TIỂU
SỬ THIỀN SƯ LAI QUẢ
Sư
tên Diệu Thọ tự Lai Quả, hiệu là Tịnh Như, con nhà nông
họ Lưu, quê ở huyện Hoàng-Cương, tỉnh Hồ Bắc.
Năm
lên bảy, Sư nghe vị Tăng bên cạnh tụng câu "Vô trí diệc
vô đắc" trong Tâm Kinh, Sư có tỉnh ngộ.
Năm
12 tuổi, Sư có chí thoát trần, trốn đi xuất gia, bị người
anh tìm bắt trở về.
Năm
15 tuổi, Hòa Thượng Đại Trí dạy lấy niệm Phật để liễu
thoát sanh tử, Sư bèn niệm Phật thành phiến, cho đến ngủ
chiêm bao cũng vẫn lớn tiếng niệm Phật. Hòa Thượng nói:
"Đây là chân thật niệm Phật. Vậy niệm Phật là người
nào? Ông biết không?". Sư không đáp được. Hòa Thượng nói:
"Đợi
ông tìm ra người niệm Phật, ta sẽ nói chuyện với ông."
Năm
18 tuổi, Sư cắt gan trị bịnh cho cha.
Năm
Ất-Tî (1905 TL) Sư 25 tuổi đi hành hương ở núi Phổ Đà,
gặp một vị tăng khổ hạnh, Sư cảm kích bèn xuống tóc
ở núi Bảo Hoa, Sư bị Chư Tăng trong Chùa hành hạ khổ sở
chẳng xiết, trốn đến bờ sông, nhiều ngày bị nhịn đói,
cùng với chó hoang ở chung, muốn đâm đầu xuống sông tự
vận, bỗng gặp vị Tăng ở Chùa Di Đà ở Kinh Khẩu cứu
kịp. Sư theo vị Tăng ấy đến Chùa Kim Sơn, song vì chưa thông
thuộc quy củ nên một hôm bị đánh hơn bốn trăm hương bản.
Ngày
26-9 năm Quang Tự thứ 34 (1908 TL), Sư nghe tiếng mõ khai tịnh
sau thời khóa công phu buổi chiều tối, hoát nhiên thoát-lạc
như buông gánh nặng ngàn cân, đánh mất cái mũi mẹ sanh,
khóc to chẳng nín, hư không trên trời, nước chảy dưới
đất, tất cả trệ ngại hoàn toàn tiêu hết, cơ dụng hiện
tiền có hỏi liền có đáp. Hòa Thượng, Ban Thủ đến tận
nơi khen ngợi.
Một
hôm Từ Bản lão nhân đưa cái khăn tay ra làm thế rửa mặt,
hỏi Sư:
"Là
cái gì?". Sư nói: "Đã dư chiếc khăn tay rồi.". Từ lão nhân
chẳng đáp mà lui. Sư từ đấy càng thận trọng.
Sư
từng được sung chức phạn đầu, hết sức phụng sự nhà
Chùa một cách tiết kiệm. Thủ-tọa khuyên Sư đảm nhiệm
chức vụ ban thủ. Sư tự thấy mình còn kém bèn trốn sang
Chùa Cao-Mân, cũng bị đảm nhiệm chức vụ ban thủ. Sư bỗng
có ý du phương di ẩn tu ở núi Chung Nam, gặp Cư Sĩ Cao Hạt
Niên hối thúc trở về Nam.
Sư
trở về Chùa Cao Mân, Tổ Nguyệt Lãng sai Minh Hiên lão nhân
chọn ngày truyền pháp cho Sư. Lúc lâm chung, Tổ nắm tay buộc
Sư phải phát nguyện:
"Sấng
làm người Cao Mân, chết làm quỷ Cao Mân".
Sau
khi nhậm chức trụ trì, Sư khôi phục lại quy chế cũ, lấy
việc kiến thiết sửa sang bảo tháp, đại điện, thiền đường,
diên thọ đường, như ý liêu, năm công trình lớn nầy làm
chí nguyện, song cho đến khi tịch mà chưa viên mãn. Sư mong
ước thừa nguyện lực tái lai để tiếp tục công trình cho
hoàn tất. Chỉ có Cổ Lương Đình là làm xong, phong cảnh
thanh-u, làm tăng thêm pháp hỷ cho người.
Sư
thuận theo lời khẩn thiết thỉnh cầu của các nơi, y theo
lệ trước của Triệt Tổ Thiền Tuệ soạn quyển Tự Hành
Lục ghi lại đầy đủ hành trạng cả một cuộc đời khôi-vĩ
dị thường của Sư. Quyển sách nầy đã được ấn hành
phục trong bộ Ngữ Lục.
Sư
thân hình cao lớn trắng trẻo, mắt nhỏ, tiếng to. Từ 50
tuổi về sau, Sư hành hạnh đầu đà, và nếu chí mình chưa
toại thì chẳng cạo bỏ râu tóc để đau đáu nhớ mãi chí
nguyện của mình, nhưng nghi biểu lại càng oai nghiêm, tánh
tình cứng cỏi chân thật, gặp việc thì cố gắng hết sức
làm, khiến cho ý không tốt của người tự tiêu tan. Cả đời
Sư chỉ lấy hoằng pháp, ngộ đạo làm nhiệm vụ, đánh hét
đều dung, chuông trống xen nhau, chưa từng có chút lười mỏi.
Đương thời, Hòa Thượng Hư Vân là người được sự trọng
vọng trong Tông Môn, tuy lớn tuổi hơn Sư mà cùng với Sư
khế hợp không gián cách.
Có
một lần, nhà Chùa cần muốn hóa duyên để sửa tháp, Sư
nhóm họp đồ chúng lại luận bàn, trong số chúng có mấy
người phát nguyện lãnh trách nhiệm đi các nơi hóa duyên.
Có một vị Tăng đến Vũ Hán cảm động sự phát tâm của
thí chủ bèn tự chặt cánh tay để đền đáp, mọi người
xa gần đều kinh ngạc ngợi khen.
Sư
tịch ở Thượng Hải, linh cữu đưa về Chùa Cao Mân, làng
lân cận có một bà lão Phật tử tự chặt một ngón tay sai
con mang đến trước linh cữu cúng dường. Chánh pháp cảm
người vừa sâu rộng vừa lâu dài nên người nhờ sự giáo
hóa của Sư mà làm được như vậy.
Sư
sanh vào giờ dần, ngày 2-7 năm Tân-Ty (1881 TL) nhằm năm Quang
Tự thứ bảy, diệt độ vào giờ dần, ngày 17-10 năm Quý
Tî (1953 TL). Sư thọ 75 tuổi, tăng lạp 49 xuân, giới lạp
49 hạ, pháp lạp 39 thu, trụ trì 35 đống.
Ngày
mùng một tháng 11, linh cữu từ tinh thất ở Thượng Hải
được đưa về Chùa, mùng 8 tháng chạp trà tỳ, bốn chúng
vân tập đau buồn thương tiếc như đưa đám ma cha mẹ. Xá-lợi
rất nhiều, sáng như lưu ly năm màu chói lọi. Giờ Thìn ngày
4-4 năm sau nhập tháp rồi cất đình ở bổn tự (Cao Mân)
để thờ tháp Xá Lợi.
>>Phần
1