|
cLục
Tổ Huệ Năng
KINH
PHÁP BẢO ÐÀN
Tỳ Kheo
Thích Duy Lực Dịch và Lược Gỉai
Từ Ân
Thiền Ðường, Santa Ana Xuất Bản1992
Phẩm
Nghi Vấn Thứ Ba
Một hôm, Vi Sử Quân
vì Sư thiết hội Trai Tăng. Trai xong Sử Quân mời Sư thăng
toà, cùng với quan chức, dân chúng cung kính lễ bái, hỏi
Sư : Ðệ tử nghe Hòa Thượng thuyết pháp,
thật là bất khả tư nghì, nay có một ít nghi vấn, xin Hòa
Thượng từ bi giải thuyết cho.
Sư nói :
"Có nghi cứ hỏi, ta giải đáp cho Sử Quân nói : Cái Pháp
mà Hòa Thượng giảng dạy, có phải là tông chỉ của Tổ
Ðạt Ma chăng ? Sư đáp : Phải. Sử
Quân nói : Ðệ tử nghe nói : Tổ Ðạt Ma lúc mới gặp
Lương Võ Ðế, vua hỏi : Trẫm suốt đời xây chùa độ Tăng,
trai Tăng bố thí, được công đức gì ? Tổ Ðạt Ma đáp
: Thật chẳng công đức. Ðệ tử chưa hiểu lý này, xin Hòa
Thượng chỉ dạy.
Sư nói : Thật
chẳng công đức. Chớ nghi lời của bậc Thánh xưa. Võ Ðế
tâm tà, chẳng biết Chánh Pháp. Xây chùa độ Tăng, trai Tăng
bố thí, ấy là cầu phước, chẳng thể đem cái phước ấy
cho là công đức. Công đức ở trong Pháp Thân, chẳng ở tại
tu phước. Sư lại nói : Kiến tánh
là công, bình đẳng là đức, niệm niệm vô ngại, thường
thấy cái diệu dụng chân thật của tự tánh gọi là công
đức. Trong tâm khiêm tốn là công, ngoài hành lễ phép là
đức; tự tánh kiến lập vạn pháp là công, tâm thể lià
niệm là đức; chẳng rời tự tánh là công, ứng dụng vô
nhiễm là đức. Muốn tìm kiếm Pháp Thân của công đức,
phải y theo đây thực hành mới là chơn công đức. Người
tu hạnh công đức, tâm chẳng khinh người, thường hành pháp
cung kính. Tâm nếu khinh người, nhơn ngã chẳng dứt tức là
chẳng công, tự mình hư vọng chẳng thật tức là chẳng đức,
vì ngã chấp quá lớn, nên thường khinh bỉ tất cả. Thiện
tri thức, niệm niệm chẳng gián đoạn là công, tâm bình đẳng,
hạnh ngay thẳng là đức; tự tu tánh là công, tự tu thân
là đức. Thiện tri thức, công đức phải
do tự tánh tự thấy, chẳng phải bố thí cúng dường mà
cầu được, nên phước đức và công đức khác nhau là vậy.
Võ Ðế tự chẳng biết chân lý, đâu phải lỗi của
Tổ Sư ! Sử Quân lại hỏi : Ðệ
tử thường thấy Tăng tục niệm Phật A Di Ðà, nguyện sanh
Tây Phương, được vãng sanh chăng ? Xin Hoà Thượng chỉ thị
để phá nghiế. Sư nói : Sử Quân hãy nghe
đây : Lúc Thế Tôn ở trong thành Xá Vệ thuyết Kinh
Dẫn Hoá Tây Phương, rõ ràng từ đây đến đó chẳng xa.
Nếu nói theo tướng thuyết, tính theo số dặm thì có mười
vạn tám ngàn, tức thập ác tám tà nơi thân; đó là nói xa.
Nói xa là vì kẻ hạ căn, nói gần là vì người thượng trí,
người có hai loại, pháp chẳng hai thứ, do mê ngộ có khác
nên thấy có nhanh chậm. Kẻ mê niệm Phật cầu sanh nơi khác,
người ngộ tự tin nơi tâm. Cho nên Phật nói : Tùy nơi tâm
tịnh (trong sạch) tức Phật độ tịnh.
Sử Quân là người Ðông Phương, hễ tâm tịnh thì chẳng
tạo tội, người Tây Phương tâm nếu chẳng tịnh cũng có
lỗi. Người Ðông Phương tạo tội, niệm Phật cầu sanh Tây
Phương, người Tây Phương tạo tội cầu sanh phương nào ?
Kẻ mê chẳng rõ tự tánh, chẳng biết tịnh độ trong thân,
cầu nguyện nơi Ðông nơi Tây, người ngộ thì ở đâu cũng
vậy. Cho nên Phật nói : Ở bất cứ nơi nào cũng đều an
lạc vậy. Sử Quân nếu chẳng khởi ác
niệm thì Tây Phương cách đây chẳng xa, nếu tâm thường
khởi ác thì dẫu cho niệm Phật cũng khó mà vãng sanh.
Nay khuyên thiện tri thức, trước nhất phải
trừ thập ác, tức đã đi được mười vạn dặm, sau dứt
tám tà, tức đã qua tám ngàn dặm vậy. Niệm niệm thấy tánh,
thực hành bình đẳng và ngay thẳng, đến Tây Phương như
búng ngón tay, liền thấy Di Ðà. Sử Quân chỉ cần tu
thập thiện, đâu còn phải nguyện vãng sanh ! Nếu chẳng dứt
thập ác tâm, Phật nào mà đến rước ? Nếu ngộ được
pháp vốn VÔ SANH, thấy Tây Phương
chỉ trong chốc lát, chẳng ngộ tự tâm mà niệm Phật thì
con đường vãng sanh xa xôi, làm sao đến được ! Nay Huệ
Năng dời Tây Phương đến với các ngươi, chỉ cần trong
sát na liền thấy trước mắt, các ngươi có muốn thấy chăng
? Ðại chúng đảnh lễ rằng : Nếu được thấy tại nơi
đây, đâu cần cầu nguyện vãng sanh nữa, xin Hoà Thượng
từ bi hiện cõi Tây Phương cho cả thảy đều thấy.
Sư nói :
Ðại chúng, cơ thể của các ngươi là thành, nhãn nhĩ tỷ
thiệt thân là cửa, ngoài có năm cửa, trong có cửa ý (ý
căn), tâm là địa, tánh là vua. Vua ngụ nơi tâm địa,
tánh còn tức vua còn, tánh đi vua chẳng còn, tánh còn thân
tâm còn, tánh đi thân tâm hoại. Tìm Phật
ở nơi tâm, chớ nên cầu bên ngoài. Tự tâm mê tức chúng
sanh, tự tâm giác ngộ tức Phật, từ bi tức Quán Âm,
hỉ xả tức Thế Chí, thanh tịnh tức Thích Ca, bình đẳng
ngay thẳng tức Di Ðà, nhơn ngã là núi Tu Di, tà tâm là nước
biển, phiền não là làn sóng, độc hại là rồng ác, hư vọng
là quỷ thần, trần lao là cá trạch, tham sân là địa ngục,
ngu si là súc sanh. Thiện tri thức, thường hành thập thiện,
thiên đàng liền đến, trừ được nhơn ngã, núi Tu Di sụp,
phá được tà tâm thì nước biển cạn, chẳng sanh phiền
não thì làn sóng lặn, quên bỏ độc hại thì cá rồng tuyệt.
Tự tánh Như Lai trong tâm địa phóng đại quang minh, ngoài
chiếu sáu cửa thanh tịnh, phá hết lục dục chư thiên, tự
tánh chiếu soi, bên trong liền trừ tam độc, các tội địa
ngục nhất thời tan rã, trong ngoài sáng tỏ, chẳng khác Tây
Phương, nếu chẳng tu như vậy, Tây Phương làm sao đến được
?
Ðại chúng nghe nói, đều tự tin
sẽ được kiến tánh, thảy đều lễ bái tán thán rằng :
Lành thay, nguyện khắp pháp giới chúng sanh, nghe được pháp
này sẽ được từ NGHI đến
NGỘ.
Sư nói
:
Thiện tri thức, nếu muốn tu hành, tại gia cũng được, chẳng
do tại chùa. Tại gia tu được như người Ðông Phương mà
tâm thiện, tại chùa chẳng tu như kẻ Tây Phương mà tâm ác,
chỉ cần tâm được thanh tịnh, tức là tự tánh Tây Phương.
Sử
Quân lại hỏi : Tại gia phải tu như thế nào ? Xin Hòa
Thượng chỉ dạy. Sư nói : Nay ta vì
các ngươi nói bài VÔ TƯỚNG TỤNG,
chỉ cần y theo đây mà tu, như thường ở với ta chẳng khác,
nếu chẳng chịu tu, dẫu cho xuống tóc xuất gia, cũng đâu
có ích lợi gì ? Bài tụng rằng :
-
Tâm bình hà lao trì
giới,
-
Hạnh trực hà dụng
tu thiền.
-
Ân tắc thân dưỡng
phụ mẫu,
-
Nghiã tắc thượng
hạ tương lân.
-
Nhượng tắc tôn
ty hòa mục,
-
Nhẫn tắc chúng
ác vô tuyên.
-
Nhược năng toản
mộc thủ hỏa,
-
Ứ nê định sinh
hồng liên.
-
Khổ khẩu tức thị
lương dược,
-
Nghịch nhĩ tất
thị trung ngôn.
-
Cải qúa tất sanh
trí huệ,
-
Hộ đoản tâm nội
phi hiền.
-
Nhựt dụng thường
hành nhiêu ích,
-
Thành đạo phi do
thí tiền.
-
Bồ đề chỉ hướng
tâm mích,
-
Hà lao hướng ngoại
cầu huyền.
-
Thính thuyết y thử
tu hành,
-
Thiên đàng chỉ
tại mục tiền.
-
Dịch nghiã :
-
Tâm bình đẳng (bất
nhị) chẳng nhọc trì giới
-
(tâm địa chẳng
quấy tự tánh giới).
-
Hạnh ngay thẳng
(bất nhị)
đâu cần tu thiền.
-
(Hạnh
ngay thẳng là công phu bảo nhậm, ngộ rồi chỉ cần bảo
nhậm, khỏi phải tu thiền ).
-
Báo ân là nuôi dưỡng
cha mẹ,
-
Nhân nghiã thì già
trẻ thương nhau.
-
Khiêm nhường thì
sang hèn hoà thuận,
-
Nhẫn nhục thì việc
ác chẳng sanh.
-
Nếu công phu miên
mật mãi mãi,
-
Kẻ ngu độn cũng
phải kiến tánh.
-
Thuốc đắng hay
trừ được bệnh khổ,
-
Lời trái tai ắt
là trung ngôn.
-
Tự sửa quấy sẽ
sanh trí huệ,
-
Giấu lỗi thì trong
tâm chẳng lành.
-
Hằng ngày thường
lợi ích chúng sanh,
-
Thành đạo chẳng
do bố thí tiền.
-
Bồ đề chỉ ở
nơi tâm ngộ.
-
Ðâu cần hướng
ngoại để cầu huyền.
-
Nghe xong hãy theo
đây mà tu hành,
-
Tịnh độ đã ở
ngay trước mắt.
Sư lại nói
:
Thiện tri thức, cần phải y theo kệ này tu hành, nhận thấy
tự tánh, thẳng đến Phật địa. Pháp chẳng đợi người,
các ngươi hãy đi, ta về Tào Khê, hễ có thắc mắc thì đến
hỏi. Lúc ấy Sử Quân và trong hội các quan chức, thiện nam
tín nữ đều được tỉnh ngộ, tín thọ phụng hành.
|