MỘT
VỊ GIẢI THOÁT
“Này
các Tỷ-kheo, nước của đaị dương chỉ có một vị là vị
mặn, cũng vậy pháp và luật này chỉ có một vị là vị
giải thoát."
(Udana,
Tự Thuyết Kinh)
*
"Như
Lai chỉ dạy một điều: đau khổ và chấm dứt mọi đau khổ."
(Majjhima
Nikaya, Trung A Hàm, tập I)
*
Quán
Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu
kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Bồ
Tát Quán Tự Tại quán chiếu sâu xa Bát nhã ba la mật đa,
soi thấy năm uẩn đều không, vượt hết mọi khổ ách.
(Bát
Nhã Tâm Kinh)
*
Thị
cố Tu Bồ Đề! Chư bồ tát ma ha tát ưng như thị sanh thanh
tịnh tâm, bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh,
hương, vị, xúc, pháp sanh tâm; ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ
tâm.
Cho
nên, Tu Bồ Đề! Các đại bồ tát hãy sanh tâm trong sạch
như thế, chớ nên trụ sắc mà sanh tâm, chớ nên trụ thanh,
hương, vị, xúc, pháp mà sanh tâm; nên không chỗ trụ, mà
sanh kỳ tâm.
(Kinh
Kim Cang, phẩm Trang Nghiêm Tịnh Độ)
*
Luminous
is this mind, brightly shining, but it is colored by the attachments that
visit it. This unlearned people do not really understand, and so do not
cultivate the mind. Luminous is this mind, brightly shining, and it is
free of the attachments that visit it. This the noble follower of the way
really understands; so for them there is cultivation of the mind.
Chiếu
sáng là tâm này, chiếu sáng rực rỡ, nhưng nó bị tô màu
bởi các chấp thủ dính mắc [từ ngòai] bám vào nó. Điều
này, phàm phu không thực sự hiểu, và do vậy không tu tập
tâm này. Chiếu sáng là tâm này, chiếu sáng rực rỡ, và nó
xa lìa mọi chấp thủ dính mắc [từ ngòai] bám vào nó. Điều
này, bậc thánh đệ tử thật sự hiểu; do vậy, với các
ngài, có việc tu tập tâm này.
(Từ
Anguttara Nikaya, Tăng Chi Bộ Kinh, bản Anh dịch của Gil Fronsdal
– trong Teachings of the Buddha, p.2, kết tập bởi Jack Kornfield,
NXB Shambhala, 1993)
*
Develop
a state of mind like the earth, Rahula. For on the earth people throw clean
and unclean things, dung and urine, spittle, pus and blood, and the earth
is not troubled or repelled or disgusted. And as you grow like the earth
no contacts with pleasant or unpleasant will lay hold of your mind or stick
to it.
Similarly
you should develop a state of mind like water, for people throw all manner
of clean and unclean things into water and it is not troubled or repelled
or disgusted. And similarly with fire, which burns all things, clean and
unclean, and with air, which blows upon them all, and with space, which
is nowhere established.
Hãy
để tâm như mặt đất, Rahula. Vì trên mặt đất, người
ta ném ra những thứ sạch và nhơ, phân thú và nứơc tiểu,
nước bọt, mủ và máu, và mặt đất thì không hề phiền
hà gì, không hề đối kháng lại, cũng không hề phẫn nộ.
Và khi con trưởng thành như đất, thì không có chạm xúc nào
với yêu và ghét sẽ vương vào tâm con, hay dính mắc vào nó.
Tương
tự, con hãy để tâm như nước, vì người ta ném mọi thứ
kiểu cách của sạch và nhơ vào nước, và nó thì không hề
phiền hà gì, không hề đối kháng lại, cũng không hề phẫn
nộ.
Và
tương tự [để tâm như] với lửa, hằng đốt hết mọi thứ,
sạch và nhơ, và [tương tự như] với không khí, thổi lên
trên mọi thứ, và [tương tự như] với hư không, vốn không
nơi nào để trụ.”
(Từ
Majjhima Nikaya, Trung Bộ Kinh, bản Anh dịch của A. L. Basham –
trong Teachings of the Buddha, p.26, kết tập bởi Jack Kornfield,
NXB Shambhala, 1993)
*
Để
nói cái gì là cốt tủy của Phật Pháp, tôi muốn đưa ra
câu nói ngắn, “Đừng để dính mắc vào bất cứ gì cả.”
(“Nothing whatsoever should be clung to.”) Có một chỗ trong Trung
Bộ Kinh, khi một người tới tìm Đức Phật và hỏi ngài
là ngài có thể tóm gọn giáo pháp của ngài vào một câu,
và nếu có thể, thì đó là câu gì. Đức Phật trả lời
rằng ngài có thể, “Sabba dhamma nalam abhinivesaya.” Các từ
“Sabbe dhamm” có nghĩa là “mọi thứ, mọi vật, mọi pháp,”
còn "nalam" nghĩa là “không nên để,” và "abhinivesaya" nghĩa
là “bị dính mắc vào.”
Đừng
để dính mắc vào bất cứ gì cả. Rồi Phật nhấn mạnh
điểm này bằng cách nói rằng bất kỳ ai đã nghe câu này
là đã nghe tòan bộ Phật Pháp, bất kỳ ai lấy câu này mà
tu tập thì đã tu tập tất cả Phật Pháp, và bất kỳ ai
đã nhận được quả của pháp tu tập điểm này thì đã
nhận được tòan bộ quả của Phật Pháp.
(Từ
sách Heartwood of the Bodhi Tree, tác giả Buddhadasa Bhikkhu, NXB Wisdom,
1994.)
*
Có
nhiều diễn tả khác nhau về giác ngộ, nhưng tất cả các
truyền thống Phật Giáo cùng gặp nhau nơi một hiểu biết
về những gì giải thóat tâm. Đức Phật bày tỏ điều đó
một cách rõ ràng và không mơ hồ: “Không có bất cứ gì
nên được dính mắc vào như là ‘tôi’ hay ‘của tôi.’
Bất cứ ai đã nghe sự thật này là đã nghe tòan bộ Giáo
Pháp, bất cứ ai tu tập sự thật này là đã tu tập tòan
bộ Giáo Pháp, bất cứ ai đã chứng ngộ sự thật này là
đã chứng ngộ tòan bộ Giáo Pháp.” Đó là kinh nghiệm chung
nhất cốt tủy về giải thóat – trung tâm của Một Pháp
về sự giải thóat. Không có bất cứ gì nên được dính
mắc vào như là ‘tôi’ hay ‘của tôi.’ (Nothing whatsoever
is to be clung to as “I” or “mine.”)
(Từ
sách One Dharma, p.134, tác giả Joseph Goldstein, NXB HarperCollins,
2003.)
*
Consciousness
without feature, without end, luminous all around: here water, earth, fire
and wind have no footing. Here long and short, coarse and fine, fair and
foul, name and form are, without remnant, brought to an end. From the cessation
of [the activity of] consciousness, each is here brought to an end. (Translator’s
brackets.)
Ý
thức với không một đặc tướng nào, với không một mục
đích nào, chiếu sáng quanh khắp: nơi đây nước, đất, lửa
và gió không có chỗ đứng nào. Nơi đây, dài và ngắn, thô
và tế, đẹp và xấu, danh và tướng đều được mang tới
chỗ tịch diệt, không còn vết tích dư thừa nào. Từ sự
tịch diệt [các hành họat] của ý thức, mỗi mỗi nơi đây
đều được mang tới chỗ tịch diệt. (Trong ngoặc là của
người Anh-dịch.)
(từ
Trường Bộ Kinh, bản Anh-dịch của Joseph Goldstein, dẫn từ
sách One Dharma, p.170, NXB HarperCollins, 2003.)
*
Thông
rằng: Các nhà chú giải xưa nói: kéo mối bên trái, bên phải
là dụ cho sự nương y vào hai bên không, có, nên không thể
mở nút. Nên cần phải ở trong Viên Quán, nơi Căn không sanh
phân biệt, nơi Cảnh không sanh bám nắm, thì nút mở ra. Phàm
đợi Quán rồi mới mở ra được, thế vẫn chỉ là kéo mối
phải, mối trái mà thôi, nơi chỗ tâm của mối nút có ăn
nhằm gì ? Chẳng như lời lẽ của nhà Thiền rất kín đáo
nhiệm mầu vậy.
(Kinh
Thủ Lăng Nghiêm Tông Thông, bản Việt dịch của Thubten Osall
Lama – Nhẫn Tế Thiền Sư, NXB Thành Hội PG/TPHCM.)
*
Tri
kiến lập tri, tức vô minh bổn; Tri kiến vô kiến, tức tư
Niết Bàn.
[Vậy
nên nay ông] chính nơi tri-kiến, lập ra tướng tri-kiến, thì
tức là cỗi-gốc vô-minh; chính nơi tri-kiến, không có tướng
tri- kiến, thì đó là vô-lậu chân-tịnh Niết-bàn.
(Kinh
Thủ Lăng Nghiêm, bản Việt dịch của Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình
Thám.)
[Thế
nên, giờ đây] chính nơi Thấy Biết mà lập ra Tướng có
Thấy Biết, đó là cội gốc Vô Minh. Chính nơi Thấy Biết
mà chẳng có Tướng Thấy Biết, đó là Niết Bàn chân tịnh,
vô lậu.
(Kinh
Thủ Lăng Nghiêm Tông Thông, bản Việt dịch của Thubten Osall
Lama – Nhẫn Tế Thiền Sư, NXB Thành Hội PG/TPHCM.)
*
In
the same way, monks, I have taught the Dhamma compared to a raft, for the
purpose of crossing over, not for the purpose of holding onto. Understanding
the Dhamma as taught compared to a raft, you should let go even of Dhammas,
to say nothing of non-Dhammas.
Tương
tự, các tỳ kheo, ta đã dạy [rằng] Chánh Pháp cũng hệt như
một chiếc bè, dùng để vượt qua [sông], không để ôm giữ
lấy. Hiểu rằng Chánh Pháp được dạy cũng hệt như chiếc
bè, các ngươi nên buông bỏ ngay cả Chánh Pháp nữa, chứ
nói gì tới Phi Pháp.
(Alagaddupama
Sutta, Trung Bộ Kinh, bản Anh-dịch của Thanissaro Bhikkhu.)