Phẩm
Bát Nhã Thứ Hai
Qua ngày sau, Vi Sử Quân lại xin
giảng nữa, Sư thăng toà bảo đại chúng rằng: Cần phải
tĩnh tâm niệm Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða. Lại nói: Thiện
tri thức, trí bồ đề Bát Nhã của chúng sanh vốn tự có,
chỉ vì tâm mê chẳng thể tự ngộ, phải nhờ đại thiện
tri thức khai thị dẫn dắt để đi đến kiến tánh. Phải
biết Phật tánh của kẻ ngu người trí vốn chẳng sai biệt,
chỉ vì mê ngộ chẳng đồng, nên mới có kẻ ngu người trí.
Nay ta thuyết Pháp Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, khiến cho mọi người
đều được trí huệ, hãy chú tâm nghe: Thiện
tri thức, người đời suốt ngày miệng niệm BÁT
NHÃ, chẳng nhận được
TỰ
TÁNH BÁT NHÃ, cũng như nói ăn mà chẳng
no, miệng chỉ thuyết KHÔNG,
muôn kiếp chẳng được KIẾN TÁNH,
rốt cuộc vô ích.
Thiện tri thức, Ma
Ha Bát Nhã Ba La Mật là tiếng Phạn, dịch là đại trí
huệ đến bờ bên kia, đây cần phải tâm hành, chẳng ở
miệng niệm, miệng niệm tâm chẳng hành thì cũng như huyễn
hoá. Miệng niệm tâm hành, thì tâm và miệng tương ưng. Bản
tánh là Phật, lià tánh chẳng có Phật.
Sao gọi là Ma
Ha? Ma Ha là đại, tâm lượng quảng đại như hư không,
chẳng có biên giới, cũng chẳng vuông tròn lớn nhỏ, cũng
chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, cũng chẳng trên dưới dài
ngắn, cũng chẳng giận, chẳng vui, chẳng phải chẳng quấy,
chẳng thiện chẳng ác, chẳng đầu chẳng đuôi. Các cõi Phật
đều đồng như hư không, diệu tánh con người vốn không,
chẳng có một pháp có thể đắc, tự tánh chơn không cũng
như thế. Thiện tri thức, chớ nên nghe ta
nói KHÔNG mà
liền chấp KHÔNG.
Trước nhất chớ chấp KHÔNG,
nếu để tâm KHÔNG
tĩnh tọa là lọt vào VÔ KÝ KHÔNG.
Thiện tri thức, thế giới hư không bao hàm sắc tướng
vạn vật, mặt trời mặt trăng, núi sông đất đai, cây cối,
biển lớn, kẻ dữ người lành, pháp ác pháp thiện, thiên
đàng địa ngục, tất cả đều ở trong hư không,
TÁNH
KHÔNG của con người cũng vậy. Thiện tri thức, tự
tánh hay bao hàm muôn pháp là ЀI,muôn
pháp đều ở trong tự tánh của con người. Nếu thấy
điều dữ điều lành của người, tất cả đều chẳng lấy
chẳng bỏ, chẳng chấp chẳng nhiễm, tâm như hư không gọi
là ЀI, nên nói là MA
HA. Thiện tri thức, kẻ mê miệng nói, người trí tâm
hành. Lại có kẻ mê để tâm không mà tĩnh tọa, trăm điều
chẳng nghĩ, tự xưng là đại, với bọn người này không
thể nói gì được, vì họ bị rơi vào tà kiến. Thiện tri
thức, tâm lượng quảng đại cùng khắp pháp giới, dùng thì
liễu liễu rõ ràng, ứng dụng liền biết tất cả. Tất cả
tức một, một tức tất cả, tới lui tự do, tâm thể vô
ngại tức là
BÁT NHÃ.
Thiện tri thức,
tất cả TRÍ BÁT NHÃ
đều từ tự tánh mà sanh, chẳng từ bên ngoài vào,
chớ lầm dùng ý thức, gọi là chơn tánh tự dụng. Nhất
chơn nhất thiết chơn, tâm lượng là việc lớn, chẳng nên
hành đạo nhỏ, miệng chớ trọn ngày nói không mà trong tâm
chẳng tu hạnh này, giống như thường dân tự xưng là vua
thì không được, hạng người này chẳng phải đệ tử của
ta.
Thiện tri thức, sao gọi là
BÁT
NHÃ? BÁT NHÃ dịch là trí huệ. Bất cứ nơi nào lúc
nào, niệm niệm chẳng ngu muội (chẳng chấp
thật), thường hành đúng trí huệ, tức là hạnh
BÁT
NHÃ. Một niệm ngu muội (chấp thật)
thì
BÁT NHÃ tuyệt, một niệm trí
huệ thì BÁT NHÃ sanh. Con người ngu
mê chẳng thấy BÁT NHÃ, miệng nói BÁT NHÃ mà trong tâm thường
ngu muội, tự nói ta tu BÁT NHÃ, niệm niệm nói KHÔNG mà chẳng
biết CHƠN KHÔNG. BÁT NHÃ không hình tướng,
ấy là tâm trí huệ, nếu hiểu thấu như thế gọi là TRÍ
BÁT NHÃ.
Sao gọi Ba La Mật?
Ba
La Mật là tiếng Ấn Ðộ, dịch là đến bờ bên kia, nghiã
là lià sanh diệt. Chấp cảnh thì sanh diệt dấy lên như nước
nổi làn sóng, tức gọi bờ bên này, lìa cảnh thì chẳng
sanh diệt như nước chảy im lìm, tức là bờ bên kia, nên
gọi Ba La Mật. Thiện tri thức, kẻ mê miệng niệm,
đang trong lúc niệm có vọng có sai, niệm niệm nếu hành,
gọi là chơn tánh. Kẻ ngộ pháp này là PHÁP BÁT NHÃ, kẻ
tu hạnh này là H€NH BÁT NHÃ, chẳng tu tức là phàm phu, một
niệm tu hành, tự thân bằng Phật. Thiện tri thức, phàm
phu tức Phật, phiền não tức Bồ Ðề; niệm trước mê tức
phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật. Niệm trước chấp cảnh
tức phiền não, niệm sau lià cảnh tức Bồ Ðề.
Thiện tri thức! MA
HA BÁT NHÃ BA LA MẬT, tối cao tối thượng tối đệ
nhất, không trụ không đi cũng không đến, tam thế chư Phật
từ đó ra. Cần phải dùng ЀI TRÍ HUỆ, phá ngũ uẩn phiền
não trần lao, tu hành như thế, nhất định thành Phật, đổi
TAM ÐỘC thành GIỚI, ÐỊNH, HUỆ. Thiện tri thức, pháp môn
này từ một BÁT NHÃ mà sanh ra tám mươi bốn ngàn trí huệ.
Tại sao vậy? Vì con người có tám mươi bốn ngàn trần lao,
nếu không có trần lao thì trí huệ luôn luôn hiển hiện,
chẳng lià tự tánh. Người ngộ pháp này tức là vô niệm,
vô ức (không ghi nhớ), vô nhiễm trước,
chẳng khởi cuồng vọng. Ðối với tất cả pháp, dùng trí
huệ của chơn như tự tánh chiếu soi, chẳng lấy chẳng bỏ,
tức là KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT. Thiện
tri thức, muốn đi vào pháp giới thâm sâu và BÁT NHÃ TAM MUỘI,
phải tu hạnh BÁT NHÃ,
thực
hành theo Kinh Kim Cang thì sẽ được KIẾN TÁNH. Phải
biết cái công đức của Kinh này vô lượng vô biên, trong
Kinh rõ ràng tán thán, chẳng thể kể xiết. Pháp môn này là
TỐI THƯỢNG THỪA, vì người đại
trí mà thuyết, vì người thượng căn mà thuyết, kẻ căn
khí nhỏ nghe được khó tin. Tại sao vậy? Ví như trận mưa
bão lụt, thành thị nông thôn đều bị cuốn trôi như cỏ
lá, nếu mưa bão trong biển lớn thì chẳng thêm chẳng bớt;
như người thượng thừa, người tối thượng thừa nghe được
Kinh Kim Cang, tâm liền khai ngộ. Nên biết tự tánh vốn có
cái TRÍ BÁT NHÃ, trí huệ tự tánh thường chiếu soi nên chẳng
nhờ văn tự, ví như nước mưa, chẳng do trời có mà do khí
trời làm nên, khiến cho tất cả chúng sanh, tất cả cây cối,
hữu tình vô tình, đều được thấm nhuần, tất cả sông
ngòi đều chảy về biển lớn, hợp thành nhất thể. Cái
TRÍ TỰ TÁNH BÁT NHÃ của chúng sanh
cũng vậy. Thiện tri thức, kẻ tiểu căn nghe được PHÁP MÔN
ÐỐN GIÁO này, cũng như cây cỏ mà gặp mưa bão, đều tự
gãy đổ chẳng sanh trưởng được, kẻ tiểu căn thì cũng
như vậy: họ vốn có cái TRÍ BÁT NHÃ
đồng với người đại trí, chẳng có khác biệt, tại sao
nghe Pháp mà chẳng được tự ngộ? Ðó là do tà kiến chướng
nặng, phiền não căn sâu, cũng như mây lớn che khuất mặt
trời, chẳng được gió thổi nên chẳng hiện ánh sáng. CÁI
TRÍ của BÁT NHÃ vốn chẳng lớn nhỏ, chỉ vì tất cả chúng
sanh tự tâm mê ngộ chẳng đồng, tâm mê
tu hành hướng ngoại tìm Phật mà chưa ngộ tự tánh, tức
là tiểu căn. Nếu khai ngộ đốn giáo,
chẳng
chấp lấy hình tướng bên ngoài, chỉ ở trong tự tâm thường
khởi chánh kiến, phiền não trần lao thường chẳng ô nhiễm,
tức là KIẾN TÁNH. Thiện tri thức, trong ngoài chẳng
trụ, đi lại tự do, nếu trừ được chấp tâm thì thông
đạt vô ngại. Nếu tu được hạnh này, với Kinh BÁT NHÃ
vốn chẳng sai biệt. Thiện tri thức, tất cả Kinh điển và
văn tự, đại tiểu nhị thừa, mười hai bộ Kinh đều do
người đặt ra, vì có tánh trí huệ mới được kiến lập;
nếu chẳng có con người thì vạn pháp vốn chẳng tự có.
Nên biết vạn pháp
vốn do tâm người kiến tạo, tất cả
Kinh sách là vì con người mà nói. Vì trong con người có kẻ
ngu người trí, ngu là tiểu nhơn, trí là đại nhơn,kẻ ngu
hỏi pháp với người trí, người trí thuyết pháp cho kẻ
ngu, kẻ ngu đốn ngộ tự tâm thì chẳng khác với người
trí vậy.
Thiện tri thức, khi
chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ,
chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi
tự tâm, vậy sao chẳng ở trong tự tâm đốn thấy chơn như
bản tánh? Kinh Phạm Võng nói: Tự tánh vốn
thanh tịnh, nếu nhận được tự tâm, thấy được bản tánh,
tức thành Phật đạo. Kinh Duy Ma Cật nói: Ngay lúc đó
hoát nhiên đốn ngộ, liền được bổn tâm. Thiện tri thức,
ta ở nơi Hoà Thượng Hoằng Nhẫn vừa nghe câu nói liền ngộ,
đốn thấy chơn như bản tánh, cho nên hoằng dương giáo pháp
này, khiến hành giả đốn ngộ Bồ Ðề, mọi người tự
thấy bổn tâm, tự kiến bản tánh, nếu chẳng tự ngộ, phải
tìm người đã khai ngộ pháp tối thượng thừa, chỉ ngay
đường lối CHÁNH PHÁP, vì thiện tri thức có nhân duyên lớn
giáo hoá dẫn dắt, khiến hành giả được KIẾN TÁNH, tất
cả thiện pháp đều do thiện tri thức mà được kiến lập.
Tam thế chư Phật, mười hai bộ Kinh ở trong tự tánh vốn
đã đầy đủ, vì tự ngộ chẳng được, nên phải nhờ thiện
tri thức chỉ ra mới thấy, kẻ tự ngộ thì chẳng phải nhờ
đến người khác. Nếu cố chấp rằng phải
luôn luôn ỷ lại thiện tri thức mới mong được giải thoát
thì không bao giờ được. Tại sao vậy? Vì ở trong tự
tâm sẵn có tri thức tự ngộ, nếu khởi tà kiến mê chấp
vọng tưởng điên đảo, dẫu cho gặp thiện tri thức dạy
bảo cũng chẳng cứu được. Nếu khởi chơn chánh BÁT NHÃ
tham cứu, trong một sát na vọng tưởng đều tiêu, nhận được
tự tánh, đốn siêu Phật địa. Thiện tri thức, dùng trí
huệ chiếu soi, trong ngoài sáng tỏ rõ ràng thì nhận được
bổn tâm. Nếu nhận được bổn tâm tức vốn là giải thoát,
được giải thoát tức là BÁT NHÃ TAM MUỘI,
BÁT NHÃ TAM MUỘI tức là VÔ NIỆM.
Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy
tất cả pháp tâm không nhiễm trước gọi là VÔ
NIỆM, dùng thì khắp nơi, cũng chẳng dính mắc ở khắp
nơi, hễ sạch được bổn tâm, khiến lục thức ra cửa lục
căn, đối với lục trần mà chẳng nhiễm chẳng trước, đi
lại tự do, ứng dụng vô ngại tức là BÁT
NHÃ TAM MUỘI, tự tại giải thoát, gọi là hạnh VÔ NIỆM.
Chứ chẳng phải như người lầm tưởng cho là ẹtrăm điều
chẳng nghĩ, chỉ cho niệm tuyệtế, ấy là pháp trói buộc,
tức là biên kiến. Thiện tri thức, kẻ ngộ pháp VÔ
NIỆM thông đạt vạn pháp, ngộ pháp VÔ
NIỆM thấy được cảnh giới chư Phật, ngộ pháp VÔ
NIỆM được đến địa vị Phật. Thiện tri thức, nếu
người đời sau ngộ được pháp này, đem pháp môn đốn giáo
này với những người đồng một chánh kiến chánh hạnh phát
nguyện cùng tu, như cúng dường Phật mà suốt đời chẳng
thối lui, người ấy nhất định được vào Thánh vị.
Nhưng phải truyền thọ, từ trước
đến nay các Tổ đều mặc truyền tâm ấn, chẳng được
ẩn giấu Chánh Pháp. Nếu chẳng phải đồng một chánh kiến,
chánh hạnh, là người đã ở trong pháp khác thì chẳng được
truyền thọ, vì sợ kẻ ngu chẳng hiểu, lại sanh phỉ báng
pháp môn này, phá hoại truyền thống CHÁNH PHÁP của Cổ Ðức,
làm cho muôn ngàn kiếp sau đoạn dứt Phật chủng, cuối cùng
vô ích.
Thiện tri thức, nay ta có một bài
VÔ TƯỚNG TỤNG, mọi người hãy tự
giữ lấy, không kể xuất gia, tại gia, nên y theo bài tụng
mà tu hành, nếu chẳng tự tu mà chỉ ghi nhớ lời ta cũng
chẳng ích lợi gì. Bài tụng rằng:
-
Thuyết thông cập
tâm thông,
-
Như nhựt xử hư
không,
-
Duy truyền kiến
tánh pháp,
-
Xuất thế phá tà
tông.
-
Pháp tức vô đốn
tiệm,
-
Mê ngộ hữu trì
tật,
-
Chỉ thử kiến tánh
môn,
-
Ngu nhơn bất khả
tất.
-
Thuyết tức tuy vạn
ban,
-
Hợp lý hườn quy
nhất.
-
Phiền não ám trạch
trung,
-
Thường tu sanh huệ
nhựt,
-
Tà lai phiền não
chí.
-
Chánh lai phiền não
trừ,
-
Tà chánh câu bất
dụng,
-
Thanh tịnh chí vô
dư.
-
Bồ đề bổn tự
tánh,
-
Khởi tâm tức thị
vọng,
-
Tịnh tâm tại vọng
trung,
-
Ðản chánh vô tam
chướng,
-
Thế nhơn nhược
tu đạo,
-
Nhất thiết tận
bất phương.
-
Thường kiến tự
kỷ quá,
-
Dữ đạo tất tương
đương.
-
Sắc loại tự hữu
đạo,
-
Các bất tương phương
não,
-
Ly đạo biệt mích
đạo,
-
Chung thân bất kiến
đạo.
-
Ba ba độ nhất sanh,
-
Ðáo đầu hườn
tự áo.
-
Dục đắc kiến
chơn đạo,
-
Hạnh chánh tức
thị đạo.
-
Tự nhược vô đạo
tâm,
-
Ám hành bất kiến
đạo.
-
Nhược chơn tu đạo
nhơn,
-
Bất kiến thế gian
quá,
-
Nhược kiến tha
nhơn phi,
-
Tự phi khước thị
tả,
-
Tha phi ngã bất phi,
-
Ngã phi tự hữu
quá,
-
Ðản tự khước
phi tâm,
-
Ðả trừ phiền
não phá.
-
Tắng ái bất quan
tâm,
-
Trường thân lưỡng
cước ngọa.
-
Dục nghĩ hoá tha
nhơn,
-
Tự tu hữu phương
tiện.
-
Vật linh bỉ hữu
nghi,
-
Tức thị tự tánh
hiện.
-
Phật pháp tại thế
gian,
-
Bất ly thế gian
giác,
-
Ly thế mích bồ
đề,
-
Cáp như cầu thố
giác.
-
Chánh kiến danh xuất
thế,
-
Tà kiến danh thế
gian,
-
Tà chánh tận đả
khước,
-
Bồ đề tánh uyển
nhiên.
-
Thử tụng thị đốn
giáo,
-
Diệc danh đại pháp
thuyền,
-
Mê văn kinh lũy kiếp.
-
Ngộ tắc sát na
gian.
-
Dịch nghiã:
-
Thuyết thông lại
tâm thông (1),
-
Như mặt trời giữa
không,
-
Chỉ truyền pháp
kiến tánh,
-
Hoằng pháp phá tà
tông.
-
Pháp vốn chẳng
đốn tiệm,
-
Mê ngộ có nhanh
chậm,
-
Pháp môn kiến tánh
này,
-
Kẻ ngu chẳng thể
tri.
-
Thuyết tuy muôn ngàn
lối,
-
Ðúng lý chỉ là
một,
-
Nhà phiền não đen
tối,
-
Thường nên sanh
huệ nhựt,
-
Tà khởi phiền não
tới,
-
Chánh đến phiền
não trừ,
-
Tà chánh đều chẳng
chấp,
-
Thanh tịnh đến
cùng tột.
-
Tự tánh vốn bồ
đề,
-
Khởi tâm tức là
vọng,
-
Tịnh tâm ở trong
vọng,
-
Niệm chánh chẳng
tam chướng,
-
Người đời muốn
tu đạo,
-
Tất cả đều chẳng
ngại,
-
Thường tự thấy
lỗi mình,
-
Với đạo tức tương
ưng.
-
Muôn loài tự có
đạo,
-
Mỗi mỗi chẳng
ngại nhau,
-
Ngoài tâm đi tìm
đạo,
-
Suốt đời chẳng
thấy đạo.
-
Bôn ba qua một đời,
-
Sau cùng tự áo não.
-
Muốn được thấy
chơn đạo,
-
Hạnh chánh tức
là đạo,
-
Nếu tự chẳng đạo
tâm,
-
Ðen tối chẳng thấy
đạo.
-
Nếu là người chơn
tu,
-
Chẳng thấy lỗi
thế gian,
-
Nếu thấy lỗi của
người,
-
Trái lại thành tự
quấy.
-
Người quấy ta chẳng
quấy,
-
Thấy quấy thành
tự lỗi.
-
Hễ bỏ tâm chấp
quấy,
-
Phiền não tự tan
rã.
-
Thương ghét chẳng
quan tâm,
-
Duỗi thẳng hai chân
nằm.
-
Muốn hoá độ chúng
sanh, (2)
-
Tự phải có phương
tiện,
-
Khiến họ hết nghi
ngờ,
-
Tức là tự tánh
hiện.
-
Phật pháp tại thế
gian,
-
Chẳng rời thế
gian giác,
-
Lià thế tìm bồ
đề,
-
Cũng như tìm sừng
thỏ.
-
Chánh kiến gọi
xuất thế,
-
Tà kiến gọi thế
gian,
-
Tà chánh đều quét
sạch,
-
Tánh bồ đề rõ
ràng.
-
Tụng này là đốn
giáo,
-
Cũng gọi đại pháp
thuyền.
-
Lúc mê tu nhiều
kiếp,
-
Ngộ chỉ một sát
na.
Sư lại nói:
Nay ta ở chùa Ðại Phạn thuyết pháp đốn giáo này, nguyện
cho pháp giới chúng sanh nghe được pháp này liền kiến tánh
thành Phật.ế Lúc ấy Vi Sử Quân và tất cả quan chức, đạo
tục, nghe sư thuyết pháp đều được tỉnh ngộ, đảnh lễ
tán thán rằng: Lành thay, đâu ngờ xứ Lãnh Nam lại có Phật
ra đời.
GHI CHÚ:
(1) Thuyết
thông lại tâm thông, Như mặt trời giữa không.
Thuyết thông chưa chắc là tâm thông, tâm thông tự nhiên thuyết
cũng thông. Vậy thế nào là tâm thông? Trên phù hợp ý Phật,
dưới khế hợp đương cơ mới được gọi là tâm thông,
khi tâm đã thông rồi mới có thể giống như mặt trời giữa
hư không. Mặt trời giữa không chẳng có nhờ cậy dính mắc
gì cả, nên chiếu soi khắp nơi chẳng thiếu sót. Nếu mặt
trời có nhờ cậy bằng một sợi chỉ buộc treo lên, thì
sợi chỉ ấy sẽ che khuất mặt trời, làm cho sự chiếu soi
của mặt trời có chỗ thiếu sót vậy. Như Giáp Sơn Hoà Thượng
ra hoằng pháp, Tăng hỏi: Thế nào là Pháp thân? Giáp Sơn đáp:
Pháp thân chẳng tướng. Hỏi: Thế nào là Pháp Nhãn? Ðáp:
Pháp Nhãn chẳng bệnh. Khi đó có Ðạo Ngô Thiền Sư nghe xong
liền cười, Giáp Sơn xuống toà hỏi Ðạo Ngô rằng: Giáp
Sơn vừa trả lời Tăng này, chắc có chỗ không đúng khiến
Thượng Tọa bật cười, xin Thượng Tọa từ bi chỉ dạy
cho. Ðạo Ngô nói: Hoà Thượng ra hoằng pháp chưa có Thầy.
Giáp Sơn nói: Nay xin lễ Thượng Tọa làm Thầy. Ðạo Ngô
nói: Thầy của Hoà Thượng là Huê Ðình Thuyền Tử. Giáp
Sơn đến Huê Ðình gặp Thuyền Tử được khai ngộ, trở
về nơi cũ hoằng pháp. Ðạo Ngô lại sai một vị Tăng đến
hỏi: Thế nào là Pháp Thân? Giáp Sơn vẫn đáp rằng: Pháp
Thân chẳng tướng. Hỏi: Thế nào là Pháp Nhãn? Ðáp: Pháp
Nhãn chẳng bệnh. Tăng lập lại với Ðạo Ngô. Ðạo Ngô
nói: Ông ấy nay đã triệt ngộ. Lời Giáp Sơn đáp Tăng trước,
Ðạo Ngô chê cười cho là thuyết thông tâm chẳng thông; lời
đáp Tăng sau cũng giống như lời đáp trước mà Ðạo Ngô
lại tán thán, cho là tâm thông thuyết thông. Chỗ này chớ
nên dùng ý thức để phân biệt; nếu dùng ý thức tìm hiểu
thì chỉ có thể thuyết thông, chẳng thể tâm thông. Muốn
tâm thông cần phải tham ngộ mới được.
(2)Muốn
hoá độ chúng sanh, Tự phải có
phương
tiện, Khiến họ hết nghi ngờ, Tức
là tự tánh hiện. Hai chữ phương
tiện này chẳng phải giống như những người lạm dụng để
cầu thêm danh lợi, hoặc che giấu tội lỗi; cũng chẳng phải
dùng để độ người sơ cơ. Phương tiện ở đây là xuất
phát từ Bát Nhã, phải người kiến tánh mới có Phương tiện
này, mà dùng để khiến cho đương cơ từ NGHI
đến NGỘ. Từ NGHI
đến NGỘ: tùy theo người, từ một
sát na cho đến năm, mười năm không chừng, cũng như: Ngài
Huệ Minh vừa nghe, ngộ liền, Ngài Giáp Sơn, trong vài phút
được ngộ, Ngài Pháp Nhãn, một tháng được ngộ, Tổ Hoài
Nhượng, tám năm mới ngộ. Không phải mau ngộ là cao, chậm
ngộ là thấp. Người chứng ngộ mới đoạn dứt được
NGHI
CĂN (Nguồn gốc nghi ngờ đối với
vạn pháp.)Ðoạn dứt NGHI CĂN tức
là KIẾN TÁNH. Nên nói: Tức là tự
tánh hiện (kiến tánh).