|
.
BA THIỀN SƯ
Ikkyu Sojun -
Hakuin Ekaku - Ryokan Taigu
Nguyên
tác Anh ngữ:Three Zen Masters: Ikkyu, Hakuin, and Ryukan
Tác
giả John Stevens - NXB Kodansha International in năm 1993 tại Nhật
Việt
dịch: Cư Sĩ Nguyên Giác, 2003
IKKYU
SOJUN
(1394
– 1481)
Ikkyu
ra đời vào lúc bình minh của ngày đầu của năm 1394. Mặc
dù có lời đồn rằng Ikkyu là con trai của vị hoàng đế
trẻ Go-Komatsu (1377—1433), vào lúc chào đời cậu bé được
ghi vào sổ bộ thường dân. Mẹ của Ikkyu, một phụ nữ chờ
việc trong cung đình và được Go-Komatsu yêu chuộng, đã bị
sa thải bất công ra khỏi cung điện vì guồng máy của vị
hoàng hậu ghen tuông và tay chân bà này. Do vậy, hoàn cảnh
ra đời của Ikkyu thì khiêm tốn, mặc dù bản tiểu sử sớm
nhất của sư viết rằng ngay cả khi sơ sinh, sư “mang dấu
hiệu của một con rồng và dấu ấn của một phượng hoàng.”
Vào
lúc 5 tuổi, Ikkyu được gửi vào làm chú tiểu tại Ankoku-ji,
một ngôi chùa Thiền Tông ở Kyoto. Nơi đây, sư được bảo
đảm có nền học vấn tốt, cũng như được bảo vệ trước
các viên chức triều đình lắm mưu và các tướng quân đa
nghi. Điều này quan trọng trong thời trung cổ Nhật Bản, vì
ngay cả đứa con hoang của vị hoàng đế – với hoàn cảnh
đúng thời và với những người ủng hộ có quyền lực –
vẫn có thể ra giành ngôi vua. Tại chùa Ankoku-ji, Ikkyu được
học kinh điển Phật Giáo và các sách giáo khoa tại Trung Hoa
và Nhật Bản. Là một học trò sáng dạ mà thiên tài của
mình được mọi người công nhận, Ikkyu cũng là một cậu
bé quá quắt và nhanh trí. Nơi đây là vài mẩu chuyện từ
những ngày sư còn là chú tiểu.
Không
lâu sau khi vào chùa, thầy viện chủ ra lệnh cho Ikkyu tắt
các đèn cầy trên bàn thờ trước khi vào ngủ. Khi Ikkyu trở
lại để thưa rằng việc đã xong, thầy viện chủ hỏi, “Con
tắt đèn cầy bằng cách nào?”
Ikkyu
đáp, “Con thổi tắt.”
Thầy
viện chủ mới la chú, “Đừng bao giờ làm thế chứ. Phật
thì linh thánh, còn hơi thở chúng sinh thì nhơ bẩn. Phải tắt
đèn cầy bằng cách phất tay hay là dùng quạt.”
Sáng
hôm sau, khi thầy viện chủ vào chính điện cho khóa lễ sáng,
thầy thấy Ikkyu tụng kinh trong khi ngồi quay lưng về bàn thờ.
Thầy
la lớn, “Con làm gì vậy, thằng nhỏ ngốc này!”
“Thầy
dạy con là hơi thở chúng sinh thì nhơ bẩn và đừng nên hướng
thẳng về tôn tượng chư Phật. Làm sao con tụng kinh mà không
thở được?”
“Cái
này thì khác,” ông thầy chưng hửng nói, và ra lệnh cho Ikkyu
quay mặt về bàn thờ.
Dù
vậy, Ikkyu không dễ bị chế ngự. Thầy viện chủ rất thích
một loại kẹo đặc biệt và cất kẹo trong một lọ trong
phòng thầy, cảnh cáo Ikkyu và các cậu bé khác trong chùa,
“Kẹo này đặc biệt cho người lớn, nhưng nếu một đứa
nhỏ ăn vào thì sẽ chết liền.”
Ikkyu
không mắc bẫy chút nào, và ngay khi viện chủ rời chùa, cậu
trút hết lọ ra và chia kẹo này với các bạn. Ikkyu lúc đó
còn đập bể một tách trà trong phòng thầy viện chủ. Khi
thầy về, thì thấy Ikkyu nước mắt đầm đìa.
Ikkyu
khóc nức nở, “Trong khi lau chùi phòng thầy, con vô ý làm
bể tách trà quý. Để chịu phạt cho hành vi vô ý đó, con
mới nuốt mất viên kẹo độc. Không thấy gì hết, con mới
ăn hết kẹo luôn, vì tin là con sẽ chết để chịu phạt.
Xui xẻo sao con không chết, nên bây giờ con xin thầy tha lỗi.”
Một
lần khác, một chú tiểu khác vô ý đánh vỡ một tách trà
quý của thầy viện chủ trong khi lau chùi nơi này. Sợ thầy
nổi giận, chú này mới nhờ Ikkyu nghĩ kế giúp. “Để đó
cho tớ,” Ikkyu nói với chú kia như thế. Khi thầy về chùa,
Ikkyu đón thầy nơi cổng.
Chú
Ikkyu nói dịu dàng, “Thưa thầy, thầy thường dạy tụi con
là cái gì có sinh thì có diệt, và bất cứ cái gì đã có
sắc rồi cũng trở về không.”
“Đúng
vậy,” thầy đáp. “Đó là sự thật không tránh khỏi của
đời sống.”
Ikkyu
nói buồn bã, “Thưa thầy, con có một tin buồn trình thầy.
Đã tới lúc tách trà thầy thích lìa đời rồi.”
Tiếng
tăm chú tiểu thông minh này tới tai Tướng Quân Yoshimitsu (1358—1408),
và Ikkyu được triệu tới lâu đài để gặp.
“Ta
nghe nói sư nhỏ này thông minh lắm,” tướng quân nói với
Ikkyu. “Sư có nghĩ là sư bắt được cọp?”
Ikkyu
trả lời tự tin, “Thưa tướng quân, tôi tin tôi có thể.”
“Đây
là sợi dây. Bắt lấy con cọp đó đi,” tướng quân thách
thức, chỉ về con cọp được vẽ trên một tấm bình phong
che lớn trong phòng.
Không
do dự, Ikkyu tới đứng trước bình phong, sửa soạn sợi dây
và hô lớn, “Bây giờ, thưa tướng quân, xin xua con cọp ra
đi.”
Một
Phật tử hộ pháp của chùa rất thích áo quần da thú, loại
bị xem là trang phục không thích nghi cho Phật tử. Một hôm,
khi tới chùa, ông được chào đón bằng một tấm bảng mang
dòng chữ, “Các loại đồ da không được vào sân chùa. Ai
phạm luật này sẽ bị đánh đòn nặng.” Nhận ra nét chữ
của Ikkyu, thiện nam này mới xông vào, nổi giận với nhà
sư nhỏ.
“Vậy
còn cái trống lớn trong chính điện thì sao?” Phật tử này
chất vấn. “Không phải mặt trống bằng da à?”
Ikkyu
trả lời, “Đúng vậy. Nhưng chúng ta đánh trống mỗi sáng
chiều. Nếu ngài muốn mặc đồ da, ngài sẽ bị đối xử
cùng như vậy.”
Nhằm
trả đũa Ikkyu, vị Phật tử hộ pháp này mời thầy viện
chủ và Ikkyu dự một bữa tiệc chay. Tuy nhiên, trong tô của
Ikkyu, lại có mấy miếng cá. Ikkyu liền nhai ngấu nghiến ngay.
“Khoan,
chờ một chút,” vị Phật tử la cậu Ikkyu. “Chú điệu
này không biết là tu sĩ Phật giáo không được phép ăn thịt
cá?”
“Miệng
tôi y hệt như Xa Lộ Kamakura,” Ikkyu đáp. “Những thứ cao
và thấp, người bán thịt và người bán rau, tất cả đều
chạy tuột xuống không ngại.”
Quyết
chơi tay trên cậu bé lanh lợi, vị Phật tử vỗ mạnh vào
thanh kiếm của ông.
“Làm
sao thứ này sẽ trôi xuống được?” ông hỏi một cách đe
dọa.
“Bạn
hay thù?” Ikkyu hỏi.
“Thù!”
vị Phật tử hét lên.
“Kẻ
thù không qua nổi!” Ikkyu nói bướng bỉnh.
“Bạn,
rồi sao!” vị Phật tử thốt lên.
Ikkyu
ho sặc sụa như đang kẹt trong cổ. “Xin lỗi, cánh cổng
mới đóng.”
Trong
một chuyện kể tương tự, thầy viện chủ đau khổ từ lâu
bị cậu Ikkyu bắt gặp đang ăn canh cá.
“Thưa
thầy, thầy đã nói là thịt chúng sinh bị cấm tuyệt làm
thức ăn trong chùa. Nhưng nếu bây giờ chuyện này không sao,”
Ikkyu nói, mắt nhìn tô canh, “thì con cũng muốn ăn một chút.”
“Không,
không,” thầy viện chủ nói. “Đây thực sự là một tội
lớn cho các chú tiểu ăn thịt cá. Tuy nhiên, trong trường
hợp của thầy, thầy thực sự đang thực hiện một tang lễ
cho cá.”
“Sao
thế?” Ikkyu muốn biết.
“Thầy
nói với nó, ‘Cá ơi, ngươi bây giờ như một cành cây khô
héo. Ngay cả nếu ta thả ngươi, ngươi không bao giờ có thể
về lại nước. Tuy nhiên, nếu ta ăn ngươi như dùng thuốc,
ngươi có thể đạt Phật quả sớm!”
Vào
ngày kế tiếp, cậu Ikkyu tới ngay chợ cá và mua về một
con cá chép sống. Vừa khi cậu sắp chặt cá, thầy viện chủ
bước vào.
Thầy
la lên, “Con làm gì vậy! Sát sanh còn tệ hại gấp 10 lần
ăn chúng sanh!”
Ikkyu
nói với thầy trong khi cậu nhấc lên con cá đang vùng vẫy,
“Không, không, hãy nghe này. Cá ơi, ngươi như một cành cây
sống. Nếu ta thả người, ngươi sẽ trốn mất và ta sẽ
đói bụng. Hãy để ta thưởng thức ngươi cho bữa ăn tối,
còn hơn là để ngươi bơi lội trong nước.”
Nói
thế xong, cậu chặt lìa đầu cá và bỏ vào nồi canh.
Một
lần nữa bị lộ tính giả hình, thầy viện chủ bực bội
không nói gì được. Cách ứng phó khích động như thế đã
trở thành kiểu riêng của Ikkyu.
Ikkyu
đã viết bài thơ Đường – một thể thơ khó đặc biệt
– lần đầu tiên khi cậu mới 12 tuổi.
Cỏ
Úa Gần Thái Ấp
Trong
cô quạnh mùa thu, người đẹp bị bỏ rơi cất tiếng hát.
Không
có sứ giả nào tới để triệu nàng về lại thái ấp.
Vinh
quang và thất sủng, niềm vui và nỗi buồn – nàng đã trải
qua tất cả.
Ân
sủng từ tướng quân của nàng thì cạn cợt, nhưng đồng
cỏ thờ ơ thì sâu thẳm.
Khi
còn trẻ thơ, Ikkyu có thể đầy tính nghịch ngợm, nhưng luôn
luôn có một mặt nghiêm túc trong cá tính. Bài thơ này tỏa
ra nỗi bi quan Phật giáo, một lời than thở về tính vô thường
của các pháp, và nó phản ánh nỗi bất như ý sâu thẳm của
Ikkyu về cách mẹ của cậu bị đối xử. Ikkyu như dường
đặc biệt gần với mẹ, và cậu không bao giờ vượt qua
nỗi cay đắng về việc mẹ bị sa thải bất công ra khỏi
triều đình. Trong bài thơ khác, làm về sau đó trong đời,
Ikkyu phiền muộn:
Một
giai nhân tinh tế như thế, thoa phấn và tô son,
Ngay
tới Đức Phật cũng không chống cự nổi nàng;
Nàng
mang tâm hồn của Ngọc Quý Trung Hoa
Nhưng
tại Nhật Bản, nàng bây giờ vẫn mỏi mòn.
Bên
cạnh việc chỉ trích cách đối xử bất công đối với mẹ,
hai bài thơ này hiển lộ nỗi bận tâm xa hơn của Ikkyu: quan
hệ thường sóng gió giữa nam và nữ. Với sự thoái
hóa của thời đại, Ikkyu rất có thể đã bị lôi cuốn sớm
vào tình yêu đồng tính tại ngôi chùa này. Ikkyu đã mất
hứng thú với kiểu ái tình này, nhưng cảm hứng của sư
với người nữ vẫn còn cho tới ngày cuối của 77 năm trong
đời. (LND: tác giả John Stevens viết
dựa theo cả huyền thoại và lời đồn, nên nhiều chi tiết
có thể không đúng với sự thật lịch sử.)
Năm
1410, kinh hoàng vì lòng tham và hư hỏng của các vị sư lớn,
cậu Ikkyu 16 tuổi rời bỏ chùa Ankoku-ji. Sư loan báo chuyến
đi với bài thơ:
Ngập
đầy xấu hổ, tôi khó giữ được lời.
Thiền
ngữ bị áp đảo và ma vương đã chiến thắng.
Các
sư này lý ra phải thuyết về Thiền,
Nhưng
họ chỉ khoe khoang về gia phả.
Ikkyu
tới học đạo theo Ken’o (viên tịch năm 1414), một vị sư
già kỳ dị sống trong một túp lều xiêu vẹo, hẻo lánh trên
ngọn đồi bên ngoài Kyoto. Từ sớm trong đời ngài, Ken’o
đã gây sóng gió khi ngài từ chối nhận một inka, giấy chứng
nhận của giác ngộ, từ Muin, vị khi đó là viện chủ chùa
Myushin-ji. Thời đó, các giấy chứng nhận này – thường
là được mua hay gian lận kiếm được – rất cần thiết
để kiếm một vị trí tại một ngôi chùa lớn. Do vậy, hành
vi nổi loạn của Ken’o đã tự đưa sư ra khỏi nhóm thế
lực của Thiền, điều này cũng thích nghi với sư và người
học trò đơn độc của sư, chàng Ikkyu quyết tâm và bướng
bỉnh.
Vào
cùng lúc, Ikkyu cũng học văn chương với một nhà sư học
giả tên Seiso. Một hôm, Tướng Quân Yoshimochi (1386--1428) xuất
hiện nơi cổng chùa của Seiso và đòi khảo sát một bản
văn nào đó thuộc về chùa. Trong khi các học trò khác co rúm
vào góc, Ikkyu mạnh dạn ôm ra cuộn sách cổ, nhưng không chịu
bước xuống cổng chào để trao cho tướng quân hay các hầu
cận như phép nghi lễ đòi hỏi. Cuối cùng, vị tướng quân,
người đã từng chạm trán với Ikkyu trước kia, phải bước
tới để đón nhận cuộn sách cổ. Sau khi liếc mắt qua một
chút, tướng quân hoàn trả bản văn, rồi ra đi không một
lời nói. Cậu thiếu niên Ikkyu từ đó được ca ngợi vì
đã can đảm đứng kình trước các thẩm quyền dân sự trấn
áp.
Ikkyu
ở với Ken’o cho tới khi nhà sư không thỏa hiệp này viên
tịch năm 1414. Sau khi an táng thầy với cương vị người thương
khóc đơn độc và là người đào mộ cho thầy, chàng Ikkyu
lang thang quanh Kyoto, thương khóc nỗi mất mát của chàng và
tìm cách xoa dịu nỗi đau bằng tụng kinh và thiền định.
Sư viếng thăm mẹ nhiều lần trong suốt thời kỳ hoang vắng
này, và bà mẹ lo ngại vì hình dung tiều tụy và tâm trí
rối bời của sư tới nỗi bà bí mật cử một người hầu
theo dõi con trai của bà khi nhà sư này lang thang.
|