|
cLục
Tổ Huệ Năng
KINH
PHÁP BẢO ÐÀN
Tỳ Kheo
Thích Duy Lực Dịch và Lược Gỉai
Từ Ân
Thiền Ðường, Santa Ana Xuất Bản1992
Phẩm
Ðịnh Huệ Thứ Tư
Sư
dạy chúng rằng: Thiện tri thức, pháp môn này lấy ÐỊNH
Huệ
làm gốc. Các ngươi chớ lầm rằng ÐỊNH
với
Huệ có khác;
ÐỊNH
Huệ
vốn nhất thể, chẳng phải
là hai. Ðịnh là thể của Huệ, Huệ là dụng của Ðịnh,
ngay trong lúc huệ có định, ngay trong lúc định có huệ, thấu
được nghiã này tức là định huệ đồng nhau. Các ngươi
học đạo chớ cho là trước phát định sau phát huệ, hay
trước huệ sau định có khác, kiến giải như vậy thành ra
pháp có nhị tướng. Miệng tuy nói lành mà trong tâm chẳng
lành, tuy có định huệ mà định huệ chẳng đồng nhau. Nếu
tâm miệng đều lành, trong ngoài nhất thể, tức là định
huệ đồng nhau.
Tự ngộ tu hành, chẳng
nên tranh biện, nếu tranh giành trước sau thì đồng với kẻ
mê, chẳng dứt hơn thua, lại thêm ngã chấp, chẳng lià được
tứ tướng (nhơn, ngã, chúng sanh, thọ
giả).
Thiện tri thức, ÐỊNH
Huệ
ví như cái gì? Như đèn và ánh sáng: có đèn thì sáng, không
đèn thì tối; đèn là thể của sáng, sáng là dụng của đèn,
tên tuy có hai, thể vốn là một, pháp ÐỊNH
Huệ cũng vậy. Sư dạy chúng rằng:
Thiện
tri thức, nói nhất hạnh tam muội, là ở tất cả mọi nơi
đi đứng nằm ngồi thường hành trực tâm. Kinh Duy Ma Cật
nói: Trực tâm là đạo tràng, trực tâm
là tịnh độ. Chớ nên tâm hạnh quanh co, miệng thì nói trực,
nói nhất hạnh tam muội mà chẳng hành trực tâm. Người hành
trực tâm, đối với tất cả pháp chẳng nên chấp trước.
Kẻ mê chấp pháp tướng, chấp nhất hạnh tam muội, cứ nói
ngồi yên chẳng động, vọng chẳng khởi nơi tâm tức là
nhất hạnh tam muội; kiến giải như vậy đồng với vô tình,
đó là nhân duyên chướng đạo.
Sư dạy chúng
rằng: Thiện tri thức, đạo cần phải linh động, chớ
nên làm cho ngăn trệ. Tâm chẳng trụ pháp thì đạo được
linh động, tâm nếu trụ pháp, gọi là tự trói. Nếu nói
ngồi yên chẳng động là đúng, chỉ như Xá Lợi Phất tĩnh
tọa trong rừng lại bị Duy Ma Cật quở. Thiện tri thức, lại
có kẻ dạy người lấy ngồi làm công phu, khán tâm quán tịnh,
chẳng khởi chẳng động, kẻ mê chẳng hiểu, bèn chấp ngồi
thành bệnh, nhiều người truyền dạy nhau như vậy, thật
là lầm lỗi lớn!
Sư dạy chúng
rằng: Thiện tri thức, CHÁNH GIÁO
vốn chẳng đốn tiệm, tánh người tự có lợi độn, kẻ
mê tiệm tu, người ngộ đốn khế. Ðốn tiệm chỉ là giả
danh kiến lập mà thôi, nếu tự nhận được bổn tâm, tự
thấy được bổn tánh thì chẳng sai biệt vậy. Thiện tri
thức, pháp môn này xưa nay lập VÔ
Niệm
làm tông, VÔ TƯỚNG làm thể, VÔ Trụ làm
gốc.VÔ TƯỚNG là ở nơi tướng mà
lià tướng.VÔ
Niệm là
ở nơi niệm mà chẳng niệm.
VÔ Trụ
là bản tánh của con người đối với tất cả sự vật,
thiện ác, tốt xấu, kẻ thù, người thân trên thế gian, cho
đến lúc bị người nói xấu, khi dễ, đều cho là không,
chẳng nghĩ trả thù, niệm niệm chẳng nghĩ ngoại cảnh.
Nếu niệm trước, niệm sau và đang niệm, niệm niệm theo
cảnh chẳng dứt, gọi là trói buộc, đối với tất cả pháp
niệm niệm chẳng trụ tức là chẳng trói buộc vậy, đây
là lấy VÔ Trụ làm gốc.
Thiện tri thức, ngoài lià tất cả
tướng gọi là VÔ TƯỚNG, lià tướng
thì pháp thể thanh tịnh, đây là lấy VÔ
TƯỚNG làm thể. Thiện tri thức, đối với mọi cảnh
tâm chẳng nhiễm, trong niệm thường tự lià mọi cảnh, chẳng
ở trên cảnh sanh tâm gọi là VÔ
Niệm
Nếu là trăm điều chẳng nghĩ, làm cho niệm tuyệt, một niệm
tuyệt liền chết, thọ sanh nơi khác, ấy là cái lỗi lầm
lớn, người học đạo nên xét kỹ! Nếu chẳng hiểu ý Chánh
Pháp, tự lầm còn đỡ, lại khuyên người khác học theo,
tự mê chẳng thấy, lại thêm tội phỉ báng Kinh Phật, vì
vậy nên lập VÔ Niệm làm
tông.
Thiện tri thức, tại sao lập
VÔ
Niệm làm tông? Chỉ vì kẻ mê miệng nói kiến tánh
mà khởi niệm trên cảnh, nơi niệm liền lọt vào tà kiến,
tất cả trần lao vọng tưởng theo đó mà sanh. Tự tánh vốn
chẳng một pháp có thể đắc, nếu có sở đắc, vọng nói
tội phước, tức là trần lao tà kiến, nên pháp môn này lập
VÔ Niệm làm tông.
Thiện tri thức, VÔ là Vô việc
gì? Niệm là Niệm vật gì? VÔ là VÔ NHỊ TƯỚNG (Pháp
đối đãi), VÔ
tất cả tâm
trần lao. Niệm là Niệm CHƠN NHƯ BẢN TÁNH. CHƠN NHƯ là thể
của Niệm , Niệm là dụng của CHƠN NHƯ. Chơn như tự tánh
khởi niệm, chẳng do nhãn nhĩ tỷ thiệt năng niệm, chơn như
có tánh cho nên khởi niệm, nếu chơn như không tánh thì nhãn
nhĩ sắc thanh ngay đó liền hoại. Thiện tri thức, chơn như
tự tánh khởi niệm, lục căn dù có kiến văn giác tri mà
chẳng nhiễm muôn cảnh, chơn tánh thường tự tại. Nên Kinh
nói: Khéo phân biệt được các pháp tướng mà nơi đệ nhất
nghiã thường chẳng động là vậy.
|