|
.
SỰ CỐNG
HIẾN CỦA ĐẠO PHẬT
CHO CUỘC ĐỜI
Truyền
Đan
|
|
PHỤ
LỤC
(viết
sau)
ÍT
ĐIỀU NÊN BIẾT VỀ TỔ SƯ THIỀN
Tiếp
theo hai bài của Nguyễn Bình và Phan Tấn Hải về "Công án"
đăng trên Talawas tháng 3-2004 mà tới gần đây tôi mới được
đọc, tôi mạo muội đóng góp một số ý kiến rút từ những
hiểu biết sau nhiều chục năm tham học và thực hành đạo
Phật. Nếu có những điều không hợp với ý kiến của
Chư Vị đã phát biểu trước về Thiền Tông thì chỉ nhằm
làm sáng tỏ một số nét cốt yếu của môn Tổ Sư Thiền
như tôi đã tham học từ những ngữ lục của chư Tổ Thiền
chân truyền và thực hành từ năm 1980 dưới sự chỉ dạy
của Ngài Thích Duy Lực (đã tịch đầu năm 2000), chớ không
dụng ý bài bác. Tôi xin chân thành sám hối về những sai
lầm có thể có và xin được chỉ dạy.
-
So sánh với những tôn giáo lớn của nhân loại, đạo Phật
đã "không giống ai", mà trong các tông phái, các pháp tu của
chính Phật Giáo, môn tu tập công án cũng khác lạ, khó
được chấp nhận và thường bị gán cho những từ như "kỳ
cục, không hợp lý, nguy hiểm" và từ đó đề tài "thiền
công án" bị khoác lên một vẻ kì bí, được đưa ra mổ
xẻ, giải thích, cho đến phiếm luận, đùa dỡn trên bàn
nhậu. Phải thẳng thắn công nhận rằng những thái độ này
có thể hợp lý, chẳng lẽ chúng ta cứ phải chấp nhận nhửng
điều có vẻ ngang ngược với lý lẽ thông thường sao? có
ai điên cho rằng phải nuốt được cục xương?, làm sao có
thể nhốt một con chó trong bốn vách tường cao rồi nghĩ
rằng nó phải tự thoát ra?
- Vậy
mà điều vô lý đó, nếu được nhìn từ một điểm nhất
định, lại là tự nhiên, bình thường. Mà dàu lý luận thế
nào đi nữa, sự kiện từ hơn mười thế kỷ nay đã có nhiều
ngàn người tại Trung-quốc, Đại-hàn, Nhật-bản và Việt-nam
do thực hành pháp tham công án hay thoại đầu mà được chứng
ngộ, có ghi chép trong lịch sử Thiền Tông, vẫn là điều
không ai chối bỏ, học giả Tây phương cũng công nhận. Nhưng
nếu không nghe lọt tai, không tin được, hoặc giả không học
đến nơi và khônh thực hành đúng để khám phá ra công năng
thù thắng của pháp tu này mà buông lời phê phán, thì xin
hãy để yên cho công án cứ là một cục đá đen sì, cứng
ngắc, lạnh lùng, mù tịt ở một chỗ nào đó, để nó tiếp
tục làm ích lợi cho người có duyên. Cũng xin chớ cắt riêng
nó ra, để lên bàn mổ, đem đèn pin, đèn pha của thông minh,
luận lý, chiếu rọi để khảo sát, phân tích, tìm hiểu rồi
phát biểu này khác; làm vậy sẽ không đi tới đâu, biết
được gì cũng đều sai lầm mà còn phá hoại công dụng trị
bệnh của nó.
- Trường
hợp các Thiền Sư có những lời nói và hành động mà chúng
ta thấy là kỳ quặc cũng có lý do riêng. Không phải với
bất kỳ người nào ông Lâm Tế cũng nắm lấy cổ người
ta mà hét: "Nói đi! Nói đi!" và lúc nào ông Đức Sơn cũng
vung gậy đòi đánh. Những thủ đoạn này chỉ xảy khi cần
thiết, áp dụng cho học nhân đã tới "thời tiết", công phu
của họ đã "chín mùi", để giúp họ được cái "lộn ngược".
Một số Thiền Sư khác cũng có thủ đoạn đặc biệt của
họ để tiếp dẫn hậu học. Đấy là những phương tiện
đột ngột đẩy người ta vào chỗ hụt hẫng không còn suy
nghĩ, từ chỗ hụt chân chới với này nếu đủ nhân duyên
sẽ tự bật ra con đường sống. - Ngoài ra, những người
đã ngộ đạo đều sống trong một thế giới riêng của họ,
ta không hiểu được. Họ thấy biết khác hẳn người thường,
gột hết các chấp trước, dàu cái xe vẫn là cái xe, tiếng
ngựa hí vẫn là tiếng ngựa hí... và nhất là họ không nói
nhiều, không giải thích có đầu đuôi dài dòng, không diễn
tả theo cách lối của chúng ta - Tại Canada tôi có gặp
một vị giáo sư đại học ở Việt Nam xưa, cụ đã già nhiều
nhưng còn tương đối cứng cáp, hàng ngày cụ vào sâu trong
một công viên rậm rạp ngồi tham thiền dưới một gốc cây
liên tiếp suốt 4, 5 tiếng đồng hồ. Cụ nói với tôi: "Mấy
ông Tàu bày ra cách ăn nói cử chỉ kỳ cục, họ chỉ là
những anh bịp. Thật ra thiền dễ ợt, có gì đâu, mà họ
nói như là khó khăn lắm." Rồi cụ cho tôi coi một cuốn sách
Zen do một tác giả Mỹ viết, nội dung dạy ngồi tịch lặng,
từ đó sẽ phát sinh những điều hay lạ, lợi ích. -
Không những Kinh Lăng Nghiêm Phật Thích Ca baì bác điều này
mà quan điểm của Thiền Sư Trung hoa cũng cho là cảnh giới
đó còn trong sanh diệt, đối với giải thoát cách rất xa.
-
Công án, hay thoại đầu (một hình thức đơn giản của công
án) là phương tiện tu hành của Tổ Sư Thiền, cũng gọi là
Thiền Tông, Thiền Đốn Ngộ, có nơi còn gọi Như Lai Tối
Thượng Thừa Thiền, mục đích trực tiếp, mau chóng thành
đạt giác ngộ, được tuyệt đối tự do tự tại, ra khỏi
tất cả khổ. Tự bản thân, công án không có một thần lực
linh thiêng nào, nó không phải là một thách đố để nghiền
ngẫm tìm hiểu, giải thích ý nghĩa, nó càng không lợi ích
nếu chỉ mê tín thì thầm, tưởng tượng hão huyền hay lảm
nhảm đọc đi đọc lại như máy. Còn như nói lên, viết ra
để "giật le" thì hết ý ! . Như vậy, công án chỉ là phương
tiện tu tập của người thực hành Tổ Sư Thiền, người
tu giải thoát, nếu không phải là người cần dùng đến,
chỉ tò mò muốn biết, muốn lý giải thỉ chỉ mất công,
không lợi ích lại sinh bực bội, vì công án tự nó chẳng
có nghĩa lý nào để minh giải, và thoại đầu (=hình thức
đơn giản của công án, như "Chưa có trời đất ta là cái
gì?") cũng chỉ là một câu hỏi vớ vẩn theo nhận xét thông
thường.
- Cũng
xin đừng đòi hỏi tất cả các tu sĩ Phật giáo phải biết
và giảng dạy công án. Hiện nay, có lẽ chỉ có khoảng 60%
tu sĩ trong nước và khoảng 30% tu sĩ hải ngoại là người
thực tu, trong đó số người tu Tổ Sư Thiền tham công án
thoại đầu chỉ có rất ít. Tôi thiết nghĩ được tỉ lệ
này cũng là đáng mừng rồi, vì con người muôn đời vẫn
là con người với tất cả những tập khí có từ muôn kiếp
trước và mỗi ngày còn chất nặng thêm, nếu chưa kiến tánh
và qua nhiều năm bảo nhiệm thì dàu có mang danh gì, tướng
gì cũng vẫn giữ tánh phàm, riêng người chân tu ngày ngày
trau dồi đạo đức mới đáng tôn kính. Các chùa cũng vậy,
đa số chùa hiện nay chỉ chú trọng việc cúng bái, cầu an,
cầu siêu, làm đám..., nội dung khóa lễ chủ nhật đại loại
giống nhau, chớ có mấy chùa chuyên tu một pháp. Anh Phan tấn
Hải năm 1980 đến chùa Từ Ân Chợ lớn mua sách, chùa này
cũng chuyên cầu cúng, đặc biệt là chùa người Hoa thì trong
buổi lễ lại rất ồn ào vì trống đánh um sùm. Theo truyền
thống từ xưa, hầu hết các chùa đều tự nhận là "Lâm
Tế chánh tông", có khi còn treo bảng hiệu "Thiền Tự" mà
thực sự không có hành thiền. Tình hình này cũng có tại
Trung-Hoa, Nhật-Bản, Đại-Hàn. Năm 1980, Hòa Thượng Thích
Duy Lực được Vị trụ trì cho ở nhờ một căn trên lầu,
mỗi tháng được tổ chức tham Tổ Sư Thiền suốt một tuần
tại chánh điện trên lầu, chánh điện từng dưới dành cho
người Hoa cầu cúng. Cuốn anh thỉnh "Trung Phong Pháp Ngữ"
là một quyển sách rất quí, rất ích lợi cho người tham
thiền. Trong đó Tổ khích lệ mạnh mẽ người tu, xác định
rõ việc lớn sanh tử và nhắc nhở phải cố gắng giải quyết
sớm, không được lơi lỏng. Sách này văn nghĩa rõ ràng, ý
tưởng không mấy cầu kỳ, tương đối dễ hiểu, do thày
Định Huệ, một đệ tử lớn của Ngài Thanh Từ Việt
dịch, sau khi dời qua thọ pháp Ngài Duy Lực.
Vào
thời gian đó, tất cả các kinh sách do Hòa Thượng Duy Lực
phát hành cho đệ tử đọc đều tự "in chui" bằng máy ronéo
trên giấy xấu. Khoảng một năm sau vì sĩ số từ các nơi,
các tỉnh đổ về dự các thiền thất quá nhiều, tạo nên
cảnh đông đúc náo nhiệt, đến tai nhà chức trách cũng như
giáo hội, họ bất bình và can thiệp bắt chấm dứt. Thày
bị công an quản giữ trong phòng nhiều tháng, không cho các
đệ tử vào thăm, một số họ rủ nhau đến một chùa nhỏ
ở xa "tu chui", được thời gian rồi bị phát giác lại bị
xua đuổi, cứ như vậy kéo tới 6 chùa, nhiều thời gian không
có chùa nào dám chứa nên mỗi người tự xé lẻ tìm chỗ
tu riêng tới năm 1987 mới được tạm yên ở chùa PhápThành.
May mắn không ai bị bắt giữ vì nhân viên phường, quận
tới coi, ở lại nửa ngày quan sát, cũng chỉ thấy người
ta ngồi im, rồi đi vòng vòng trong chánh điện, rồi ngồi,
rồi đi, hoàn toàn im lặng, không hành động gì khác. Tới
năm 1989, như các đệ tử đã hiểu và biết rõ cách thực
hành, Hòa Thượng xuất cảnh qua Hoa Kỳ mở thiền đường
và đi diễn giảng tại một số quốc gia, tới năm 1992 tình
hình chung tại Việt Nam tương đối dễ dàng, Ngài trở lại
Saigon chánh thức xin phép mở lại thiền thất, và từ đó
mỗi năm Ngài ở Mỹ 6 tháng và trở về Việt Nam trong 6 tháng
truyền dạy, số người tham dự thiền thất tại Từ Ân Saigon
lại đông đảo như xưa (khoảng 3, 4 trăm người mỗi thất,
có những người từ miền Trung vào dự) nhưng cũng chỉ
được tới giữa năm 1995 mà thôi. Sau đó, Ngài đi hoằng
hóa Thiền Tông và tổ chức thiền thất tại một số tỉnh
ở Miền Nam. Đầu năm 2000 Ngài thị tịch tại Hoa-Kỳ.
Ngày nay chư tăng đệ tử của Ngài đã thành lập một số
thiền đường tại Saigon và một số tỉnh, việc tu tập Tổ
Sư Thiền tuy không rầm rộ như xưa nhưng cũng đã ổn định.
Tại Việt Nam, pháp môn Tổ Sư Thiền tham công án, thoại đầu,
không còn được nghe nói đến từ sau Tổ Liễu Quán
thị tịch năm 1748, nay đang sống lại. Đệ tử Ngài Duy-Lực
tuy chưa có người chứng ngộ nhưng với mấy chục người
đã được hướng dẫn đầy đủ, thông hiểu pháp và đang
chuyên cần hành trì chắc chắn là cái nhân tốt cho tương
lai Phật Giáo nước nhà.
-
Có Vị viết khẳng định rằng "Thiền công án là thiền quán".
Xin thưa thày rằng công án không bao giờ là một đối tượng
để quán sát. Vâng, đa số các pháp thiền của đạo Phật
đều là thiền quán, quán hơi thở, quán một hình ảnh, quán
tâm hoặc quán một ý tưởng, nhưng không có Thiền Tông trong
đó. Thiền Tông không bao giờ là thiền quán. Thiền Tông đứng
một mình trong Phật giáo cũng như Phật giáo đứng một mình
trong các tôn giáo của nhân loại. Dàu chư Vị đã làu thông
kinh điển, đã hành trì, kinh nghiệm trong một tông khác của
Đạo Phật mà chưa từng tham học pháp này đầy đủ và thực
hành đúng cách Tổ Sư Thiền với Thày chân truyền, đúng
theo ngữ lục của chư Tổ Thiền xưa, chỉ nhận định theo
suy đoán và tưởng tượng trên những kiến giải của mình,
đều rất dễ phát biểu sai lầm về Thiền Tông. Vì sao? vì
tham công án, thoại đầu không giống với cách thức hành
trì pháp thiền của bất cứ tông phái nào khác. Giáo, Thiền,
Tịnh, Mật đều có tông chỉ riêng, có phương pháp tu riêng;
cũng không thể pha trộn lẫn nhau, không thể thực hành mỗi
pháp một chút. Ngoài ngộ nhận kể trên còn có những ngộ
nhận khác về Thiền Tông.
- Vậy
công án là gì? - Xin thưa rằng: người hành giả tham công
án, tham thoại đầu
để
phát khởi nghi tình, và chỉ nhắm một mục đích duy nhất
đó thôi, không có chủ ý nào khác. Càng tham liên tiếp nghi
tình càng lớn mạnh, tới lúc kết thành khối, nặng tới
cực độ (đầu sào trăm trượng), ngay giây phút đó, nếu
gặp duyên đột khởi, tâm trí sụp đổ, tự nhiên phát ngộ.
Tổ Sư ví công án, thoại đầu như cây gậy, cây gậy giúp
người đi, đi là nghi tình, ngộ là đến đích.
- Đại
cương là vậy, tuy nhiên thực hành bắt buộc phải có Thày
kinh nghiệm hưóng dẫn từng bước để tránh sai lầm và nguy
hiểm. Thời xưa, chỉ Thiền Sư kiến tánh mới được
nhận học trò; chưa kiến tánh, không ai dám tự nhận là Thiền
Sư. Thời nay khác, có cuốn sách của một cư sĩ người Tàu
giải một số công án và dạy tham công án chữ KHÔNG, đại
khái nói rằng: Cứ trên chữ KHÔNG mà tham, KHÔNG là không
cái gì, không làm sao? thế nào? ... KHÔNG! KHÔNG!
KHÔNG! ... cứ như lấy đầu đập cho vỡ cái KHÔNG mà tìm,
coi chữ KHÔNG như một cái gì rất linh diệu, kì bí, hàm chứa
một thần phù, cứ thế mà đẩy mạnh tới ... Thực hành
kiểu này miết làm sao không đau đầu, thổ huyết ? -
Nếu có đọc Đại Huệ Ngữ Lục và Trung Phong Pháp Ngữ thì
mới biết rằng tham chữ KHÔNG là phải thắc mắc tự hỏi
"Tại sao Triệu Châu nói KHÔNG ?" - Vì Kinh đã nói "Tất
cả chúng sanh đều có Phật tánh" và sau đó có người cũng
hỏi "Con chó có Phật tánh không?" thì Triệu Châu trả lời
CÓ, vậy thì lần trước "Tại sao Triệu Châu nói KHÔNG?"
- Thông
thường tu Tổ Sư Thiền, tham công án / thoại đầu, phải
thực hành tích cực trong thời gian dài, có khi rất dài, mới
tới trạng thái "chín mùi" (nhân duyên thời tiết), tại điểm
này thường phải nhờ một tác động từ ngoài, có khi do
thày biết mà "nhổ đinh tháo chốt" giúp, có khi nhờ một
cảm quan (cái thấy, nghe, hay biết ...) bất ngờ đập vào
ý thức, mới bật ra hiện tượng Ngộ. Giây khắc biến
chuyển đó thực sự diễn ra rất rất mau chóng, nên Tổ Sư
mới nói "Hốt nhiên Đại ngộ", đúng như "người ngủ mê
thức tỉnh" ( Ngài Duy Lực thường nói). Sự kiện này đã
xảy ra cho nhiều ngàn người trong Thiền Tông, không thể là
chuyện bịa đặt, người bình thường , người tu theo pháp
môn khác, khó có thể tin hiểu, chấp nhận.
- Tham
công án, thoại đầu, không cho tìm hiểu, không cho giải thích.
Phải ở chỗ không biết, thắc mắc, mịt mù mà tham, nếu
biết bất cứ cái gì bèn là hết nghi, hết nghi thì không
thể đến thoại đầu, không thể ngộ, mà cũng không cho đổi
công án hay câu thoại, ngoại trừ trường hợp đặc biệt.
Nghi tình là sanh mạng của người hành giả, phải cố gắng
giữ cho liên tục, Hòa Thượng Duy Lực dạy: "Công phu phải
miên mật, liên tiếp, không một kẽ hở, nếu có kẽ hở
thì lập tức sanh vọng tưởng". Trong cuốn Thiền Luận, Thiền
Sư D.T.Suzuki cũng có đoạn nhấn mạnh nghi tình liên tục.
Nhưng hiện nay việc tu thiền tại Nhật đã thay đổi, nhiều
người tu thiền theo phái Lâm Tế (Rinzai) cố gắng giải
thích công án, người nào càng giải được nhiều công án
là càng giỏi, có vị giải thích được 500, 600 công án. Một
số người Tây phương cũng y theo thiền Nhật Bổn tham cứu
viết sách để truyền bá lại. Người Đại Hàn, người Nhật
Bản, người Việt Nam vốn cùng học thiền Trung Quốc, nhưng
người Đại Hàn và người Việt Nam không hề đổi cách thực
hành như người Nhật.
- Đành
rằng mọi sự vật trên thế gian đều phải tiến hóa, phải
đổi thay canh cải, nếu không muốn bị đào thải. Nhưng điều
này chỉ đúng với thế giới tư tưỏng và thế giới vật
lý của thế gian, không thể áp dụng cho Phật Pháp vì Phật
Pháp siêu việt thế gian. Có những tôn giáo khác đã nhiều
lần phải sửa đổi giáo lý cho phù hợp với tiến hóa của
xã hội và nhất là theo kịp khoa học, nhưng đạo của Phật,
nói rõ là cái cảnh giới thánh trí tự chứng của Phật,
mãi mãi cứ vẫn là cái gì ở phía trước chúng ta rất rất
xa, ở trước cả khoa học nhiều, ta không thể bằng những
kiến giải mà với tới, nắm bắt được, vậy cái đạo
đó làm sao có thể lùi sau con người, trở thành lỗi thời,
cần phải sửa đổi? Tại đây, xin trích dẫn lời của Albert
Einstein : "If there is any religion that would cope with modern scientific
needs it must be buddhism. Buddhism requires no revision to keep it up
to date with recent scientific findings. Buddhism needs no surrender it
views to science because it embraces science as well as goes beyond science."
- Có Vị tạm dịch: "Nếu có một tôn giáo nào đương
đầu với khoa học hiện đại thì đó là Phật Giáo. Phật
Giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật
hoá với những khám phá mới của khoa học. Phật Giáo không
cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo
khoa học, vì Phật Giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt
qua khoa học." (Chép lại từ mạng điện toán). Điều
này làm tôi nhớ lại một bài viết của thày Thích Nhất
Chân đăng trên tập san Quan Âm ở Montréal cách đây khoảng
10 năm. Đại ý thày cho rằng Thiền Tông nay đã lỗi thời
rồi, tựa như một xác chết khô vô dụng và ta cần loại
bỏ nó để thay thế bằng một cái gì mới mẻ, thích hợp
với trào lưu hiện đại. Thật hết phê bình. Hiện nay thày
vẫn luôn luôn có bài đăng trên mạng.
- Phương
pháp tham công án, thoại đầu tuy mới xuất hiện khoảng thế
kỷ thứ 10, nhưng nó là sáng tạo của các Tổ Sư đã triệt
ngộ, các bậc Thánh, những vị đã thể nhập thế giới của
Phật. Trước kia, tuy chưa có công án, bậc Thầy đã dùng
những thủ đoạn đặc biệt như đánh, hét ... kể trên cho
đệ tử tự nhiên phát nghi. Đến nay lối tu tập công án,
thoại đầu đã được thực hành suốt 10 thế kỷ, đã giúp
cho nhiều ngàn người giác ngộ, ra khỏi sanh tử luân hồi.
Đây thật là một "thiện sảo phương tiện", khó tin khó nhận
vì không qua kinh giáo như thường lệ, là lối tắt thẳng
tới tòa Phật, chư Tổ triệt chứng có cái thấy biết như
Phật, không khác. Truớc đó, chỉ những người thượng đại
căn cơ như Lục Tổ Huệ Năng hoặc học giả kiến văn quảng
bác như Nhị Tổ Huệ Khả mới dám lần tới cửa nhà thiền,
về sau, nhờ công án, thoại đầu mà một số lớn người
bình dân đã thành công trong đạo Phật, trong đó có một
ông già vô học ngồi đập đá đã kiến tánh nhờ tham thoại
đầu.
- Trong
lịch sử Thiền Tông, một hành giả tham thiền khi tự cho
rằng đã ngộ, nếu không có thày ở bên thì phải tìm đến
một vị thày đã triệt ngộ để xin khảo sát và ấn chứng
là đã thực ngộ. Đây là điều bắt buộc, không thể tự
mình nhận là đã ngộ. Thiền Sư Vĩnh-Gia Huyền-Giác, tác
giả Chứng Đạo Ca, ở trong trường hợp này. Một số
hành giả tuy đã rất nỗ lực công phu, đã được cảnh giới
cao siêu nhưng, đến gặp thày lại không được ấn chứng,
thày nói "chưa được", hoặc "còn thiếu", những người này
phải tiếp tục tham nữa. Như vậy, căn cứ theo hành trạng
của người xưa đã kiến tánh nhờ nghi tình, tôi không dám
chắc trình độ giác ngộ của những Thiền Sư Nhật sau này,
kiến tánh nhờ giải thích được nhiều công án, là đã thực
tới chỗ cứu cánh.
- Trong
Thiền Luận, Đại sư Suzuki cũng cho biết hồi xưa đã có
nhiều người tham thiền hoài mà không có nghi bèn quay sang
một trong ba đường tẻ là: đi tìm ý nghĩa sâu xa của công
án (giải thích công án), hoặc ngồi quán tâm tịch lặng,
trống rỗng (có thể đây là khởi nguyên của "Thiền Mặc
Chiếu"), hoặc trở lại niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà, nếu
vị đó vốn tu theo Tịnh-Độ trước khi qua Tổ Sư Thiền.
- Như
nói trên, điểm cốt yếu khi tham công án, thoại đầu là
cứ ở chỗ không biết mà hỏi, mà thắc mắc, muốn biết
mà không biết được. Cứ dấn sâu vào chỗ không biết mịt
mù đen tối đó mà công phu, thì nghi tình sẽ càng nặng, mới
có cơ kiến tánh. Trong lúc thực hành không được để tâm
bị sao lãng bởi bất cứ điều gì, dàu là lời Phật, lời
Tổ, cũng không cầu kiến tánh, nhất là không chú ý đến
hiện tượng lạ xảy ra (bay lên cao, mây toả ngút quanh người,
Phật hiện xoa đầu...). Người xưa từ cả ngàn năm nay rồi
cứ theo đó thực hành và đa số thành tựu đạo quả.
- Nhưng
nay có Vị, trong một cuốn sách dạy thiền xuất bản khoảng
hơn ba chục năm trước, lại định nghĩa "Công án là thắp
sáng hiện hữu", điều này trái với sự thật, vì tham công
án khởi nghi tình là đi sâu vào chỗ tăm tối mịt mù, không
biết. Còn "Thắp sáng hiện hữu" như tôi hiểu là phát huy
ý thức phân biệt để nhận biết rõ ràng sự vật trước
mắt. Vậy tham công án và "thắp sáng hiện hữu" là sai cách
nhau hẳn 180 độ. Chưa nói rằng cái "ý thức phân biệt để
thắp sáng hiện hữu" đó chính là vọng tâm. - Thày thực
sự là một người có tài viết văn cũng như sử dụng ngôn
từ. Thày đã sáng tạo ra những cụm từ đặc sắc, hoa mỹ,
hấp dẫn, trí thức, để diễn đạt ý tưởng, như "thắp
sáng hiện hữu", "đạo Phật đi vào cuộc đời" ... những
cụm từ có dáng vẻ tiến bộ, thời trang làm nhiều người
ưa thích, nhưng về thiền thì rất có thể thày chưa bao giờ
thực tham công án đúng cách.
- Cũng
có Vị đạo đức rất tôn kính, ngài đã đọc, đã Việt
dịch nhiều sách Thiền Tông Trung-quốc, trong đó có bộ Truyền
Đăng Lục kể lại hành trạng của số lớnTổ Thiền Trung-hoa,
ngài nói lại những lời của chư Tổ nhưng lại chê bai, công
kích cái hành của chư Tổ (tham công án, thoại đầu), đây
hẳn có lý do riêng. Trong sáng tác phẩm "Yếu Chỉ Thiền Tông"
in lần đầu khoảng năm 1980-1981, ngài nhận định về cách
tham của Tổ Sư Thiền là: "cốt yếu dùng câu thoại đầu
để đập chết con khỉ vọng tưởng". Cho tới bây giờ, hơn
20 năm sau, ngài vẫn chủ trương như vậy. Mà cũng không riêng
ngài cho như thế còn có nhiều đạo nhân khả kính khác cũng
nói thế. Các ngài đều là những bậc đạo cao đức trọng,
tăng tục đệ tử rất tôn kính, nhưng các ngài không phải
là người thực hành Thiền Tông chân truyền và không biết
rõ tác dụng của tham công án thoại đầu nên đã phát biểu
sai lệch về công án, thoại đầu. Đây là một chuyên môn,
cũng như mọi chuyên môn khác, nếu không học theo pháp chân
truyền, không được thày chuyên môn chỉ dẫn, chưa từng
thực hành đúng cách, thì không thể biết rõ, không thể đọc
sách rồi tưởng tưọng, suy nghĩ mà phê phán đúng được.
Sự kiện các ngài khách quan nhận định thiếu sót như trên
cũng tự nhiên, không ác ý. Nhưng cũng có vị đã tập tham
thử không thầy hướng dẫn, không đúng cách Tổ Sư truyền
dạy, tham mãi đau đầu, không phát được nghi tình nên nhiều
lần công khai chê báng, cảnh cáo là ai hành pháp này sẽ điên
khùng, dễ bị tẩu hỏa nhập ma, làm cho người khác nghe mà
sợ hãi, xa lánh! - Để thế vào, thày dạy hãy xa lìa vọng
tưởng bằng thực hành pháp tri vọng do thày đề xướng.
- Pháp
tham công án, thoại đầu chỉ nhằm mục đích duy nhất là
phát khởi nghi tình, nhẹ nhàng nhưng liên tục, dần dần đẩy
nặng nghi tình đến bùng vỡ, thành tựu giác ngộ, chớ hoàn
toàn không cốt yếu, không chủ trương trừ vọng tưởng.
Tuy nhiên, trong khi tham thì vọng tưởng không thể khởi. Vọng
tưởng không khởi được là do cái tác dụng phụ, tự nhiên
của việc tham chớ không phải là mục đích nhắm đến của
Tổ Sư Thiền. Y hệt trường hợp của dược liệu Cyproheptadine
được dùng để chế sirô trừ dị ứng, tại Việt Nam trước
năm 1975. Tuy chai thuốc có dán nhãn "chống dị ứng", nhưng
nhiều người không dị ứng cũng mua dùng thuốc này để nhắm
vào cái phản ứng phụ của nó là làm cho mập, ăn ngủ nhiều,
dù công dụng phụ này không chỉ dẫn trên nhãn hiệu.
- Khởi
vọng tưởng là do ý thức, cái vọng thức phân biệt và lý
luận này, nếu một khắc rảnh rang, lập tức nó khởi vọng
tưởng, nghĩ chuyện này, chuyện khác. Ý thức càng làm việc
thì càng sắc bén, càng lanh lẹ. Nếu trước mặt không có
cái gì để thấy, nghe, ngửi, nếm, sờ mó, để nhận thức
thấy biết, để phê phán, thì nó lập tức moi trong ký ức
ra bất kỳ một chuyện gì đã qua hoặc tưởng tượng bày
đặt ra một điều gì chưa có để làm việc. Đó là khởi
vọng tưởng, một tên cướp mà những người thực hành bất
cứ pháp môn Phật giáo nào cũng sợ nó quấy phá, làm mất
công phu.
-
Người tham Tổ Sư Thiền cũng dùng ý thức để nhận thấy
tánh nghi vấn trong công án thoại đầu. Nhận thấy sự rắc
rối, nhận ra câu hỏi, rồi tự nhiên muốn biết, muốn trả
lời, muốn biết mà không biết được, không trả lời đươc
thì thắc mắc, thắc mắc chính là nghi, phải ngưng lại ngay
đây, giữ cái niệm nghi này và nhất là không được tiến
thêm để tìm kiếm câu trả lời, để giải thích, rồi lại
đề câu thoại nữa, lại nghi nữa, cứ thế tiếp tục. Tổ
Sư nói: "Cho tâm nghi nhưng không cho tâm đi tìm". Trong khi ý
thức được sử dụng để tham thì đương nhiên nó đâu còn
rảnh để khởi vọng tưởng. Như vậy, công án thoại đầu
có công dụng chánh là khởi nghi nhưng vô tình nó cũng là
"cây chổi tự động quét vọng tưởng"(Lời ngài Duy Lực),
một tác dụng phụ không dụng ý. Ông có hai bàn tay để gõ
máy thì cùng lúc ông không thể gảy đờn. Con khỉ leo chuyền
từ cây này qua cây khác nhưng trước sau dàu ở cây nào cũng
vẫn chỉ là con khỉ đó, mỗi lúc chỉ ở một cây.
- Mà
Tổ Sư cũng không dạy phải trừ vọng tưởng (nói trừ, nói
lìa, nói tuyệt cũng vậy thôi; vọng tưởng cũng gọi là vọng
niệm) hoặc sống chung với vọng tưởng, nó khởi hay chẳng
khởi cũng thây kệ nó, ta không cần biết đến nó, chỉ chú
tâm tham công án, thoại đầu để nghi liên tục, cố giữ
không sao lãng. Tại sao không muốn trừ vọng tưởng? Vì vọng
tường là hiện tượng sống, phát khởi từ tâm (đây là
vọng tâm). Tất cả chúng ta, những người chưa ngộ, dàu
danh tướng thế nào, dàu suy nghĩ, nói năng, hành động gì,
dàu thiện dàu ác, cũng đều là sống với vọng tâm này,
chỉ khi chết rồi nó mới ngưng nghỉ vì nó đã dứt tại
đây để sanh khởi nơi khác. Vậy thì làm sao lại muốn trừ
vọng tưởng, nếu không muốn hủy hoại thân này. Ngoại trừ
trường hợp chuyển đổi được nó (giác ngộ: chuyển thức
thành trí) mới hết được cái vọng của tâm, mới hết được
vọng tưởng. Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Lục Tổ năm lần không
cho tuyệt niệm, nghĩa là không cho dứt trừ vọng tưởng.
Tổ Sư cũng nói "Vọng lớn vô cùng, mạnh vô cùng, sức người
được bao nhiêu mà muốn cự địch với nó?". Như vậy, vọng
tâm là gốc sanh ra vọng tưởng, nó cũng là tất cả cuộc
đời của chúng ta, suốt đời ta chỉ sống bằng vọng tâm,
làm thiện làm ác, lên trời xuống địa ngục, kiếp này qua
kiếp khác, luôn luôn ta lấy nó làm ta mà ta không biết, chỉ
khi nó được chuyển thành trí thì mới hết phát sanh vọng
tưởng. Điều chân thật cơ bản này không mấy ai nói ra.
- Do công phu kiên cố, chuyên cần, ta có thể lóng tâm, được
tịch lặng, nhưng chỉ được một thời gian, vài phút, vài
ngày. Nếu không lạc vào cái không vô ký thanh thanh tịnh tịnh
thích thú như "nếm mật ngọt" mừng rằng đã đắc, thì nhập
định rồi cũng phải xuất định, sống lại với vọng thức.
Tịnh tâm như lóng nước đục cho trong, nhưng bụi đất vẫn
còn đóng nguyên bên dưới, nếu gặp duyên kích động thì
bụi đất lại nổi lên. Tham thiền tích cực, liên tục, sức
mạnh của nghi tình có công năng chuyển đổi triệt để cái
tướng dụng hư hỏng của vọng tâm, phục hoàn cái thể thanh
tịnh sáng suốt bổn lai của tự tâm. Ví như nước đục
được chưng cất thành nước trong tinh khiết, có lắc mấy
cũng vẫn trong.
- Ngài
Duy Lực còn chỉ dạy, đại lược là " Vọng tâm này có hai
mặt, mặt động và mặt tịnh: Khi mặt vọng hiện thì tâm
phân biệt, vọng tưởng suy nghĩ lẫy lừng, khi vọng lặng
thì tâm được tạm thời tịch tĩnh, nhưng vẫn là vọng tâm.
Trạng thái tịch tĩnh này dài ngắn cũng chỉ tạm thời, không
thể nào là nhất định vĩnh viễn. Chĩ sau khi kiến tánh,
cái tướng dụng của vọng tâm đã được chuyển đổi thành
trí, mới có an lạc chân thật vĩnh viễn. Còn không, chỉ
là lấy đá đè cỏ." ( = Cái tịnh nói trên đây là cái tịnh
tương đối, có hạn lượng của vọng tâm, không phải cái
tịch tuyệt đối vĩnh viễn, có trí huệ chiếu soi của tự
tâm, tâm trạng này chỉ phát khởi sau khi giác ngộ.)
------------------
Ngày
nay, đệ tử Phật theo tỉ lệ ngàn người, họa chăng chỉ
mươi người có nhân duyên với Tổ Sư Thiền, tin hiểu và
hành đúng; nhưng đi tới nơi thì rất hiếm. Cũng vì lý thuyết
và cách hành khác biệt với tất cả các pháp thiền khác,
lại ít được phổ biến nên hay sinh ngộ nhận. Tôi bản
thân còn đang đi đường chưa đến đâu, nay viết mấy trang
này hoàn toàn không dụng ý quảng cáo Thiền Tông, chỉ nhân
có 2 bài đã đăng trước về cùng đề tài và vì thấy những
ngộ nhận nêu ra thường được nhắc lại, làm nhiều người
chưa gặp nhân duyên nên biết chưa đủ, chưa đúng về một
pháp tu chân truyền, mà bất đắc dĩ, cả gan, trình bày ít
điều, hy vọng rọi chút ánh sáng vào đề mục. Xin minh định
rằng những điều được trình bày chỉ liên quan đến việc
thực hành pháp tu tập công án, thoại đầu, không dám lạm
bàn đến đạo. Nếu có bị chê trách thì xin cam nhận, không
muốn gây thêm tranh cãi.
Đa
tạ .
Truyền
Đan
Ngày
08-10-2004
Ghi
chú: Về Tổ Sư Thiền, quí vị có thể tìm đọc nhiều
điều giá trị trong bộ Duy Lực Ngữ Lục đăng trên trang
<www.tuvien.com> mục
Tổ Sư Thiền của Thư Viện Hoa Sen, hoặc vào trang <vnet.org/tzt/tuanviet>
của Từ Ân Thiền Đường Santa Ana để đọc một số sách
về Tổ Sư Thiền, nơi đây cũng có liệt kê những sách do
Thiền Đường đã phát hành, cho thỉnh. Ngoài ra, quí vị cũng
có thể liên lạc với Thầy Thích-Đồng-Thường địa chỉ
<tosuthien@hcm.vnn.vn> để
được hướng dẫn thêm.
|