.
LAI QUẢ THIỀN SƯ
THIỀN THẤT KHAI THỊ LỤC 
Việt Dịch: THÍCH DUY LỰC
Tiểu Sử 
Phần 1
Phần 2
Phần 3
Phần 4
KHAI THỊ
Ngày 5 tháng 12 (Thất 7 ngày thứ 7).

Căn trần thức đều bỏ, tâm ý thức đều quên, mười phương hư không đoạn dứt, chẳng còn tên gọi thánh phàm”. Bốn câu này có liên hệ đến việc khai ngộ và tin tức khai ngộ trên đường dụng công phu, chúng ta nghiên cứu thử xem. Nếu người có chút công phu nghe rồi sẽ hiểu ngay. Còn những người không dụng công hoặc không nghe có thâm nhập tí gì, nghe những lời này thì một chút mùi vị cũng không có.

Theo các ông suy nghĩ thì: “Căn trần thức, tâm ý thức đều bỏ hết, quên hết rồi thì không làm gì được nữa”. Các ông nghĩ xem đúng hay không? Khi căn trần thức quên rồi thì lúc ấy các ông sợ rằng đâu thể làm gì được nữa? Các ông không những không muốn quên mà không chịu quên. Vậy đối với loại người như các ông không nên nói những lời này.

Cần giải thích cho các ông: Trong Thiền tông căn là thân, trần là ngoại cảnh. Trong Giáo môn căn là lục căn, trần là lục trần, mỗi căn đối với một trần, trong đó lại có một thức. Thiền tông nói tâm ý thức tức là tâm biết khởi niệm, phân biệt tất cả; nói tóm lại là tâm ý thức. Giáo môn lại không nói như vậy mà nói là tiền ngũ thức, rồi lục thức, thất thức, bát thức. Người dụng công tại sao cần phải bỏ, cần phải quên? Vì những thứ này đã làm ta bị bó buộc từ vô thủy kiếp đến nay; nếu ta không chịu bỏ hết, quên hết thì không biết bị bó buộc đến ngày nào nữa! Nên cần phải bỏ cho sạch hết thì mới có thể làm việc trong nhà mình, mới có thể đi con đường về nhà của ta. Những thứ này đối ta rốt cuộc có quan hệ như thế nào? Cần phải biết rõ: Chúng ta sinh tử không dứt, bởi vì cáí tâm phàm phu hiện nay, vì có tâm nên có thân, có tâm thân nên mới có thế giới, lại bị thân tâm thế giới bó buộc chúng ta quá chặt chẽ. Cho nên muốn dứt thân, tâm, thế giới thì cần phải dứt nhãn, tỹ, thiệt, thân, ý (đây là căn mà căn ở trên thân mình), dứt sắc, thinh, hương, vị xúc, pháp (là trần mà trần lại ở trên thế giới), và dứt luôn thức (thức do tâm mà có), dứt được căn trần là dứt (liễu) được thân, tâm và thế giới. Trong Giáo môn vậy là rất tốt và rất cao, trong Thiền tông  thì là việc chưa đáng kể.

Cái ta giảng hôm nay là của Thiền tông chứ không phải Giáo môn. Tại sao? Thiền tông còn có gì đặc biệt khác hơn? Khác ở chỗ nào? Sự liễu của Giáo môn là cho họ đã dứt được rồi, nay Thiền tông muốn liễu cái liễu của Giáo môn. Thí dụ họ dùng tay để liễu thì ta cần liễu cái tay của họ, họ dùng chân để liễu thì ta cần liễu cái chân của họ. Tại sao? Cần phải biết: Dù lực lượng thân, tâm, thế giới có lớn thế nào cũng không lớn bằng lực lượng “liễu” của thân, tâm, thế giới; chữ “liễu” này của các ông không dễ gì hiểu được. Thí dụ: Tất cả đường đi đều như như thân tâm và thế giới, muốn liễu những con đường này thì cứ dùng chân đi đến cùng tột thì liễu được thôi! Những con đường liễu được đó là do chân đi mà liễu, hai chân này tức là chân để liễu con đường, cũng là chân để liễu thân tâm và thế giới. Lực lượng của hai chân này rất lớn, thiên đường địa ngục cũng do nó, thành Phật làm Tổ cũng là nó, luân hồi lục đạo cũng do nó, làm trâu biến ngựa, thành côn trùng cũng không ngoài nó. Trong Thiền tông muốn liễu thì trước tiên phải liễu hai chân này. Các ông xem: Sự “liễu” này có phải đoạn dứt mười phương hư không? Các ông nghĩ xem công phu như vậy đã đến nhà được chưa? Theo ta thì chưa được. Tại sao? Công phu tuy có nhưng vẫn chưa khai ngộ, gọi là giữa đường. Những lời này vốn chẳng muốn giảng, có giảng cho các ông nghe là vô vị. Nếu như ta nói đến đâu các ôn hành được thì ta cũng nói được, mới có thể nói là thuyết đến đâu hành đến đó. Ta thuyết được các ông hành không được thì còn đâu là tốt được? Tuy nói như thế, nhưng các ông tuy chưa hành đến, ta nói như vậy cho các ông nghe, tương lai các ông cũng sẽ y theo lời ta mà nói cho người khác nghe. Khi các ông hành đến chỗ lời ta giảng thì mới biết được tâm can của ta! Nếu không thì ông nói ta là Diệu Thọ, ta nói không phải, ông nói ta là Lai Quả, ta cũng nói không phải, có thể nói là gặp mặt mà không biết người, vậy các ông còn biết chăng? Đối với Thiền tông những việc này cũng không coi là kỳ lạ.

Nay ta theo thứ tự giảng cho các ông nghe. Sự thật thì không có thứ lớp, không cần đôi chân để đi mới đúng, luôn cả chân cũng không cần đi đầu còn thứ lớp gì nữa? Không phải bốn mươi bốn cấp bực hay năm mươi lăm cấp bực của Giáo môn, tu đến cấp bực nào chứng quả cấp bực đó, từ bước một mà bước, nếu muốn một bước lên hai cấp cũng không được. Thiền tông chẳng những không có cấp bực mà luôn cả chân cũng không cần, nhưng vẫn ngồi trên cao được, so với họ vẫn cao hơn nhiều. Vậy đoạn dứt mười phương bằng cách nào? Cần phải biết nếu có thế giới thân tâm để liễu thì phải có ta năng liễu. Ấy đều là lời nói của Giáo môn: “Có năng có sở, năng sở đều liễu, chính giữa cũng không trụ”, gọi là Tam luân thể không. Thiền tông thì không phải vậy, chỉ cần câu thoại đầu một mạch tiến đến, không rơi vào cấp bực.

Trong Thiền tông có công phu được như vậy có thể gọi là đoạn dứt mười phương chưa? Chưa đâu! Trong Thiền tông cho đó là chưa vào cổng, còn ở giữa đường, còn là kẻ đứng ở ngoài cửa. Tại sao Thiền tông lại có chỗ sâu xa kỳ lạ như vậy? Các ông phải biết người sức yếu mà đến chỗ ngân sơn thiết bích (núi bạc vách sắt) thì không có cách nào vượt qua! Cứ cho ngân sơn thiết bích này không có ngày mở ra được! Nhưng những người có sức mạnh thì ngân sơn thiết bích chẳng thể nhốt được, khi họ đến chỗ đó thì một tay đập bỏ ngân sơn, một chân nhảy qua thiết bích mới là việc của họ. Đợi khi các ông đập bể ngân sơn, nhảy qua thiết bích rồi thì ta mới nói chuyện đoạn dứt mười phương cho các ông nghe! Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 6 tháng 12 (thất 8 ngày đầu).

Người dụng công phải có công phu để dụng mới gọi là đạo nhân. Giả sử nói là người dụng công, nhưng đối với sự thực hành của chính mình thì lại không được công phu, sao gọi là đạo nhân được?

Hành đạo cũng như đường, lúc đầu ở ngã tư đường đi qua đi lại thấy đông đảo, tốt quá, người đi lại thì nhiều, cái gì cũng có, lần lần hình như kẻ qua lại ít đi thì bớt náo nhiệt rồi. Đi nữa thì đến chỗ ven vùng sơn dã khó mà thấy được một người, vắng vẻ cả rồi, càng đi nữa thì đến chỗ thâm sơn cùng cốc, một người cũng chẳng có, cảnh vật thanh vắng, đường đi càng nhỏ. Các ông người có dụng công đối với lời nói này ắt thấy rất tương ứng với mình, một điểm, một chữ cũng không sai. Người không dụng công được không biết lời của ta nói là gì, đường phố cũng không biết đường phố ở thị trấn nào, núi cũng không biết núi gì, đường nào cũng chẳng biết đường nào hết, thiệt làm cho người ta mò chẳng ra được! Đại khái các ông có loại tri kiến này. Ta phải nói rõ cho các ông biết: Đây là lời nói về sự công phu, các ông đừng làm ở bề ngoài. Vậy đường đi đã hết, lần lần đến chỗ thâm sơn cùng cốc, đến chỗ này rồi thì còn đường đi nữa không? Đường thì không có để đi, nhưng trên công phu làm sao lãnh hội được? Lúc mới đầu đề lên câu thoại đầu thì vọng tưởng, phiền não, tham ái, si mê v.v… so với ngã tư thành phố còn náo nhiệt hơn, bởi vì quá nhiều; hôm nay cũng câu thoại đầu ngày mai cũng câu thoại đầu, cũng như đi đường vậy, cứ tham chậm chậm; cầu thoại đầu tham lâu ngày rồi thì dần dần vọng tưởng, sân ái, phiền não v.v… đều bớt đi. Lại nữa nghi tình biết đề lên rồi thì lần lần quen thuộc thôi! Nghi tình khi đã quen thuộc thì giống như đến nơi sơn dã vậy, vọng tưởng phiền não khó mà khởi lên được. Tham nữa, khởi nghi tình nữa thì nghi tình này sẽ thành khối thôi. Con đường trước mặt ban đầu càng đi càng nhỏ lại, thanh vắng im lặng; đến bây giờ khi nghi tình thành khối thì cũng không còn đường để đi nữa mà một chút mùi vị cũng không có, cô đơn thanh vắng, nhưng tri kiến các ông tưởng là: “Không đúng! Làm sao người dụng công trên công phu lại tạo thanh vắng làm gì? Náo nhiệt thì tốt biết bao, tại sao lại muốn cô đơn thanh vắng, một chút mùi vị cũng chẳng có làm gì?”.

Đúng vậy! Nhưng ta nói: muốn náo nhiệt để làm gì? Đường đi đã không có, náo nhiệt để chỗ nào? Không có mùi vị thì còn có miệng không? Miệng đã không có thì lưỡi ở đâu? Còn mùi vị hay không? Không có lưỡi thì không thể nào biết được, lưỡi đã không thì mùi vị từ đâu đến? Đối với chữ Thiền đương nhiên cần phải tham. Nhưng công phu hành đến nơi còn nói chi là Thiền? Thí dụ có bệnh mới uống thuốc, bệnh hết rồi còn uống làm gì? Nếu bệnh hết mà còn uống thuốc thì không đúng rồi! Bệnh hết, thuốc nhất định phải bỏ. Lời này các ông có hiểu được chăng? Nếu những lời nói về công phu lúc mới đầu này có chút lĩnh hội thì cũng không cô phụ các ông là người đả thiền thất. Như thế đường ta nói đã đi xong chưa, có còn đứng tại chỗ này hay đã lùi về phía sau rồi? Còn đứng tại chỗ này thì không đúng, không thể xong việc, người đứng trên đường đã không đúng, sụt lùi lại càng không đúng nữa. Đến thì cứ đến! Muốn các ông thối lui phía sau thì phía sau là lửa cháy mạnh, đương nhiên không lùi được, không lùi nhất định phải tiến về phía trước, không tiến cũng phải tiến, đây không phải là việc dễ gì làm được. Muốn duỗi chân ra thì chân không có chỗ để duỗi, muốn đưa tay ra cũng không có chỗ mà đưa, các ông hãy nghĩ xem: cũng như con dòi trong lu mặc dù bò ra không được cũng ráng sức mà bò, chỉ muốn đi trốn, bò qua bò lại còn có thể lăn lộn vài lần. Các ông công phu nghi tình đã thành khối rồi, trong khối này còn được lăn lộn không? Sợ không dễ gì? Bởi vì cái khối này lớn quá, muốn duỗi chân ra thì một tí chỗ hở cũng không có. Trong hư không cũng ở trong khối này, ngoài hư không cũng ở trong khối này, thập phương chư Phật cũng ở trong khối này. Các ông thử nghĩ xem: Chân này duỗi ra chỗ nào? Tay đưa ra chỗ nào? Nhô đầu ra đâu? Muốn duỗi chân một chút thì chỗ đưa chân cũng ở trong khối này, và nhô đầu ra cũng vậy. Không những tay chân, chúng ta còn phải nghiên cứu xem xét rốt cuộc khối này là bao lớn? Con người của ta ở trong hay ở ngoài cái khối này? Bên ngoài còn có chỗ nào, mà ở trong thì tướng mạo ra sao? Các ông đều cần phải thấy được một tí mới tốt, cần phải rõ ràng thấy đến mới đúng; chỉ nghe nói thôi thì vẫn còn là của ta.

Cái khối này lớn lắm, không những hư không bị nó lôi cuốn vào trong mà ngay cả Phật Thích Ca, các đại Bồ Tát, Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm cho đến thập phương chư Phật đều bị khối này bao gồm vào trong. Thiên đường, địa ngục, sâu bọ con kiến cũng đều ở trong khối này, các ông hiểu hay không? Cần nghiên cứu xem, đây không phải là việc nhỏ đâu. Tại sao? Các ông không nghiên cứu nó cho rõ thì nói làm sao đập bể khối nghi? Làm sao đập vỡ được khối nghi? Nếu nói khối nghi đập bể đích thân nhìn thấy bản lai diện mục là nói bậy! Ông nói ông thấy bản lai diện mục của ông, như vậy còn có bản lai diện mục của ta chăng? Diện mục của người khác có hay không? Cái diện mục này so với nghi tình thì lớn hay nhỏ hơn? Nói câu: “Đập bể khối nghi, đích thân thấy bổn lai diện mục”, đó đều là do các ông học từ bên ngoài mà thôi. Ta hỏi câu thứ nhất thì các ông đều đáp không nổi. Sở dĩ muốn các ông tự mình thấy được, muốn thiết thực thảo luận qua; nếu không thấy được như vậy, thân thiết như vậy, dù cho các ông nói thật đập bể khối nghi thì vẫn còn là kẻ mang mặt nạ (bộ mặt giả)! Phải hiểu là “Vạn lý trình đồ thủy chung bất ly sơ bộ” (đường đi vạn dặm thủy chung không rời bước đầu tiên). Nếu không thấy được rõ ràng thì cứ sai mãi, ngàn sai muôn sai đều do cái sai này. Rất cần yếu là tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 7 tháng 12 (Thất 8 ngày thừ).

(Giảng sự tích Phật Thích Ca nửa đêm trông thấy sao sáng mà thành đạo và thuyết pháp v.v… Nay lược bỏ).

KHAI THỊ
Ngày 8 tháng 12 (Thất 8 ngày thứ 3).

Người hành đạo như trên đường vạn dặm trở về nhà, mà nay đã đi được chín ngàn dặm rồi, chẳng bao lâu nữa thì về đến nhà. Tỷ như đỉnh núi muôn trượng, chúng ta từ chân núi mà trèo lên ngọn, một chân cứt chó, một chân gai góc, muốn tìm một con đường lớn để đi mà không có, chẳng hỏi có đường hay không có đường mà chỉ hướng đi lên; hôm nay cũng trèo, ngày mai cũng trèo thì trèo lên được thôi. Trèo lên thì được rồi, đến đầu ngọn núi chỉ có chỗ để đặt một chân thôi, nhìn xuống là vách núi muôn trượng, động chân thì bước vào hư không, chung quanh đều không còn chỗ. Đến chỗ này rồi đứng lại, dường như là tốt lắm, có thể nói: “Đỉnh núi muôn trượng”, “Đầu sào trăm thước”. Đến nơi này rồi tốt thì tốt nhưng còn thiếu một bước đường, một vạn dặm đi được 99.999 dặm rồi, chỉ thiếu một dặm nữa thì đến cái nhà bản lai của chúng ta; đến được nơi này rồi thì hy vọng vô cùng. Một dặm đường này chỉ cần các ông bước chân là có thể đến nhà, chỉ cần bước chân một chút thôi thì có thể hy vọng thành Phật, hy vọng làm Tổ, cho đến hy vọng siêu Phật việt Tổ cũng ở cái bước này. Tại sao lại phải bước thêm một bước? Chỗ này đương nhiên là không tốt mà người xưa đã nói như thế rồi. Tại sao vậy? Người xưa nói: “Người ngồi trên đầu sào trăm thước tuy là được nhập nhưng mà chưa chân thật”. Ấy là muốn nói: Lúc mà các ông đến đầu sào trăm thước rồi ngồi xuống tại chỗ đó không bước thêm về trước nữa, thì chẳng thể kể là người chân thật về đến nhà. Ta hôm nay muốn hỏi các ông: Công phu có đến được chỗ này chưa? Những lời này là vì các ông cần công phu đến được chỗ này thì mới giảng cho các ông nghe; trong kỳ thất thứ ba giảng mấy lời này là vô dụng vì công phu các ông không dụng đến được nơi này, nếu ở vào lúc bình thường lại càng không xong. Hôm nay đã được bảy, tám thất rồi, công phu đương nhiên phải đến chỗ này, các ông hãy nhủ lòng tự hỏi: Có hay không có? Nếu công phu đến được chỗ này thì tốt lắm! Ta nói như thế thì các ông nhất định lĩnh hội được; bảo các ông bước thêm bước nữa, các ông cũng có thể tin chắc mà bước tới, ấy chẳng phải là rất tốt sao? Không có được công phu như thế thì ta uổng công nói rồi! Còn chỗ nào là có ích đâu? Nhưng không thể vì các ông như vậy mà không nói ra; công phu các ông không dụng đến, thất đả được bảy, tám kỳ rồi, đương nhiên muốn giảng đến chỗ này cho các ông, công phu các không dụng đến, ấy là các ông phụ ta, không phải ta phụ các ông. Nhưng mà “đỉnh núi muôn trượng” chỉ là một ví dụ, về công phu của chúng ta thì lại là như thế nào? Cần các ông lĩnh hội một chút, từ chỗ không biết mà dụng công, một chân cứt chó, hôn trầm vọng tưởng, dụng đến thuần thục cho đến thành khối tự tại, cho đến đỉnh núi muôn trượng. Nhưng mức công phu này làm sao đến được? Lúc công phu đến mức thành khối thì quét bỏ cả tâm, ý, thức mới có thể đạt đến mức này.

Nói cho rõ ràng một chút: Tâm là cái năng tri, tất cả thiện ác, thế gian xuất thế gian là sở tri của tâm, cái tâm này phải lìa bỏ. Ý, nghĩa là tất cả pháp, chẳng kể là pháp Đại thừa hay Tiểu thừa, nếu dùng bộ nào suy nghĩ một chút thì liền rơi vào ý thức, cho nên cũng cần phải lìa bỏ. Đó là chuyện trong Thiền tông, tuyệt không phải là chuyện trong Giáo môn đâu, mọi người cần nhận biết cho rõ ràng. Giáo môn không có chuyện như thế đâu!

Nói đến chữ Thức tức là muốn các ôn nhận chân mà tham thiền! Vậy thế nào là chân tham? Chân tham là vô tham. Ý nghĩa câu nói này ta phải phân biệt dùm cho các ông một chút, vì câu nói này người hiểu lầm rất nhiều. Tại sao vậy? Người không biết dụng công nghe câu nói này rồi bèn nghĩ: “Tốt lắm! Chân tham là vô tham, ta quả không biết tham tức là vô tham, ấy chẳng phải chân vô tham sao? Vậy không cần dụng công nữa rồi!”. Ông cứ cho đấy là rất đúng: “Ta là vô tham”. Kỳ thực cái vô tham này của ông là cái vô tham của lục đạo luân hồi, không phải cái vô tham siêu Phật việt Tổ! Cái vô tham đó là công phu dụng được đến thành khối mà chẳng biết có sự tham chứ chẳng phải là không có tham. Ta hôm trước đã giảng về nghi tình thành khối rồi, thập phương chư Phật, hết thảy Bồ Tát, lịch đại Tổ Sư đều ở trong cái khối nghi này, không cho các ông biết công phu của cái nghi tình thành khối này, tham cho đến chỗ này không biết mình đang tham, đó mới là vô tham. Cái vô tham này của các vị ấy có giống cái vô tham của người hiểu lầm không? Nếu mọi người đã tham và chân tham cái vô tham này, như thế thì cái vô tham này do chân thật dụng công tự nhiên đến chỗ không còn tự biết, còn cho các ông phân biệt chăng? Hễ cứ muốn phân biệt thì rơi vào cái thức ngay! Cho nên không cho tâm biết, không cho ý suy nghĩ, không cho thức hiểu thì mới kể là đến được “đỉnh núi muôn trượng” cũng là “đầu sào trăm thước”.

Ta muốn hỏi các ông công phu có đến chỗ này chưa? Các ông cứ cho việc này là khó lắm, ta bảo là không khó. Các ông cứ tự mở mắt ra xem, nơi các ông đứng là nơi nào? Công phu đến nơi này, há có lẽ nào mà không thấy được chăng? Nhưng mà ta muốn hỏi các ông: “Công phu có dụng đến chỗ này chăng?”. Các ông đáp: “Tôi đến rồi!”. Ta lại hỏi: “Nơi này mở mắt ra xem còn có gì nữa không?”. Các ông cần trả lời ta mới đúng. Còn có người không? Còn có ta không? Còn có Phật không? Còn có Pháp không? Còn có Tăng không? Các ông nếu trả lời ta: “có”, đã nói có thì cái có từ đâu mà có? Nếu nói không có thì các ông ở chỗ nào? Đây không phải là việc nhỏ đâu, ta hỏi các ông, các ông phải biết thật rõ ràng mới đúng. Nếu các ông có thể dụng công phu đến chỗ “đầu sào trăm thước” thì nhất định biết thôi.

Phải hiểu được rằng: “Công phu đến chỗ này thì rất có hy vọng; hễ tiến thêm một bước thì thọ dụng vô cùng”. Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 9 tháng 12 (Thất 8 ngày thứ 4).

“Vực thẳm buông tay, chết rồi sống lại” (huyền nhai tán thủ, tuyệt hậu tái tô), hai câu nói này người đã ở chốn thiền lâm đại khái đều có nghe qua. Nhưng mà nghe thì cho ông đã nghe qua, mà hành thì không không cho là các ông hành qua. Tại sao vậy? Nếu ông đã từ chỗ này hành qua một chút, thì hôm nay các ông chẳng phải là một người như thế này.

Đối với công phu hai câu là công phu gì? Cần phải giải thích rõ rệt cho các ông một chút: Thiền tông vốn không mượn lời nói nhưng vì dẫn dắt các ông hành đạo, nếu không nhờ lời nói thì lại chẳng có đường để đi, cho nên ở phía trước ta nói, các ông có thể theo lời ta nói mà hành cho đến, cái lời nói phương tiện này thì không thể hiểu được. Cũng như hôm qua ta nói đến đỉnh nhọn ở trên đầu núi, từ chỗ này mà bước thêm một bước nữa thì lọt vào hư không, thế không phải là vực thằm buông tay sao? Nhưng cái bước này rất là quan trọng. Tại sao vậy? Trước mũi chân là hư không, vậy muốn bước chân này phải bước như thế nào? Cái bước này động được thì phỏng có đường đi không? Không thể bước đi trong hư không được, vậy có người nào làm được cái chuyện bước đi trong hư không chăng? Quả chẳng phải là chuyện chơi! Đối với người công phu đến được chỗ này thì họ tự biết rõ là có con đường này, họ không những buông tay đi mà còn buông chân để chạy nữa, đi qua Đông qua Tây, đi lên đi xuống, tùy họ đi như thế nào cũng có đường đi cả. Người không có được công phu như vậy thì đáng tiếc lắm! Nghe ta nói thì muốn chết đi! Làm sao một người lại một mình đứng được ở chỗ cao như thế, bốn phía đều trống không, nghiêng một chút thì mất mạng liền. Nếu như ta đem các ông đặt lên chỗ ấy, các ông nhất định sợ chết, đâu còn biết được trong hư không có đường đi hay không? Các ông hãy nghĩ đúng không? Nhưng mà thí dụ ở trên không có đường đi thì phải dùng biện pháp nào để có thể đi được? Há chẳng phải là phép thí dụ không hợp chăng? “Thí dụ” thì có nhiều lắm, nói nữa thì lại quá dài. Nhưng mà từ chỗ này cứ bước một bước thì té xuống ngay! Theo ta nói không những phải bước cho té xuống mà còn phải té cho chết nữa, cho đến cái xác tan nát thành bột, một mảy lông cũng không còn mới đúng. Nếu không té cho chết thì cũng chẳng khác như chưa té! Như vậy thì cái công phu này của các ông còn chưa đúng! Tại sao vậy? Ấy là nửa chết mà chưa chết, chỉ thành một kẻ chết giả! Nếu như vậy lại thành quỉ giữ xác. Cho nên cần phải té cho thật nát! Từ chỗ này mới cho các ông được tuyệt hậu tái tô. Khi sống lại rồi thì khác hẳn, không phải như người trước nữa.

Ngày hôm qua ta nói vế tâm, ý, thức cần phải quên đi, nhưng tâm, ý, thức quên rồi thì vẫn còn ở cái ổ tâm, ý, thức, công phu đến chỗ này rồi thì phải lôi cái ổ này đập bể nó đi. Cái ồ là thức thứ bảy và thức thứ tám đó. Có thể bỏ rời thức thứ bảy và thức thứ tám ra thì công phu mới có thể đến chỗ sống lại này được. Nếu không thể lìa bỏ cái ổ này, thành Phật cũng là cái ổ này, làm Tổ cũng là cái ổ này, thiên đường, địa ngục, cầm thú… cũng từ cái ổ này ra, do vậy công phu  nhất định phải đến chỗ này. Ổ một khi đã phá tan thì mới bật ra một tiếng “ồ” (tả sự ngộ). Đáy thùng rơi ra, chuyển mình triệt để, quay đầu chuyển óc, chết rồi sống lại đều là cái “ồ” này. Nhưng cái chỗ này không phải chỉ có nói như thế, người xưa đã từng có những lời nói ra làm bằng chứng vững chắc. Như thế nào vậy? Ấy là: “Đầu sào trăm thước lại bước tới, thập phương thế giới hiện toàn thân”. Đầu sào trăm thước, vách núi muôn trượng đều như nhau cả, như các ông lên đến ngọn sào cao mười trượng cũng như đứng trên đầu ngọn núi đó vậy; trên đầu ngọn núi này lại bước tới một bước nữa; giống như trên đầu sào trăm thước lại bước tới một bước nữa, chết rồi sống lại cũng như thập phương thế giới hiện toàn thân thôi. Hai câu nói này có thể chứng minh công phu chúng ta đến chỗ này rồi thì về đến nhà vậy. Nhìn trở lại thì có còn con người trước chăng? Còn là cái tâm trước không? Các ông nghĩ xem: có phải là con người trước không? Đại khái người là người trước đi, nhưng tâm thì không vậy đâu. Người ta nói: “Ngộ cũng bằng như ngộ”. Nếu nói người cũng như vậy, tâm như vậy là phế bỏ nhân quả rồi! Trước khi chưa ngộ ăn ba chén cơm, ngộ rồi thì vẫn là ba chén cơm, cơm thì vẫn nhự vậy nhưng tâm trước với tâm sau khi ngộ rồi thì khác xa như trời với đất.

Từ nay về sau điều ta nói là hay lắm! E các ông lại tưởng rằng: “Có cái gì tốt đâu? Chẳng đả thất thì mới tốt! Còn như muốn chúng tôi đả hai thất nữa thì làm người ta khổ chết đi thôi! Mà lại nói là tốt chứ!”. Đúng đấy! Ta nói: Trở về sau năm là năm tốt, tháng là tháng tốt, ngày là ngày tốt, các ông còn có người biết không? Không kể các ông công phu hành đến chỗ này hay không đến chỗ này nhưng lời ta nói thì có giảng đến. Trở về sau nữa thì ta chẳng nói như vậy nữa mà lại nói khác đi. Người chưa ngộ trong số các ông, công phu chưa đến, nghe ta nói khác đi thì thấy có điểm không tương ứng, bởi vì trở về sau nữa ta sẽ không nói với loại người như các ông đâu, vậy thì làm gì có sự tương ứng được. Ta giảng với ngộ, ta chiếu cố toàn như vậy, cứ giảng đường đi cho các ông nghe mãi thì thành ra dẹp bỏ người đã ngộ rồi sao? Đối với các ông bất cứ là ta giảng đến nơi nào, mặc dù công phu các ông không dụng đến, nhưng hôm nay ta giảng đến chỗ này thì các ông tất phải hành theo, thế nào cũng phải hành đến chỗ này mới được buông tay. Nếu không hành đến chỗ này, không được cho là cái lời giảng của ta nói và cái sự hành của các ông không giống nhau mà rồi buông bỏ đi, như thế không đúng đâu! Còn cần phải hướng về phía trước mà dụng công. Nếu không lại phụ cái phen công phu khổ tâm này của mình đi thôi. Các ông hãy phát tâm. Tham đi! 

KHAI THỊ
Ngày 10 tháng 12 (Thất 8 ngày 5).

“Trước khi chưa ngộ việc còn ít, sau khi đã ngộ việc lại nhiều thêm”. Hai câu này câu nói trong Thiền tông, muốn tìm nát ba Tạng, mười hai bộ Kinh cũng tìm không ra.

Lời nói trong Thiền tông và Giáo môn khác nhau chỗ nào? Giáo môn thì không kể tâm hạnh các ông như thế nào mà chỉ cứ nói thẳng đi thôi. Lời nói trong Thiền tông thì lại theo tâm của ông đi đến chỗ nào thì nói chỗ ấy, cái không giống nhau là ở chỗ này.

Các ông hảy đề một câu thoại đầu mà tham cho đến u u nhã nhã, thanh thanh tịnh tịnh không biết đến có người có ta thì còn nói chi đến chuyện khác? Chỉ có câu thoại đầu chẳng có gì khác, như thế thì suốt ngày tự tự tại tại, tịch tịch tỉnh tỉnh. Các ông nghĩ xem: Có phải như vậy không? Đã ngộ rồi thì lại không như thế. Tại sao vậy? Các ông mở mắt ra nhìn một cái thì phải than lớn một tiếng, chẳng ngộ thì thôi, một khi ngộ rồi còn có nhiểu chuyện như thế: nhiều, nhiều lắm! Thí dụ như thế nào? Cũng như: một cái nhà cũ mà chúng ta đã ở ba mươi năm trước, là một căn phòng nho nhỏ, bên trong có đạc, hôm nay đã xa nhà ba mươi năm rồi chưa hề trở lại một lần nào. Bỗng nhiên, hôm nay đến nhà cũ, một chân đạp cửa mở ra, nhìn vào một cái, thấy không được rồi: khói bụi trên bàn, rêu xanh dưới đất dầy cộm! Trong nồi chuột làm tổ, cứt mèo, màng nhện v.v… trước bàn thờ Phật không biết là bao nhiêu! Nhìn thấy như thế còn có muốn nói là một căn phòng chăng? Chỗ nào cũng không ở được, mặc kệ thì không được, cần từ quét dọn từng món một. Còn may mắn là hai con mắt đã mở ra, nếu không phải là mở mắt thì làm sao biết được nhiều việc không tốt như thế? Đây là ví dụ, còn lãnh hội về cái pháp thì sao? Người chưa ngộ suốt ngày cứ ở trong sinh tử, phiền não, nghiệp chướng, vọng tưởng, chẳng có tri giác gì; dù cho biết thì chỉ là nghe người ta nói hoặc thấy được trong Kinh điển, chứ chưa tự bước chân vào chỗ thực tế; thấy được từ bên ngoài, tuy thấy mà cũng như thấy, cho nên khi họ dụng công thì có công phu thôi. Hôm nay bỗng nhiên khai ngộ thì cũng như xa căn phòng trong ngôi nhà cũ đã ba mươi năm rồi, hôm nay mới có một bước mà về nhà vậy; mở mắt ra nhìn một cái thì mới biết ra là còn có nhiều việc như thế! Mà có việc thì đương nhiên phải giải quyết từng việc một.

Cổ nhân đã có câu nói là để chứng minh cái công phu của chúng ta đến được nơi này, cổ nhân nói: “Khi chưa đến ngõ còn mặc ý, khi đến ngõ rồi việc càng nhiều”, ý nghĩa hai câu nói này thì giống như việc ta nói ngày hôm nay thôi. Đối với những ta giảng cùng các ông như thế thì thực không cần phải giảng, chẳng qua trong Thiền tông những lời nói như thế đều là viên nhân, viên chủng cả, các ông tuy công phu chưa đến mà đem cái loại viên chủng này gieo xuống thì việc gặt hái trong tương lai sẽ vô cùng tốt đẹp. Nhưng người trong số các ông nhiều như vậy thì làm sao lại không có người biết đường biết lối? Bắt gió, nắm bóng, những cái không thực mà biết được một tí, hiểu một tí thì cũng không phải là không khó. Vậy thì nhốt gió lại được, nắm bóng lại được cũng kể là việc hiếm có. Thí dụ như khi ta nói chuyện ở trong nhà, các ông tuy chưa vào nhưng nếu đứng ngay ở ngoài cổng cũng có thể nghe được vậy, giả sử có động một bước chân thì đương nhiên sẽ vào được nhà. Sợ các ông cách xa ba ngàn dặm, còn chưa đủ tư cách làm người đứng ở ngoài cổng, ngay cả đến loại này không đủ tư cách thì ông biết còn dụng được gì chăng? Người đến được chỗ này thì có cái thọ dụng này, ông đến được chỗ này rồi, tuy có lắm việc như thế, còn không được cho là nhiều; ông đến được chỗ này rồi không những không sợ nhiều mà muốn càng nhiều càng tốt nữa. Nếu sợ nhiều việc thì lại trở thành một người vác bảng thôi! Đâu còn kể được là người mắt sáng? Người mắt sáng làm việc toàn thể là sự lý viên dung. Người có sức lực xuất chúng nhất khi ngộ như thế thì sự lý không còn trụ, tâm cảnh không còn trụ, Phật cũng không trụ, Tổ lại càng không trụ. Cổ nhân có câu nói: “Đi trên đầu Phật”, trên cái ngộ này thì mới có thần thông, tuy có thần thông nhưng cũng chưa phải là toàn thông, hãy xem các ông căn nào bồi đắp được nhiều thì thông cái căn đó trước.

Nói sơ lược thì có ba loại cửa ải là Sơ Quan, Trùng Quan và Mạt Hậu Lao Quan:

(1) Giai đoạn phá Sơ Quan: Cũng gọi là phá Bản tham tức là kiến tánh. Chưa kiến tánh là mắt mù, nay kiến tánh là người mắt sáng. Đến cửa này lý thì ngộ rồi, sự thì chưa liễu. Sự tức là tập khí.

(2) Giai đoạn phá Trùng Quan: Tập khí là cấu bẩn. Ví như một phẩn lâu ngày, múc từng gáo đổ ra ngoài hết rồi rửa sạch cái thùng nhưng hôi thúi vẫn còn, nên phải cạo cho sạch, cạo sạch rồi vẫn còn hôi thúi vì hôi thúi thấm sâu vào gỗ thùng lâu ngày rồi. Nên phải bỏ luôn cả cái thùng. Tất cả phẩn và hôi thúi đều là bệnh của tâm, bệnh tâm cạo sạch rồi còn phải bỏ luôn cái tâm (vọng tâm) mới được gọi là liễu sự.

Vậy khi tâm sạch rồi, sự liễu rồi, lý cũng thông, sự cũng dung, nên nói: “Sự lý song dung, tâm cảnh vô ngại”. Đây tức là phá Trùng Quan.

(3) Giai đoạn phá Mạt Hậu Lao Quan: Phật, Tổ chẳng trụ, Niết Bàn chẳng trụ, không còn gì để trụ nữa, đến đây thì: “Trên đầu có mắt, sau não đập chùy”, tác dụng của bộ não sạch hết, dụng của Tự tánh hiện tiền, gọi là phá Mạt Hậu Lao Quan tức là cửa ải kiên cố cuối cùng. Đây là sự giải thích đứng đắn về tam quan của tổ Hoàng Long trong Thiền tông vậy.

Nếu thật người có con mắt sáng thì đương nhiên việc càng nhiều càng càng tốt. Tại sao vậy? Vì cái chỗ của người mắt sáng thấy, người khác không thấy được cho nên mới gọi là mắt sáng. Vậy thì, mắt sáng thì mũi có thể sáng được không? Tai cũng có thể sáng được không? Sáng thì tất cả đều sáng mới đúng! Lỗ tai cũng có thể thấy được vật, mắt cũng biết được thơm thối. Năng sở hỗ dung (dung thông với nhau), sự là lý, lý là sự, dụng là thể, thể là dụng, dụng cũng lại là tâm, tâm cũng lại là sự. Cầm hương bảng vào tay là tâm, tâm là hương bảng, tiểu tiện là tâm, tâm cũng là tiểu tiện. Các ông nghĩ xem: Có được cái hỗ dụng này thì còn sợ nhiều việc gì nữa? Nhưng hôm nay các ông là người dụng công phu chưa đến được chỗ này thì cần phải nhận chân tham cứu. Nói chung cần phải dụng công cho đến sau khi đại ngộ rồi thì mới kể là mục đích của các ông. Nếu chưa đến chỗ đó thì không thể buông bỏ công phu đi được. Hiện tại các ông đứng ở nơi đây, ta hỏi các ông: “Đứng ở chỗ nào?”. Các ông nhất định sẽ đáp: “Đứng ở trên gạch”. Đợi các ông đến lúc đó ta lại hỏi các ông: “Đứng ở chỗ nào?”. Các ông nhất định sẽ đáp: “Chẳng phải đứng trên gạch”. Không đứng ở trên gạch thì đứng ở chỗ nào? Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 11 tháng 12 (Thất 8 ngày thứ 6).

“Ngộ lý nhất thời, liễu sự xa xôi”, ngộ lý thì trong sát na có thể ngộ được, ngộ rồi thì thời gian liễu sự rất dài, không phải là một ngày, hai ngày mà liễu được. Nhưng ba cái cửa ải của chỗ ngộ trong Thiền tông từ thời Đường, Tống trở về trước không có chuyện Tam quan gì cả, đến thời Tống mới có Thiền sư Hoàng Long lập ra cửa ải Tam quan; Thiền tông thật không có ba cửa này: thứ nhất là Sơ Quan, thứ nhì là Trùng Quan, thứ ba là Lao Quan. Danh từ (tên) của ba cửa ải này tuy trên phương diện dụng công thì có trước sau, nhưng không phải là có thứ công phu nào đặc biệt dùng để phá Sơ Quan, phá Sơ Quan rồi cũng chẳng phải có thứ công phu đặc biệt nào để phá Trùng Quan, cũng chẳng phải phá Trùng Quan xong rồi lại có công phu đặc biệt nào để phá Lao Quan sau chót được, tất cả không phải như vậy. Cần biết là quan thì có ba lớp, sâu cạn chẳng đồng, mà công phu thì chỉ có một câu thoại đầu, sâu cạn là do lực lượng câu thoại đầu lớn hay nhỏ. Tỷ như bắn tên, người lực lượng nhỏ bắn phát tên qua được một mặt trống, người lực lượng mạnh hơn chút ít, một phát tên bắn qua hai mặt trống, người có lực lượng đặc biệt, lực lượng siêu quần xuất chúng thì một phát tên bắn qua được ba mặt trống, tức là lý lẽ này. Phật Thích Ca lực lượng to lớn nhất, một phát tên bắn qua được chín mặt trống. Ba cái mặt trống này cũng giống như ba cái quan ải, dụng công thì tựa như bắn tên vậy. Đối với cái công phu Tam quan này của Thiền tông thì cách thức dụng công như thế nào? Cửa ải làm sao phá? Phá đến cửa nào thì có cảnh giới gì? Tất cần phải nói rõ ràng cho các ông nghe. Nhưng thân tâm ta thật tiếc cho các ông trong thời kỳ đả thất chẳng có người nào công phu được chút tiến bộ sâu xa nào, chẳng từng có được người nào công phu khai được tiểu ngộ, đó là điều ta thật tiếc vô cùng! Ví như nếu trên công phu giống như trên song cửa sổ có một lớp giấy, như mặt trời chiếu qua giấy, tuy cách một lớp giấy nhưng ánh sáng còn có thể chiếu qua được, có được một người như thế thì cũng tốt. Tuy tiếc lắm nhưng ta không thể không vì các ông mà giảng đến. Các ông chỉ cần tham một câu thoại đầu đến khi công phu cùng cực, cái hôm trước ta đã nói qua, cái “chết rồi sống lại” đó, người tương đối có lực lượng hễ ngộ thì phá được bản tham. Nhưng cái ngộ cho là kiến tánh; sinh tử thì cũng cho họ biết sinh từ đâu đến, chết đi về đâu. Tuy tánh thì kiến rồi, nhưng cấu bẩn thì chưa trừ, sinh tử thì cho các ông biết nhưng sự thì chưa liễu. Người có lực lượng lớn một chút thì từ cái ngộ này tánh cũng kiến rồi, tâm cũng minh rồi, lý cũng liễu rồi, sự cũng liễu rồi, tâm cảnh đều quên, cứ như thế mà lần lượt phá ba cửa ải. Chúng ta người hành giả tham thiền thứ nhất cần phải có chánh tri kiến, sinh lòng tin chân chính, một câu thoại đầu lấy ngộ tâm làm kỳ hạn. Các ông hãy phát tâm tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 12 tháng 12 (Thất 8 ngày thứ 7).

Người chưa khai ngộ cử tâm động niệm đều là vọng tưởng, khai ngộ rồi cử tâm động niệm đều là chân như. Người phá Bản tham rồi đương nhiên là rõ ràng thôi; muốn vì những người các ông công phu chưa đến mà phân biệt rõ rệt một chút, nếu không thì sợ các ông đều lẫn lộn: chúng tôi khi chưa ngộ, cứ vọng tưởng động là một tướng, nổi vọng tưởng Nam Kinh thì tướng Nam Kinh hiện ra ngay, lại nổi vọng tưởng Thượng Hải thì tướng Nam Kinh diệt liền và rồi tướng Thượng Hải theo đó mà hiện ra. Theo đấy suy ra, tướng này sinh tướng kia diệt, tướng này diệt tướng kia sinh, cái kia sinh cái này diệt không bao giờ tạm dừng, ấy là vọng tưởng. Nếu các ông trong lúc vọng tưởng không dừng mà đề lên câu thoại đầu, khi đã đề lên, nghi tình hiện tiền thì tất vọng tưởng tự nhiên bị quét sạch. Vì nghi tình vốn vô tướng và tâm của con người chỉ có một cái, cho nên hễ khởi lên cái vô tướng của nghi tình thì cái hữu tướng của vọng tưởng liền tiêu diệt. Dụng công dần dần sẽ đến cái vô tướng thuần nhất, cái công phu thuần nhất này sẽ tự phá Bản tham. Phá Bản tham rồi tức là vô tướng thuần nhất vậy, sẽ không còn có tí hình bóng vọng tưởng nào cả. Phá Bản tham rồi muốn tìm một chút vọng tưởng cũng không có! Công phu đến bước này thì cử tâm động niệm đều ở trên cái công phu vô tướng này, ăn cơm cũng không rời, mặc áo cũng không bớt một chút, dù cho có nhiều việc khác nữa thì công phu này cũng không bớt giảm; ở nơi này mà lập nên một danh từ gọi là “Chân như”. Hai chữ Chân như mà đối với vọng tưởng mà nói, vì rời vọng tưởng rồi mới nói đến Chân như; không đặt cái danh từ này thì làm sao nói? Tuy miễn cưỡng gọi nó là Chân như, Bản lai diện mục của Chân như đâu phải như vậy? Cứu kính ra sao? Muốn các ông phải tự mình dụng công phu đến chỗ này thì tự mình sẽ biết được; cứ nghe lời ta nói thôi là vô dụng, không những vô dụng, mà dù cho ta nói ra, các ông cũng không tin nữa. Tại sao vậy? 

Trước kia có một học giả muốn ta đem Chân như ra giảng cho ông ta nghe, ta nói: “Giảng cho ông nghe, ông có tin chăng?”, ông ta nói: “Tôi tin”. Ông đã tin rồi ta nói cho ông nghe: “Trên đầu Chân như có bốn sừng, trước hai sau hai, có hai cái đuôi, một cái trên mông một cái trên bụng, ông tin chăng?”. Ông ta nói: “Không đúng, đâu có lý như thế? Chân như đâu lại có sừng có đuôi? Dù cho có sừng thì đâu có đến bốn cái, phía trước có mà phía sau lại có nữa? Ở mông có đuôi mà trước bụng lại có đuôi nữa. Há có lý này sao? Tôi không tin”. Ta nói: “Cái này là Chân như thiệt; cái Chân như này ông không tin thì ta nói một cái giả cho ông nghe: Chân như dựng khắp tam tế, ngang khắp mười phương, ở chư Phật không tăng, ở chúng sinh không giảm, vô tịnh, vô nhiễm”. Ông ta nghe rồi nói: “Cái này đại khái là đúng, bảo tôi thì còn được!”. Các ông nghĩ xem: Ta nói chân thật, ông ta không tin, ta nói giả, ông ta lại tin. Hôm nay ta giảng cho các ông nghe, các ông có người nào tin chăng? Các ông không tin rồi! Chung quy phá Bản tham rồi là không còn vọng tưởng. Không có vọng tưởng tức là không có tất cả niệm sinh diệt, niệm có sinh diệt thì có tướng, có tướng thì Diêm Vương có thể bắt được, bắt biến thành trâu thành ngựa thì cũng nghe theo lệnh của ông ta thôi. Chúng ta không có vọng tưởng thì không có tướng, vậy thì Diêm Vương bắt cái gì? Cho nên người phá Bản tham thì nhất định dứt sinh tử; người phá Trùng Quan nhất định không có mộng tưởng, ngủ nghỉ thì vẫn là ngủ nghỉ, chiêm bao thì không có. Tưởng có người nói: “Người khai ngộ của Thiền tông còn có hôn trầm”. Kỳ thực họ chẳng biết Thiền tông cần phải đạt đến một mức nào đó thì mới không có hôn trầm. Vậy cần phải biết người phá Trùng Quan không có mộng tưởng thì còn có cái gì? Phải biết mộng tưởng từ đâu mà ra? Dù cho các ông mộng như thế nào thì cũng không ra khỏi sự tướng thế gian. Người phá Trùng Quan thì lý sự đều liễu, tâm cảnh song dung thì chỗ nào còn thế gian sự? Cho nên người phá Trùng Quan quyết định không có mộng tưởng, có tướng để Diêm Vương thấy được là có sinh tử. Có Chân như thì Diêm Vương không thấy được, mặc dù Diêm Vương không thấy được nhưng Phật Thích Ca thấy được, Phật Thích Ca còn thấy thì có Niết bàn; liễu sinh tử còn phải liễu được Niết bàn. Người phá Lao Quan sau chót thì hôn vọng đều trừ, mộng tưởng diệt sạch; đến chỗ này rồi người ấy không còn hôn trầm, họ đến chỗ này thì sinh tử không còn, Niết bàn cũng không trụ. Nói nhất chân pháp giới thì ngay cái nhất chân pháp giới cũng phải vượt qua. Lại nữa, phá Bản tham là kiến Pháp thân, phá Trùng Quan là chứng Pháp thân. Tại sao nói kiến? Tại sao nói chứng vậy? Thí dụ như thiền đường: người kiến Pháp thân như đứng ở cửa thiền đường, việc trong thiền đường đều thấy được rõ ràng cả nhưng chưa bước vào. Chứng Pháp thân là bước vào thiền đường. Thấu Pháp thân là đi thẳng vào trong khám Duy Ma Cật mà ngồi. Cho nên nói phá bản tham kiến Pháp thân, phá Trùng Quan chứng Pháp thân, phá Lao Quan thấu Pháp thân. Tất cả pháp môn khác công phu cùng tột chỉ có thể đến chỗ chứng Pháp thân thôi, duy có Thiền tông cần phải tiến thêm một bước thấu qua Pháp thân thì mới đúng việc của Thiền tông.

Những lời nói của ta đối với các ông lúc này dù chẳng có ý nghĩa gì cả, bất quá ta giảng như thế các ông dùng tai nghe qua nhưng cũng có thể nói là: “Một khi đã vào tai thì vĩnh viễn là hạt giống đạo”. Có được cái hạt giống này thì tương lai nhất định sẽ được nảy mầm, nảy mầm thì sẽ có kết quả.

Phật dạy: “Nhân nào quả nấy”. Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 15 tháng 12 (Thất 9 ngày thứ 3).

“Ta thấy người khác chết, lòng ta nóng như lửa; không phải nóng người khác, nóng sẽ đến phiên ta!”. Đây là lời nói người xưa. Hôm nay sư Đô Giám trong chùa bệnh chưa đầy một ngày mà chết làm mọi người rất thương tiếc! Ông ấy đã làm việc trong chùa mười mấy năm, trước mắt ta không hề sai phạm tí gì. Người khác tuy cũng có được hành trì như thế nhưng cũng có khi không đúng pháp; duy có ông ấy mới được kể hoàn toàn! Ở đây người ta gán cho ta cái biệt hiệu là: “Đối với thanh chúng như Bồ Tát, đối với chức sự như La Sát”. Hai câu này ta cũng thừa nhận là không sai. Nhưng cái khổ tâm của ta sợ mọi người khó biết được! Thật sự cái lập trường của ta đối với thanh chúng và chức sự trong chùa chẳng phải là ý riêng của ta mà là cách đối xử của người xưa. Tỷ như một cái thùng nước bị chảy, chỗ hở thật to thì đương nhiên không đựng nước được lại chẳng bao lâu rồi sẽ vỡ luôn. Ta hỏi các ông: có cách nào làm cho thùng nước khỏi vỡ chăng? Mà còn đựng nước được? Các ông nghĩ xem có cách nào không? Nếu không vượt qua hoặc bằng với cách đối xử của ta thì không được nói cách của ta là không phải. Cách của ta là: “Niêm vòng cho chặt lại”. Cách của các ông có hơn được cách nêm vòng cho chặt lại của ta không? Đừng nói là bọc ván vỏ thùng, bọc đáy thùng hay lấy bùn trét lại phỏng có được không? Có hơn cách nêm vòng cho chặt của ta không? Nếu thùng lại chảy nữa thì nêm vòng thêm một lần thì tự nhiên sẽ thành một cái thùng tốt lại còn đựng nước được! Phải biết là: búa đập lên đục, đục đập lên vòng nêm thì đương nhiên vòng bị thiệt thòi, nhưng thùng thì được thành tựu hoàn hảo. Đây là lý lẽ nhất định: ta ác, ta độc thì cứ mặc kệ cho ta ác ta độc đi! Nếu mà các ông ác thì không được đâu! Tại sao vậy? Cái ác của các ông không phải như cái ác của ta. Các ông là tạo ác nhân, hoặc phá giới, hoặc phá nhà chùa; cái ác nhân các ông tạo ra về sau phải đọa địa ngục. Cái ác của ta là không cho các ông tạo ác nhân, tương lai sẽ không thọ lấy ác quả địa ngục, cho nên hãy cầu cho ta ác, ta ác là việc tốt, các ông ác là việc không tốt. Tại sao hôm nay ta lại nói cái chỗ tốt của vị sư Đô Giám này? Vị sư ấy đã làm việc với ta hơn mười năm, việc cần thiết gì của nhà chùa sư không hề có tí lầm lỗi nào; vẽ một cái vòng, bảo sư đứng vào trong, sư cũng chẳng sai phạm lấy một tí một ly nào, việc thu tô đất ruộng của nhà chùa không được tốt, hễ sư cứ đi là xong, cho có xa nữa thì cũng lo xong tốt đẹp như thế. Ta có ngầm điều tra sư, thấy sư chẳng có tí thói xấu nào, sư không hề hút thuốc, đánh bạc. Có nhiều người rời nhà chùa cứ cho là trong nhà không biết, thuốc cũng hút, bài cũng đánh, như thế thì lúc xuống địa ngục có hối thì cũng đã muộn rồi! Cứ cho là ta không biết, thế còn lẽ nào ta lại không biết chăng? Dù ta không biết được đi thì cái nhân quả còn trốn lánh được không? Cho nên vị sư Đô Giám này ta phải ca tụng là một người tốt. Người tốt là người làm trọn vẹn lúc bình thường. Muốn ta gọi các ông là người tốt thì không dễ đâu! Hôm nay sư bệnh được nửa ngày thì chết, trong lòng ta rất thương tiếc! Loại người này, ta hôm nay tán thán, người đã vì các ông làm việc, ta hy vọng đời sau sẽ còn cộng tác với ta mới tốt! Nhưng thọ mệnh vô thường! Các sư phải biết là người nào phận nấy. Các ông hãy phát tâm tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 16 tháng 12 (Thất 9 ngày thứ tư).

Trong chúng ta thật rất nhiều người chẳng biết xuất gia vì việc gì, cần phải làm việc gì. Phải hiểu được là: việc của chúng ta thì nhiều lắm, một là phải bố thí, hai phải trì giới, ba phải nhẫn nhục, bốn phải tinh tấn, năm phải thiền định, sáu phải trí tuệ. Lại còn từ bi, hỷ xả v.v… (giảng ý nghĩa lục độ lược bỏ).

KHAI THỊ
Ngày 17 tháng 12 (Thất 9 ngày thứ năm).

“Tâm thường chiếu soi đạo lý, niệm niệm đều khế hợp chân thường”. Người ngộ rồi thì tất cả động tác đều hợp lý. Người chưa ngộ nhất định làm không đến được, bởi vì họ chưa ngộ tức là tâm địa chưa minh, lý đương nhiên không thể đạt đến được hoàn toàn. Người chưa ngộ cho mình là mình, lấy người là người. Người ngộ rồi thì không thế, lấy mình làm người, lấy người thiên hạ làm mình, vì thế không giống nhau. Các ông hãy nghĩ xem: Lấy ta làm ta thì đương nhiên trước hết chỗ nào cũng đến ta, mặc áo ăn cơm trước hết phải có ta; đương cũng muốn có được mặc áo tốt, ăn uống được ngon; cái gì trước hết cũng phải có ta rồi sau mới đến người. Người ngộ rồi không như vậy, họ tương phản triệt để, mặc áo thì trước hết muốn người mặc, ông không có quần thì họ có thể không lo cho họ mà cởi của họ cho ông mặc; không có áo, họ cũng cởi cho ông; ăn thì cũng muốn người ăn trước cho no, còn mình thì đói, chẳng gấp gáp tí nào. Vì sao vậy? Vì họ ngộ rồi, tâm của họ không giống như tâm ông, tâm của họ là tâm Bồ Tát, người chưa ngộ là tâm phàm phu. Cho nên kẻ phàm phu, người Bồ Tát, trên trời dưới đất sai khác nhau, ấy là do ngộ với chưa ngộ. Nhưng Bồ Tát và phàm phu không giống nhau chỗ nào? Ta nói một thí dụ thì các ông sẽ dễ hiểu. Thí dụ như người nấu cơm là Bồ Tát, người đun bếp là phàm phu; Bồ Tát và phàm phu cùng lo chung một việc, cùng ở một liều, chỗ hành của họ đương nhiên không giống nhau, phàm phu thì muốn sướng một chút, làm việc thì muốn làm bớt đi một ít, chỗ nào thì cũng muốn chiếm lấy tiện nghi, họ chẳng cần để ý đến người khác có động phiền não hay không, động niệm hay không động niệm, tổn phúc hay không tổn phúc, họ chẳng hỏi đến. Bồ Tát không như thế, việc chịu khổ thì tự mình đi làm, nhường cho người phần tiện nghi, ông sung sướng thì họ mới có khổ để chịu, rất sợ người khác động niệm, động phiền não, thà để tự mình tổn phúc. Cũng như người nấu cơm đến lúc nấu muốn người đun bếp nhóm lửa, khi ấy người đun bếp lại đi nói chuyện với người khác, người nấu cơm tính muốn tự mình nhóm lửa thì không kịp mà không dám kêu người đun bếp về, chẳng thà chắp tay lạy người khác nhóm hộ, chứ không chịu để người đun bếp bị động niệm, sợ người ấy không vui. Người đun bếp về thấy đã có người nhóm lửa hộ rồi mà không nói cám ơn, người nấu cơm còn phải an ủi người đun bếp, nói những lời dễ nghe cho người ấy vui. Các ông nghĩ xem: Bồ Tát làm như thế đó, không dám như kẻ phàm phu đâu! Hiện nay chúng ta đều là phàm phu, chưa có vị nào là Bồ Tát, muốn học làm Bồ Tát cũng có thể học cái hạnh của người nấu cơm này.

Năm Tuyên Thống thứ 2 (1910), chúng tôi ba người đều là người bị thỉnh làm Ban Thủ nhưng không làm, mà phát tâm làm việc khổ trong bếp để đền ơn nhà chùa cho nên xin làm chức hành đơn (lo việc bếp núc). Tôi là Tây đơn ba (lo cơm nước), hai vị kia là Tây đơn nhất (lo thức ăn) và Tây đơn nhì (lo việc củi lửa). Chúng tôi khi mới phát tâm làm khổ hạnh, ba người có hẹn với nhau rằng: “Chúng ta đều là người không nhận chức Ban Thủ, nay làm trong nhà bếp không để xảy ra sự rầy ra than vãn gì. Đừng nói đến việc phải sang khách đường (tư pháp của nhà chùa) để cho người ta xử, nói một câu lớn tiếng để khách đường biết đã là không phải rồi”. Hai người kia đều tán thành. Vào kỳ truyền giới, năm trước có ba người nấu cơm, năm ấy thì chỉ có một mình ta. Năm trước ở đại liêu (nhà bếp lớn) có bốn cái lu lớn để đựng cơm thừa cháo thừa, đến ta thì chẳng còn cái lu nào. Một hôm Tăng lên đến hai trăm người đều là những người đến thọ giới Tỳ Kheo. Một hôm nọ, thúng của ta không đủ dùng bèn đi đến người làm rau mượn, anh ta không chịu, ta mượn đi mượn lại đến ba lần mà anh ta cũng không cho. Vừa khi anh ta có việc đi ra ngoài, ta nhân lúc cần phải nấu cơm bất đắc dĩ mới lấy thúng của anh ta vo gạo, còn chưa vo được thì anh ta trở lại nắm vạt áo của ta giật mà nói: “Chúng ta xuống khách đường đi!”. Ta không chịu đi, anh ta cứ lôi mà không nhúc nhích, ta hướng về anh ta rập đầu nói: “Đồng tham! Đồng tham! Đừng xuống khách đường. Chúng ta khi ra khỏi thiền đường đã có hẹn là không bao giờ xuống khách đường để người ta cười chúng ta”, lại rập đầu thêm ba cái nữa, anh ta mới thả ta ra. Một ngày sau anh ta đắp y mang tọa cụ đến liêu phòng ta cầu sám hối. Các ông nghĩ xem: muốn thành Bồ Tát đạo có phải hành cái nhẫn nhục chăng? Các ông hãy phát tâm! Tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 18 tháng 12 (thất 9 ngày thứ sáu).

Người chưa ngộ so với người đã đại ngộ thì tiền đồ khác nhau. Nay nói sơ qua cho các ông nghe, nếu không thì mơ hồ không dễ gì phân biệt. Người chưa ngộ thì mắt chưa mở, như người mù vậy. Các ông thử nghĩ: người có tốt gì đâu? Một chân đạp cứt chó, lấy tay mò lấy còn cho là đồ tốt hay đồ ăn ngon. Trái lại đem một chén cơm lại cho anh ta, anh ta lại sợ các ông trêu chọc, nghi ngờ trong cơm có đồ không sạch. Đưa anh ta vào nhà tiêu, anh ta lại cho là rất tốt, ngồi cũng tiện, đứng lên đưa tay ra thì đều có chỗ tựa, đại tiểu tiện đều tiện lợi, thật là tốt. Đưa anh ta lên chánh điện, anh ta lại nói: “Không đúng!” Bốn bề không chỗ dựa, không biết là nơi nào cả. Lại còn cho đó là chỗ đồng trống, chẳng có chỗ để nương tựa vào. “Không tốt! Không tốt! Hãy tìm cho tôi một chỗ tốt để thân đi!”. Các ông nghĩ xem có đáng tiếc không! Có khổ não không? Đem đồ ngon cho anh ta lại sợ là không sạch, để ở chỗ tốt anh ta lại chê là đồng trống. Vì sao? Vì là người không biết được tốt xấu; ấy là điều khổ não thứ nhất của người chưa khai ngộ.

Lại nữa, đến không biết từ đâu đến, đi không biết đi về đâu, việc này là cho nó là không quan trọng, không nói đến nó. Nhưng hiện tiền cái sắc thân này hôm nay chẳng biết việc ngày mai, muốn lo việc yên ổn trong tương lai thì không làm được. Xác thân này sẽ đến nơi nào cũng không làm chủ được. Sau khi chết lại mịt mù không biết chỗ về. Các ông thử nghĩ: Chết rồi đi về đâu, các ông còn biết chăng? Lên thiên đường cũng không biết, xuống địa ngục cũng chẳng hay, biến trâu biến ngựa cho đến biến cái gì cũng không biết, đó là cái khổ não thứ nhì của người chưa khai ngộ. Nói sơ hai loại này, nói thêm nhiều thì không đủ thì giờ. Các ông nghĩ xem: hai cái khổ não này cũng đủ cho các ông chịu khổ rồi! Nếu không tự ngộ thì ai sẽ giúp mình mở mắt ra đây!

Không khai ngộ thì giống như kẻ mù sau trước đều chẳng có chỗ đi. Nguời đã khai ngộ thì khác, lúc ngộ mới biết: “Trước kia ta là người mù mà chẳng biết mình là người mù, hôm nay mới hiểu ra được. Ta đã biết rồi, mở mắt ra nhìn mọi người đều là người mù tối thì ôi quả đáng sợ!”. Các ông nghĩ xem: Người ấy một khi đã mở mắt rồi thì đâu còn chịu ở trong cầu tiêu nữa? Cứt trâu phân chó đâu còn không biết sao? Đến lúc này thì về có đường, đi có chân chẳng phải như lúc mịt mù không biết chỗ về. Nay thấy chúng sinh vẫn là kẻ mù trong biển khổ, bản thân mình đã từng như thế, cho nên mới phát đại tâm cứu độ cho họ. Đến lúc này mới biết thương tiếc và quý cái sắc thân này.

Đối với các ông nay đang dụng công phu mà chưa ngộ thì cho cái thân này là đồ gì? Là “đồ hôi thúi! Đau thì cứ cho nó đau, đói nó lạnh ấm không có gì quan trọng, hư hoại thì cho nó hư hoại, cùng lắm là đổi một thân khác cũng được. Muốn ta buông bỏ công phu để săn sóc cái thân này thì không thể được!”. Vậy mà tại sao ở trên nói đến lúc ngộ còn muốn thương tiếc thân thể, quý trọng thân thể? Vì muốn thân thể này vun trồng cái vạn đức trang nghiêm của chúng ta, cần phải thực hành cái lục độ vạn hạnh của chúng ta. Vì chúng sinh khổ, ông muốn cứu họ, ông không hành cái hạnh Bồ Tát thì làm sao cứu được họ? Không kết duyên với họ thì đâu tin ông hành động Bồ Tát? Kết duyên với chúng sinh có dễ được chăng? Tỷ như: Người đã ngộ rồi hành đạo Bồ Tát, đi đến một nơi kia thấy một người nữ bèn nói: “Chị hai, chị niệm Phật không”. Người nữ ấy quày đầu trở lại nhìn và nói: “Cái ông thầy chùa xấu này, ai là chị hai của ông? Ông còn gọi tôi nữa tôi sẽ cho một trận!”. Người hành đạo Bồ Tát nói: “Tốt! Mời chị đánh cho, mà xin đánh cho mạnh một tí, đánh mỏi tay thì xin nghỉ mệt rồi hãy đánh nữa!” . Bị cô ta đánh cho một trận rồi mừng rỡ mà đi, lại đến một nơi khác hành đạo Bồ Tát. Tóm lại suốt ngày bị ba người đánh, năm người mắng đó là việc tốt, là có lời. Giả sử suốt ngày không ai đánh, không ai mắng là không tốt rồi, là lỗ vốn rồi! Hành đạo Bồ Tát phải như thế, nếu không như thế làm sao kết duyên với chúng sinh? Nếu không có duyên với chúng sinh thì muốn độ họ cũng không được? Điều này chẳng phải ta đặt ra, lúc đức Phật còn tại thế, chúng sinh vô duyên, Ngài cũng chẳng độ được nữa huống là Bồ Tát? Lúc Phật còn tại thế có chúng sinh ở quốc độ nọ, Phật ở nhân địa lâu nay chưa kết duyên với họ, Phật ở trên trời, họ ở dưới đất, Phật xuống đất họ lại xuống nước, chung qui chẳng có lúc nào họ gặp được Phật. Phật ra đời độ chúng sinh cũng chẳng độ được họ, Phật đi đến quốc độ họ, họ cũng chẳng chịu biết đến Phật. Nhưng mà Tôn giả Ca Diếp trong kiếp xưa lúc làm tiều phu thì họ làm ong. Tôn giả đã từng đứng trước ổ ong niệm Phật một tiếng, nên với họ có chút duyên ấy, cho nên Phật bảo Tôn giả Ca Diếp đi độ họ, bấy giờ họ mới được thọ pháp. Mọi người các ông hãy nghĩ: Kết duyên với chúng sinh có phải là việc rất cần chăng? Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 20 tháng 12 (Thất 10 ngày đầu).

Chánh pháp của Phật rất khó gặp. Chúng ta là chúng sinh khổ não, nay có thiện căn được thọ làm thân người, lại phát chút đạo tâm tin tưởng đạo pháp chăm lo tu đạo, như thế ắt có sự vun trồng, bồi đắp từ nhiều kiếp rồi, nếu không thì quyết chẳng thế nào đến được nơi này. Nhưng thiện căn tuy có mà cảm không được chánh pháp, lại nhầm lẫn nhận lấy những pháp ngoại đạo, ta thấy khổ lắm! Thật chẳng bằng một người không tu tâm. Tại sao vậy? Người không tu tâm, hiện tại tuy không tu, tương lai một khi gặp cơ duyên cảm thọ chánh pháp, lại có thể phát tâm tu hành thì nhanh chóng có thể chứng quả. Một số ngoại đạo kia tuy cũng có dụng công, cái dụng của họ là tinh, khí, thần; tu là tu tiên đạo như: Địa hành tiên, Phi hành tiên, Không hành tiên, Thiên hành tiên, Tuyệt hành tiên v.v… có mười loại tiên. Trong đó hai thứ Cửu công đạo, Tiên thiên đạo là có thể gần với Thiên đạo, cảm quả tuy được Thiên đạo, nhưng họ cầu thọ chứ không cầu lạc; ấy là ở trời mà bỏ trời, không giống tám thứ tiên kia. Cho đến khi tu thành rồi, nơi ở là trong động Thất Kim Sơn là vùng núi non không người đến, thọ được mười vạn năm. Tại sao lại ở nơi này vậy? Bởi vì, cái tu được họ không cho mọi người biết, sợ ở chung một chỗ với người, truyền đạo thì lại cứ một thầy một trò, không có người thứ ba, ấy là tại không truyền đạo, họ dụng công chỉ là một mình họ mà không cùng tu với người khác, vì vậy tu thành công rồi mà vẫn còn người sống một mình trong Thất Kim Sơn. Hai thứ đạo này tại sao lại tu thành công gần với trời vậy? Khi họ tu nhân thì có tâm lợi người, có tâm làm công đức nhưng chỉ cầu được trường thọ mà dứt dục, vì vậy tu thành công so với cõi trời dục giới cùng thọ mà không cùng vui. Kết quả của họ trong Thất Kim Sơn trên trời lục đạo, thọ mệnh nếu hết vẫn phải đọa lạc và cũng có thể xuống địa ngục. Tại sao vậy? Vì họ chỉ tin đạo họ tốt mà không tin đạo khác. Bảo họ tin Tam bảo họ không những không tin mà lại còn muốn hủy báng, vì nếu họ không báng Tam bảo thì họ không đứng vững được, cho nên họ gieo cái nhân hủy báng này tương lai nhất định chịu lấy quả báo. Những người như thế kiếp xưa gieo nhân tốt, kiếp này không gặp chánh pháp, lại lầm nhận đủ thứ tà kiến thì tương lai sẽ cảm quả không tốt. Ta thật thương tiếc cho họ đến chảy nước mắt. Tu tâm như thế không bằng chẳng tu. Quý thầy hôm nay ở đây tham Tối thượng thừa thiền, tu chánh pháp của thập phương chư Phật, hành tâm hạnh của thập phương chư Phật. Chẳng cầu khai ngộ cứ hành như thế này, cái chánh phạm chánh nhân này rất quý, dùng miệng ta tán thán cũng không hết được! (Tiếp theo là giảng một công án về giáo hóa ngoại đạo đã có ghi trong Tự Hành Lục của Ngài nên lược bỏ).

KHAI THỊ
Ngày 21 tháng 12 (Thất 10 ngày thứ nhì).

Thất đã đả được chín kỳ rồi. Việc này trong Thiền tông nói ra rất khó, lại không có tướng để thấy được, không hình để biểu lộ được; việc thế gian thì có tướng để thấy, có hình để khảo sát thì tự nhiên dễ làm.

Nhưng nói việc thế gian dễ cũng chẳng phải dễ, các ông xem: người học làm thợ mộc phải học ba năm, năm năm mới thành, lại học thành rồi có khi còn không ai mướn. Lại nữa học làm thợ mộc nhất định phải cầm búa không được cầm kéo, học thợ may thì nhất định phải cầm kéo không được cầm búa. Lại học thợ may cũng phải học đến ba năm, nếu không cũng học không tốt, ấy cũng là việc khó vậy!

Các ông xem việc của Thiền tông mới thực là dễ dàng! Thấy là thiền, không thấy cũng là thiền, nắm được là thiền, không nắm được cũng là thiền, chân bước tới là thiền, bước lui cũng là thiền. bất cứ dụng công hay chẳng dụng công đều là thiền, thiện niệm ác niệm đều không rời thiền.

Như nói ăn cơm mặc áo là việc rất dễ, nhưng tham thiền so với mặc áo ăn cơm còn dễ hơn nhiều. Hễ cứ tiếp xúc chỗ nào thì chỗ đó là thiền! Chỉ trong khoảng một khảy móng tay là đã dư thời gian để ngộ rồi! Từ nghi đến ngộ không cách đến bề dày của một tờ giấy thì làm sao nói xa?
Các ông nghĩ xem: Cái việc dễ như vậy mà các ông lại xem nó là việc khó. Việc này các ông chỉ cần ngay đó thừa đương là được!

Cũng như cầm búa cũng có thể làm thợ may, cầm kéo cũng có thể làm thợ mộc được, thế thì dễ biết bao! Giản tiện biết bao! Nhưng các ông trái lại cứ cho nó là việc khó quá sức, rồi lại lấy việc khó của thế gian mà cho là việc dễ.

Thường thường có người cống cao chẳng chịu việc thực hành của họ, cứ cho người nào cũng chẳng bằng mình, ta so với người đều giỏi hơn; loại người như thế không thể được xem là người trong Thiền tông đâu! Nếu muốn là người chân thật trong Thiền tông thì họ tuyệt không được lấy việc đánh chuông bảng cho hay, đánh hương bảng cho giỏi mà cho là người trong Thiền tông đâu! Như thế là làm sai lạc rồi! Thế lấy gì làm việc trong Thiền tông?

Đối với người căn cơ trung đẳng mà nói, thì trước tiên từ chỗ không biết dụng câu thoại đầu mà nói, thí dụ như: Câu thoại đầu chẳng biết dụng thì cách dụng như thế nào? Đến khi biết dụng rồi thì cách dụng như thế nào? Dụng quen rồi thì cách dụng như thế nào? Cho đến công phu đắc lực, bắt đầu chuyển vào giai đoạn thâm sâu thì cách dụng như thế nào? Tóm lại tất cả các giai đoạn dụng công kể trên đều phải minh bạch rõ ràng.

Đối với người căn cơ thượng đẳng thì từ địa vị phàm phu phải làm việc gì, đến địa vị bậc Thánh phải làm việc gì, chưa ngộ phải làm việc gì, ngộ rồi phải làm việc gì, cũng đều phải thật rõ ràng thì mới kể là người trong Thiền tông được.

Thuở trước ta làm thanh chúng thấy có nhiều người “làm đầu bỏ đuôi”, nói chuyện với nhau phê bình: Ban Thủ này quy củ không thuộc, Ban Thủ kia giảng khai thị không hay, lại còn dây dưa lề mề, Duy Na là người sơ tham, khinh khi người ta đủ thứ, họ tự cho mình hơn hẳn người khác. Đến khi nhà mời họ nhận chức sự thì họ làm rối bời lộn xộn, suốt ngày làm người ta phải phì cười. Ta thấy nhiều lắm! Cái loại người này có còn được xem là nhân tài của Thiền tông không? Đại khái các ông cũng còn khá nhiều người có cái tâm lý này. Loại người này ta xin hỏi: các ông khinh rẻ người ta, các ông biết hai chữ “cảnh sách” của hương bảng lớn như thế nào chăng? Cái bình trà phải cầm như thế nào chăng? Các ông còn biết chăng? Những việc này mặc dù chẳng phải chánh hạnh của Thiền tông cũng là pháp trợ đạo của Thiền tông. Tại sao vậy? Đánh hương bảng được hay, người bị đánh ngay đó liền khai ngộ. Cái cách cầm bình trà người ta nhìn thấy cũng được ngộ. Mắt thấy, tai nghe, thân xúc chạm đều là nhân duyên ngộ đạo. Xưa kia Linh Vân thấy hoa đào nở mà ngộ đạo, Hương Nghiêm nghe tiếng trúc mà ngộ đạo. Những phép tắc lớn nhỏ trong Thiền tông còn có thể điểm nào qua quýt chăng? Ngày trước ta ở chùa Thiên Đồng là Duy Na, trong Thiền đường có một hai người “làm đầu bỏ đuôi”, sớm đã nghe họ nói: “Ồ thiền đường có gì hay đâu? Lời Ban Thủ giảng không hay, quy củ Duy Na lại không thuôc, thực là làm hỏng việc của người ta! Vậy những phép tắc này có cần phải học nữa không? Chỉ là việc không đáng kể!”. Ta biết họ có lòng dạ này. Ta hỏi họ: “Còn thích ở thiền đường không?”. Họ nói: “Tôi thích ở”. Ta nói: “Quy củ ông còn giữ được không?”. Họ nói: “Giữ được!”. Ta nói: “Tốt lắm!”. Hôm ấy lúc đánh hương bảng vào giờ ngọ để khai tịnh uống trà, chén trà đưa vào tay họ, họ nhìn qua hai bên, ta bèn đến đánh cho một trận hương bảng mà chẳng nói một lời với họ. Ấm trà đến rồi họ cũng không biết làm sao nhận trà, ta lại đập thêm một trận hương bảng nữa; uống trà thì gục đầu xuống uống, ta lại cho thêm một trận hương bảng; uống xong một tuần trà đánh được năm, sáu chục hương bảng. Ta quay đầu lại hỏi: “Ông còn thích ăn thêm hương bảng nữa không?”. Họ vô cùng hổ thẹn nói: “Xin Duy Na từ bi cho, nhờ trận hương bảng này của thầy, tôi mới thấy được chỗ thâm sâu của thiền đường, tôi mới thấy được về lúc trước là không đúng; từ nay về sau phép tắc lớn nhỏ gì tôi cũng phải thành thực mà học lấy”. Các ông nghĩ: Loại người này có đáng thương hay không? Họ đã chịu lấy một phen thống khổ này của ta thì mới biết được chỗ đáng quý của thiền đường, mới từ bỏ cái bụng trống rỗng mà kiêu căng ấy của họ đi: quả là một kẻ đại khổ não! Vì sao họ như thế? Phải biết là: Người mới phát tâm ở thiền đường nếu không bỏ cái “ngã kiến” đi thì đều có tâm này; cũng không có gì lạ họ cả, hoàn toàn không phải chỉ có người đó mới là như vậy, tôi xưa kia mới vào thiền đường cũng thấy nhiều người như thế.

Ta thọ giới rồi vào thiền đường, tự mình cứ cho là ở thiền đường nhất định phải liễu sinh thoát tử mới ra khỏi cổng thiền đường. Không ngờ tới chốn thiền đường thấy người ta chỗ này cũng sai chỗ kia cũng sai, ngồi hương buồn ngủ, khai tịnh rồi hoặc là nghỉ hoặc là như học trò gặp lúc thầy đi vắng, không ba hoa thì cũng lên mặt làm thầy, hôm nay thấy như thế, ngày mai cũng thấy như thế, ngày thứ ba lại chẳng thích thấy nữa, không muốn thấy lại, bấy giờ trong tâm phiền toái thật là khó chịu. Cách làm người này của ta không giống cách làm người của người khác. Lúc ở ngoài đời thấy người ta còn nhiều điều không tốt nên ta mới xuất gia; sau đến Phổ Đà Sơn thấy một số người xuất gia mặc quần áo trắng, vớ trắng, dù tây, ta lại thấy không tốt bèn đến Phạm Âm động xả thân (tự tử), ở trên đời ta thấy không tốt nên ta mới không ở đời, ta là loại người như thế. Đến chốn thiền đường lại thấy những điều không tốt như vậy mới tự mình nghĩ lại: “Ta vì sao mà xuất gia? Có phải vì xem lỗi của người ta mà xuất gia, hay là kiếm ăn không được mà xuất gia?”. Tự mình hỏi mình, rồi tự mình nói: “Tất cả đều không phải, vì đạo mà xuất gia”. Ta lại tự mình khảo cứu: “Đã vì đạo mà xuất gia thì phải lo việc đạo! Tại sao phải đi nhìn lỗi của người khác?”. Tự hỏi như thế mới tự mình trách cứ mình, cái này không đúng, cái kia không đúng, tất cả đều tự mình không đúng, tự mình làm quấy làm chướng ngại chính mình. Cho nên người mới phát tâm đều có cái không đúng này; mặc dù là có nhưng cần phải tự mình giác ngộ, nếu không giác ngộ thì suốt đời không thể làm người được. Nếu quả các ông cố giữ lấy cái “ngã kiến” mà không bỏ đi, ta nói: các ông không phải nhân tài của Thiền tông mà là kẻ “làm đầu bỏ đuôi”, sợ nhất định chẳng sai đâu. Mọi người hãy phát tâm tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 22 tháng 12 (Thất 10 ngày thứ 3).

Chúng ta đều là người đã thọ qua ba đại giới (gồm Sa Di giới, Tỳ Kheo giới, Bồ Tát giới) thì phải gánh vác trách nhiệm đối với sự nghiệp của Bồ Tát mới đúng. Bồ Tát thì hành việc gì? Bồ Tát lấy lục độ vạn hạnh làm sự nghiệp của mình. Hạnh Bồ Tát có lục độ gồm: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ.

Bố thí độ là độ cái tham vì thân, khẩu, ý đều tham. Tỷ như: thấy một cái áo của người quá đẹp, trong lòng muốn có cái áo ấy là ý tham; miệng nói “anh bán cho tôi cái áo này đi!”, đấy là khẩu tham; lấy tay sờ một cái, ấy là thân tham; cái loại thân, khẩu, ý tham này không có bố thí độ thì không độ được. Tại sao vậy? Khi thấy cái tốt của người ta, người hành hạnh bố thí không những không nài hỏi người ta mà tự mình xem có cái gì tốt, hoặc áo hay quần, mà có người muốn thì họ còn mang đến bố thí nữa, họ có tâm bố thí nên cái thân, khẩu, ý tham lúc đó tiêu diệt ngay, bố thí có cái công hiệu như vậy.

Nhưng tham và yêu không giống nhau. Tại sao không giống? Yêu vì tham không được nên thành yêu, cái yêu ở trong lòng như keo như sơn, bố thí không thể trừ được, không có giới thì không có cái gì trừ được nó.

Nói đến chữ giới này thì lại càng tiếc cho người đời nay! Chỉ biết tham lam lấy một lúc sung sướng, mà không biết phải chịu khổ bao nhiêu đại kiếp. Phải hiểu được: chúng ta không thể phạm Thánh giới. Tất cả sát, đạo, dâm, vọng đều là Thánh giới. Tại sao gọi là Thánh giới? Phải biết thân thể của ta là Phật thể. Tại sao vậy? Phật dạy: “Hết thảy địa, thủy, hỏa, phong là thân của ta”. Hết thảy địa, thủy, hỏa, phong đã là Phật thể thì cái thân thể của ta cũng do địa, thủy, hỏa, phong mà thành, nên cũng là Phật thể vậy. Giới của Phật chế ra chính là giới của ta. Cho nên gọi là Thánh giới vậy. Thí dụ như phạm dâm giới là phải dùng thân phạm, thân ta là thân Phật, ta phạm giới là phạm Phật giới.

Các ông nên biết: Cái Thánh giới này một khi đã phạm rồi thì quả báo của nó thật đáng sợ! Không phải nói để dọa các ông, phạm giới sát, đạo, dâm, vọng thì ít nhất cũng một đại kiếp ở địa ngục A tỳ, nặng một tí thì ba đại kiếp. Các ông nghĩ xem: Thời phạm giới không quá nữa khắc mà thọ báo cả ba đại kiếp, vậy là có ít không? Tỷ như phạm giới sát, một dao thôi thì có bao lâu đâu? Ăn trộm đồ của người ta thường không quá một tiếng đồng hồ? Phạm giới dâm thì có sung sướng được bao lâu đâu? Giới vọng thì một câu nói có được bao nhiêu thì giờ? Mà chiêu lấy quả báo từ một đại kiếp, cho đến ba đại kiếp ở địa ngục A tỳ; một ngày một đêm ở ngục này bằng tám vạn đại kiếp ở cõi trời Phi phi tưởng, một ngày một đêm ở cõi trời Phi phi tưởng bằng tám vạn kiếp ở nhân gian, tính như thế thì có đáng sợ chăng? Như phạm giới một tiếng đồng hồ mà chịu tội một tiếng đồng hồ thì còn được, nhưng sung sướng một tiếng đồng hồ mà chịu quả báo lâu dài như thế, người có chút tri thức nghe ta nói thế rồi còn có người chảy nước mắt không? Ta thật thương hại các ông! Chảy nước mắt vì các ông! Vì các ông chỉ biết sung sướng mà không biết tương lai phải chịu quả báo đau khổ, đáng thương cũng là ở chỗ ấy.

Giới tại sao có thể độ được cái khổ của bao đại kiếp này? Tỷ như có một người nữ trước mặt ông, tâm ông động rồi thì nhanh chóng phạm thôi; nhưng ở chính hai người lại lấy một miếng ván ngăn cách ra thì có muốn phạm cũng chẳng được. Miếng ván này cũng giống như giới vậy, cho nên trì giới được thì có thể tách rời mọi tội lỗi và lúc ấy tội lỗi liền tiêu diệt. Cho nên dù cái yêu đắm đuối nhất, đừng sợ như keo như sơn, có giới rồi thì có thể độ nó được. Cho nên các ông có thể trì giới thì chẳng phạm giới và rồi chẳng phải chịu lấy cái quả khổ. Lại còn có nhẫn nhục độ sự sân hận, tinh tiến độ biến nhác, thiền định độ tán loạn, trí tuệ độ ngu si. Lục độ này là hạnh nên làm của Bồ Tát. Các ông là người đã thụ đại giới Bồ Tát rồi, tuy không hoàn toàn là Bồ Tát thì cũng nên học làm Bồ Tát. Đây là điều rất cần thiết! Nếu các ông phát tâm thực hành thì phải tham thiền, hễ công phu thành khối tức là trì hết tất cả Thánh giới vậy. Trong giới luật gọi là Thiền giới. Hãy tham đi!

KHAI THỊ
Ngày 23 tháng 12 (thất 10 ngày thứ 4).

(Giảng công án Phật Thích Ca xuống biển lấy ngọc Như ý. Lược bỏ).

KHAI THỊ
Ngày 24 tháng 12 (thất 10 ngày thứ 5).

(Giảng công án tự mình phát nguyện. Đã ghi trong Tự Hành Lục. Lược bỏ).

KHAI THỊ
Ngày 25 tháng 12 (Thất 10 ngày thứ 6).

(Giảng những truyện tích ở chốn Tùng Lâm và Kỳ Viên. Lược bỏ).

KHAI THỊ
Ngày 26 tháng 12 (Thất 10 ngày thứ 7).

(Giảng nguồn gốc chính pháp. Tổ 24 Tây Trúc  gặp nạn, Sơ Tổ, Nhị Tổ và Lục Tổ Đông Độ gặp nạn. Lược bỏ).

KHAI THỊ
Ngày 27 tháng 12.

KHẢO CÔNG PHU VÀ GIẢI THẤT:

Sư cầm roi trúc nói: “Mười thất đã xong, triệt ngộ chuẩn đích, nhốt lại thả đi, tuyệt gốc tuyệt tích. Thử hỏi: Trong kỳ thất còn có người nào chiêm bao chăng? Nếu không, ấy là kẻ chết; nếu có, ấy là người tục, mọi người kiểm điểm xem!” (Độc giả chớ nên đuổi theo lời nói, cần phải tự ngộ mới được).

Một lúc sau Sư hét lên rằng: “Đại sự chưa minh tâm đã nhác! Lúc nào tu lại thuyết vô sinh? Nếu được chẳng bị thường tình chuyển, uyên nguyên biển đạo càng thấy sâu. Nếu mà không ngộ thì hãy thượng điện (tụng niệm 2 khóa sớm chiều), quả đường đi!”. (Ý nói là cứ tiếp tục làm việc sống thường ngày đi!) GIẢI THẤT!

HẾT

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

Lời khẩn cầu trong đêm æåŒ một linh cảm ứng quán thế âm đừng vội phán xét người æµæŸçåŒçŽ làm gì khi chúng ta gặp thị phi mùng พระอ โบสถว ดสระเกศ 塩谷八幡宮 hiểu 白色袈裟图片画法 æ æ hoc phat Vu lan nhớ mẹ 簡単便利戒名授与水戸 大安法师讲五戒 教师节的对联 河南有专属的佛教 Phật giáo 仏壇の線香の位置 投影备品备件方案 Về ماتش مصر والراس الاخضر يلا 增上生和决定胜 人间佛教 秽土成佛 末法时代 me va tieng mua dem å¾ Muốn giảm cân hãy ăn bơ Chữ Hiếu viết như thế nào Sách Trà van dap ve viec an chay 什么是佛度正缘 七五三 小山 Lâm 念佛机 大般若經 簡易摘要 о ят ьея корчое наебывал mối nhung diem den khong the bo qua khi du lich tay lich su phat giao tay tang 忏悔 An hai khuynh huong lon trong lich su tu tuong phat 元代 僧人 功德碑 chuyến Bàn dieu kien den voi kinh phap hoa