sừng chăm chăm đáu đáu in tuồng
cây giá áo sắt. phục. Lâu nay cốt mong đạt được bản
hoài, nên không nằm quên ngủ ; nhưng không ngủ không được,
đến giữa đêm buồn ngủ muồi phải ngủ một giấc, thức
dậy mới có tinh thần.
Một
hôm, bên hành lang gặp Tu Thượng-tọa, mới một lần được
gặp Ngài. Tôi liền hỏi : "Năm rồi, muốn nhờ thầy dạy
câu thoại đầu, tại sao thầy cứ tránh tôi ?". Thượng tọa
bảo : "Người chơn chánh biện đạo không có rảnh mà cắt
móng tay, huống là dạy thoại đầu". Tôi hỏi : "Hiện giờ
tôi bị hôn trầm, tán loạn đuổi không đi, phải làm sao
?". Thượng tọa dạy : "Tại ông không mãnh liệt, phải lên
Bồ đoàn ngồi thẳng xương sống, gom toàn lực vào câu thoại
đầu, không màng đến hôn trầm, tán loạn". Tôi y lời dạy
của Thượng tọa thực hành công phu, bỗng nhiên quên cả
thân tâm, trong trẻo sáng suốt cả ba ngày đêm, hai con mắt
không nhắm. Ngày thứ ba, sau buổi ngọ trai, tôi kinh hành ngoài
tam môn, chợt gặp Thượng tọa. Thượng tọa hỏi : "Ông thực
hành công phu thế nào ?". Tôi thưa : "Được đạo". Thượng
tọa hỏi : "Ông nói thế nào được đạo ?". Tôi lặng thinh
không thể trả lời, lại tăng thêm mê muội. Toan quay vào
thiền đường tọa thiền, chợt gặp Thủ tọa. Thủ tọa
bảo : "Ông chỉ mở sáng đôi mắt, xem thử cái ấy là cái
gì ?". Tôi lại bị đề thêm một câu thoại đầu, vội vã
vào Thiền đường tọa Thiền. Vừa lên ngồi Bồ đoàn, bỗng
nhiên trước mặt mở sáng như tuồng đất lỡ. Trạng thái
này không thể trình bày cho người hiểu được, không thể
lấy các tướng thế gian thí dụ được. Tôi bèn bước xuống
đơn tìm Thượng tọa. Thượng tọa thấy, liền bảo : "Tốt
lắm ! tốt lắm". Rồi nắm tay tôi dẫn đi một vòng trên
bờ liễu trước cửa chùa. Ngước nhìn trời đất xum la vạn
tượng, những vật mắt thấy tai nghe xưa nay là đáng chán,
đáng bỏ, cho đến vô minh, phiền não từ trước đến giờ
đều là Diệu minh của mình, lưu xuất từ chơn tánh. Hơn
nửa tháng không khởi xao động. Rất tiếc ! không gặp bậc
Tôn túc sáng suốt hướng dẫn nên không tiến lên được,
phải dừng trụ nơi đây. Không thể vượt được chỗ thấy
biết, làm ngăn ngại chánh tri kiến, mỗi khi ngủ cảnh khác
lúc thức. Chỉ thú của công án thì lý hội, còn "núi bạc
vách sắt" (1) thì không hiểu. Tuy gần gũi những vị Tiên
sư chưa đạt đạo, cũng nhiều năm nhập thất, thăng tòa,
mà không có một lời nào giải quyết được sự nghi ngại
trong tâm. Trong kinh giáo và những lời Ngữ lục cũng không
cứu được bệnh này. Ôm ấp cái nghi này trong lòng ngót 10
năm.
Một
hôm, ở Thiên mục, tôi kinh hành trên điện Phật, mắt chợt
thấy một gốc Bá cổ, vừa thất liền phát (1) Núi bạc vách
sắt : Linh tánh cao vút khó với tới, thí dụ như núi bạc
vách sắt khó vịn được.