Tắc
Một
CON
CHÓ CỦA TRIỆU CHÂU
Cử
:
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu :
-Con
chó có Phật tánh không ?
-Không
!
Bình
:
Tham
thiền phải qua cửa tổ, diệu ngộ phải tuyệt đường tâm.
Cửa tổ không qua, đường tâm chẳng dứt thì như tinh linh
nương vào cây cỏ. Thử hỏi thế nào là cửa tổ ? Chính
là một chữ Không, gọi là Cửa không cửa của thiền vậy.
Người qua cửa không những thân thấy Triệu Châu mà còn cùng
lịch đại chư tổ nắm tay cùng đi, ngang hàng với họ, nhìn
cùng một mắt, nghe cùng một tai há chẳng vui sao ? Các ông
chẳng muốn qua cửa này ư ? Hãy đem 360 đốt xương, tám vạn
bốn ngàn lỗ chân lông toàn thân khởi nghi đoàn, tham chữ
Không ngày đêm. Các ông chớ hiểu Không là Hư Vô, cũng đừng
hiểu trong nghĩa Có, Không. Giống như các ông nuốt một hòn
sắt nóng, muốn khạc mà khạc chẳng ra. Các ông hãy bỏ hết
những vọng tri, vọng giác từ trước, lâu dần thuần thục,
tự nhiên trong ngoài đánh thành một phiến, như người câm
nằm mộng chỉ mình tự biết. Rồi bỗng nhiên như trời long
đất lở, như đoạt được Thanh Long Đao của Quan tướng
quân, gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ. Bên bờ tử
sinh mà được tự tại, hướng lục đạo tứ sinh mà du hí
tam muội. Tôi muốn hỏi các ông phải làm sao ? Hãy đem hết
sức mà nêu chữ Không ấy. Nếu các ông giữ cho không gián
đoạn thì giống như vừa mới mồi lửa ngọn đuốc Pháp
đã bùng cháy.
Tụng
:
狗
子 佛 性
Cẩu
tử Phật tánh
全
提 正 令
Toàn
đề chính lệnh
才
涉 有 無
Tài
thiệp hữu vô
喪
身 失 命
Táng
thân thất mạng.
Con
chó Phật tánh
Chánh
lệnh nêu lên
Vừa
nói không, có
Mất
mạng chôn thân.
Chú
Thích :
-Triệu
Châu (778-897) : pháp danh Tòng Thẩm, học trò Nam Tuyền Phổ
Nguyện, đạo hạnh cao thâm, được xưng tụng là Triệu Châu
Cổ Phật. Sinh vào đời Đường, người Tào Châu, họ Hác.
18 tuổi giác ngộ, 60 tuổi mới bắt đầu đi hành cước,
80 tuổi trụ trì ở Quán Âm Viện, 120 tuổi qua đời.
-Vô
Môn (1183-1260) pháp danh Huệ Khai, sinh vào đời Tống, họ Lương,
người Tiền Đường, Hàng Châu. Tác giả Vô Môn Quan (Cửa
Không Cửa).
-Tăng
: viết tắt của tăng già, có nghĩa là hòa hợp chúng, chỉ
người cắt tóc đi tu.
-Cửa
Tổ : có 3 cửa là Sơ quan, Trùng quan và Lao quan. Chính là các
ông chứ không phải ai khác đã tạo nên cửa này làm trở
ngại sự giác ngộ, mặc dầu có vẻ như người khác tạo
nên.
-Đường
tâm : tham thiền phải trực quán, trực ngộ không thể dùng
suy luận.
-Như
tinh linh nương vào cây cỏ : dẫn từ kinh Trường A Hàm chỉ
tự mình không có kiến thức, lấy lời nói của người khác
mà giải thích.
-Lục
đạo : 6 con đường mà con người phải luân hồi : người,
trời, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la.
-Tứ
sinh : thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh.
-Quan
tướng quân : tức Quan Vân-Trường, danh tướng đời Tam Quốc
(Trung Hoa).
-Phật
tánh : cũng gọi là giác tánh, Như Lai tánh, tự tánh v. v .
nguyên là chỉ bản tánh của Phật, sau trở thành khả năng
có thể thành Phật.
-Vô
: Trong các sách Tổ Đường tập (đời Ngũ Đại), Truyền
Đăng Lục (đời Bắc Tống), Triệu Châu Bản Truyện đều
không ghi công án này. Cuốn sách đầu tiên ghi công án này
là Hoàng Bá Đoạn Tế Thiền sư Uyển Lăng Lục; vì vậy có
học giả cho rằng công án này là do người đời sau thêm
vào. Công án này được phổ biến rộng rãi và được các
thiền giả coi trọng từ sau đời Bắc Tống trở đi, nhất
là sau khi Đại Huệ Tông Cảo (1089-1163) đề xướng khán thoại
đầu.
-Du
hí tam muội : đây là định của bậc Bồ Tát có thể ra vào
tự tại không sợ hãi, thí dụ bách thú đang du hí thấy sư
tử đến liền sợ hãi, còn sư tử khi du hí dù thấy bất
cứ một dã thú nào vẫn tự do, tự tại không sợ hãi. Ở
đây là nói khi tham cứu thoại đầu được chứng ngộ, đối
với sinh tử luân hồi tự do, tự tại, không bị câu thúc.
-Con
chó, Phật tánh, không là một : Khi trả lời “Không “, Triệu
Châu đã vượt lên khỏi thế giới nhị nguyên của khái niệm.
(Yamaha)
-Chữ
Không như chầy sắt phá cửa thiền cứng, là búa sắc chặt
đứt phiền não của ngôn ngữ, văn tự.
(Nhật
Chủng Nhượng Sơn)
-Tự
tánh có ở mọi sự, vật, trong tiếng cười, tiếng khóc,
tiếng hét, tiếng Có, tiếng Không, ngay cả ở trong câu hỏi
“Con chó có Phật tánh không ?” Triệu Châu cho chúng ta một
tên khác để gọi tự tánh, đó là Không.
(Eido
Shimano)
-Câu
đáp của Triệu Châu chú ý không ở con chó mà là ở chữ
Không. Chữ Không này siêu việt hai bên, không phải Có hoặc
Không. Nếu trụ lại ở một bên nào là mất mạng ngay dưới
kiếm giết người của Triệu Châu. Tham chữ Không này cũng
là một loại pháp môn, mục đích là chỉ cho người học
thấy tánh. Do chuyên chú lâu ngày ở chữ Không này, các niệm
đầu đều dứt bặt, đạt tới trạng thái vô tâm, lúc đó
có thể tự tánh sẽ hiển hiện. Trong một lần khác thay vì
đáp Không, Triệu Châu lại đáp Có. Rõ ràng là với một
câu hỏi Triệu Châu không dùng câu đáp hai lần. Con chó có
Phật tánh không, đối với ông không thành vấn đề, ông
chỉ đối bệnh mà cho thuốc. Ông tăng không quan tâm mình
thấy tánh hay không mà lại để tâm đến “con chó có Phật
tánh không ?” Câu trả lời Không của Triệu Châu là mắng
ông giống như con chó có Phật tánh cũng như không.
-Giải
thích bài kệ :
Câu 1 và 2 : Công án con chó có Phật tánh hay không là
để truyền đạt mạng lịnh của Thiền tông.
Câu 3 và 4 : nếu nghiêng vào có hoặc không là đánh mất đi
huệ mạng pháp thân của chính mình.
-Ý
nghĩa bài kệ : Chữ Không này của Triệu Châu là đề khởi
toàn bộ chính lệnh của Thiền tông. Nên biết tham chữ Không
này là để kiến tánh, không thể từ hư vô hay hữu vô mà
thể hội, tham đến khi phàm, thánh là một thì mới gọi là
qua được cửa Tổ.
-Ngũ
tổ Diễn nói : Lời chẳng hợp cơ, không thể ngay lời mà
ngộ, người học bèn hỏi tiếp, nói chưa dứt lời đã bị
Triệu Châu mắng, như dùng dao chặt tay thành hai mảnh, chết
tươi.
-Thùy
Am Diễn thì nói : Câu đáp Không của Triệu Châu giống như
trong không bỗng xuất hiện một gương cổ (chỉ tự tánh).
Gương cổ này không dính bụi, chiếu khắp vũ trụ.
(Dương Tân Anh)
-Thực
ra câu chuyện trên, có chép một đoạn nữa như sau :
-Những
loài xuẩn động hàm linh đều có Phật tánh, tại sao con chó
lại không
có
?
-Vì
có nghiệp thức.
Lại
có một ông tăng khác hỏi :
-Con
chó có Phật tánh không ?
-Có.
-Tại
sao phải làm thú ?
-Biết
mà cứ làm.
Với
cùng một câu hỏi, cách trả lời của Triệu Châu lúc nói
Không, lúc nói Có theo lẽ đương nhiên là đầy mâu thuẫn.
Nhưng tại sao lại có sự mâu thuẫn, khó hiểu ấy ? Đứng
trên lập trường của Triệu Châu thì lại chẳng có gì là
mâu thuẫn cả. Vì đây là tùy cơ mà đáp, không cốt trả
lời mà làm sao cho khởi nghi tình, rồi do giải được nghi
tình mà ngộ. Nếu lấy chữ Không của Triệu Châu mà giải
là không tứ đức (thường, lạc, ngã, tịnh). Và có là tất
cả đều có Phật tánh thì cũng được, vì con chó có nghiệp
thức thành ra tứ đức không hiện. Tuy chó có Phật tánh nhưng
biết mà cứ làm tạo ra những ác nghiệp cho nên phải làm
kiếp chó. Chữ Không này của Triệu Châu quả là độc sáng,
nó chính là sinh mạng là tông chỉ của thiền sư vậy.
(Tiêu
Vũ Đồng)
-Trong
tất cả các công án, công án chữ Không của Triệu Châu là
nổi danh nhất. Nó rất phổ thông nên các thiền sư đều
trao công án này cho các ông tăng mới. Nếu thiền sinh làm
tốt công việc của mình, chữ Không sẽ giống như một hòn
sắt nóng tọng vào cổ họng, nuốt không trôi, khạc chẳng
ra. Điểm quan trọng là “Không vạch ra cho chúng ta thấy Phật
đạo. 無 Vô trong tiếng Trung Hoa có nghĩa phủ định là Không,
không có gì (no-thing). Không cũng là một khái niệm cơ bản
trong Triết Đông. Có Không tương đối và Không tuyệt đối.
Không tương đối là đối nghịch của 有 Hữu. Không tuyệt
đối vượt lên thị phi. Để hiểu công án này phải hiểu
rõ sự sai biệt này. Khi ông tăng hỏi : “Con chó có Phật
tánh không ?” Ông không những đứng trên quan điểm của
tâm phiền não của ông mà còn trên quan điểm của giáo lý
Phật giáo là mọi chúng sanh đều có Phật tánh. Triệu Châu
dĩ nhiên là biết chuyện này. Chữ Không của ông giúp cho
ông tăng chặt đứt cái chấp về giáo lý. Giáo lý cơ bản
của Phật là vô chấp. Mọi đau khổ, phiền não của con người
đều do chấp, ngay cả chấp vào ý tưởng vô chấp cũng là
chấp rồi. Triệu Châu muốn ông vượt lên thế giới tương
đối, vượt lên Phật lý, vượt lên Không và Có, được
giác ngộ tự do, tự tại. Ngộ chính là kích thước mới
này của cuộc sống. Bình thường cuộc đời của con người
luôn luôn chấp vào tương đối : Thị phi, tốt xấu, đúng
sai, nhưng cuộc đời luôn thay đổi. Đúng và Sai thay đổi
theo thời gian và nơi chốn. Khái niệm tĩnh không thích hợp
với cuộc đời, do đó Không là quyết định, nó không không
để một khoảng trống nào cho trí thức có thể bám víu vào.
Không phải được thực chứng.
(Kubose)
Tắc
Hai
CON
CHỒN HOANG CỦA
BÁCH TRƯỢNG.
Cử
:
Mỗi
lần Bách Trượng giảng pháp, đều có một cụ già theo đại
chúng vào nghe. Khi đại chúng tan hàng, ông cụ cũng lui. Một
hôm bỗng không lui.
Sư
hỏi :
-Người
đứng trước mặt tôi là ai ?
-Dạ,
tôi vốn chẳng phải là người. Hồi Đức Phật Ca Diếp,
tôi từng trụ trì tại núi này. Có học nhân hỏi :
-Bậc
đại tu hành còn rơi vào nhân quả không ?
Tôi
đáp :
-Không
!
Nên
500 kiếp qua tôi bị đọa làm thân chồn hoang. Nay thỉnh Hòa
thượng ban cho một chuyển ngữ để thoát kiếp chồn hoang.
Ông
cụ già bèn hỏi :
-Bậc
đại tu hành còn rơi vào nhân quả không ?
Sư
đáp :
-Chẳng
lầm nhân quả.
Ông
cụ ngay lời đó đại ngộ, lạy tạ :
-Tôi
đã thoát thân chồn, xác còn ở sau núi. Xin Hòa thượng ma
chay theo tăng lễ.
Sư
ra lệnh Duy na bạch chùy báo cho đại chúng ăn xong sẽ làm
lễ táng tăng. Đại chúng bàn tán :
-Mọi
người đều khỏe mạnh, Nát Bàn đường cũng không có bệnh
nhân, sao lại có chuyện như vậy ?
Ăn
xong, sư dẫn chúng ra sau núi, lấy gậy khều ra một xác chồn
hoang dưới tảng đá, đem hỏa táng.