III.
DẪN CÁC KINH
1.
Im lặng chuyên cần tu tập
Tôn
giả A Na Luật Đà, Tôn giả Nan Đề, Tôn giả Kim Tỳ La ở
chung trong rừng chuyên tu thiền định. Sáng các Ngài trước
sau đi khất thực, trở về thọ trai xong, mỗi vị đều tọa
thiền đến chiều mới dậy. Vị nào dậy trước, thấy trong
hũ hết nước, nếu mạnh thì một mình đi xách, nếu yếu
lấy tay ra dấu gọi một vị
(1)
Phần này tôi chỉ trích dịch chớ không dịch tất cả. nữa
cùng xách, mỗi người không nói chuyện với nhau. Đến năm
ngày mới họp một lần, hoặc hai người thuyết pháp, hoặc
như Thánh im lặng.
(Kinh
Trung A Hàm)
2.
Không thấy Đạo thề không nằm nghỉ
Một
vị xuất gia ở nước Ba La Nại, tự thệ : "không khế hội
chơn lý, thệ không nằm nghỉ". Ngày đêm đều đi kinh hành,
trải ba năm như vậy, liền đắc đạo.
Một
vị sa môn ở nước La Duyệt Kỳ, trải cỏ làm nệm ngồi.
Ngài tự thệ : "không đắc đạo, quyết không rời chỗ này".
Những khi buồn ngủ quá, Ngài lấy dùi chích vào vế cho mất
buồn ngủ. Trong vòng một năm như vậy, ngài ngộ đạo.
(Kinh
Tạp Thí Dụ).
3.
Vì chuyên cần cam chịu mọi khó khổ
Giả
sử thân ta máu thịt khô kiệt, chỉ còn da bọc xương, nếu
chưa đạt được thắng pháp, quyết không dừng nghĩ. Vì tinh
tấn cam chịu những việc nóng, lạnh, đói, khát, gió, mưa
… lại cam chịu người khác hành hạ thân thể đau đớn,
cam chịu mọi sự mắng nhiếc, hủy nhục của người.
(A
Tỳ Đàm Tập Dị Môn Túc)
4.
Hông không bén chiếu
Ngài
Hiếp Tôn Giả 80 tuổi mới xuất gia. Những vị Tăng thiếu
niên hỏi Ngài : "Cái việc của người xuất gia, một là tập
tu Thiền định, hai là học tụng kinh điển, mà ông nay tuổi
già yếu làm sao tu tiến được ?". Tôn giả nghe rồi, liền
phát thệ : "Tôi nếu không thông ba Tạng kinh, không đoạn
được ái dục trong ba cõi và chứng được sáu pháp thần
thông, đầy đủ tám món giải thoát, thệ không để hông
bén chiếu". Từ đây, Tôn giả ban ngày thì nghiên cứu giáo
lý, ban đêm thì tọa thiền an định, suốt ba năm như vậy,
liền chứng đầy đủ như sở nguyện. Người thời bấy giờ
kính trọng hạnh tinh tấn của Ngài, nên đặt hiệu là "Hiếp
Tôn Giả" (Tôn giả hông không bén chiếu).
(Tây
Vức Ký)