Vượt Khỏi Giáo Điều
(
Beyond Dogma)
Nguyên
tác: His Holiness Dalai Lama
Việt dịch Tâm Hà Lê Công Đa
---o0o---
PHẦN THỨ NĂM
DUYÊN KHỞI
VÀ TÁNH KHÔNG
DUYÊN KHỞI:
KHOA HỌC, TÁNH, VÀ THỨC
Nhà bác học Albert Einstein, cha đẻ của
thuyết tương đối đã từng phát biểu: “Tôi chỉ dùng một nguyên tắc duy nhất
để xác định giá trị chân thực của một con người: Họ đã giải phóng được
mình ra khỏi bản ngã đến mức độ nào và với mục đích gì.” Thưa Ðức Ðạt Lai
Lạt Ma,trong chừng mực nào thì nguyên tắc này đối với Ngài có thể được xem
như là áp dụng những giáo lý của Ðức Phật, và tạo nên một tiền đề cho bất
cứ một cuộc đối thoại hiệu quả nào giữa con người?
Từ cốt lõi của đạo Phật, đặc biệt là Phật
giáo Ðại thừa, sự phân tích thuần lý chiếm một vị trí rất quan trọng. Quan
điểm này cho rằng ta không nên chấp nhận giáo lý của Ðức Phật nếu như
trong đó có ẩn chứa những điểm sai lầm thiếu sót hoặc mang tính cách mâu
thuẫn, không hợp lý. Bởi vậy bạn luôn luôn được khuyến cáo là nên giữ một
thái độ hoài nghi và một tinh thần cảnh giác, ngay cả đối với những lời
dạy của Ðức Phật. Chính Ngài đã từng phát biểu trong lời pháp cú sau đây:
“Hỡi các Tỳ kheo, như vàng được thử nghiệm bởi chà xát, cắt ra, và nung
chảy, chỉ nên chấp nhận lời dạy của ta thông qua đầu óc phân tích chứ
không phải bởi lòng kính trọng.” Ðây là một lời khuyên quan trọng cần nên
được noi theo. Trong bối cảnh như thế, đối với tôi không có vấn đề gì trở
ngại khi được thảo luận với các nhà khoa học thân hữu và tôi luôn luôn cảm
thấy cực kỳ hứng thú khi được hầu chuyện với họ.
Bây giờ xin được trở lại với nội dung câu
hỏi mà quý vị nêu ra. Khi chúng ta nói đến việc “kiềm chế bản ngã,” chúng
ta phải nhận ra được những mức độ khác nhau của sự kiềm chế này. Thông
thường tôi phân biệt ra hai lối suy nghĩ về cái ngã. Trước tiên, ý niệm về
cái “Tôi” vốn thường hiện ra trong tâm trí ta một cách rất tự nhiên, không
những là một ý niệm đúng đắn mà còn rất cần thiết. Chẳng hạn như, để cảm
thấy can đảm, chúng ta phải biết tự tin vào chính mình. Ðể có được một
niềm tự tin vững chải, chúng ta phải tin tưởng vào khả năng và sức mạnh
của chính mình, và như thế ta lại cần phải có một ý tưởng mạnh mẽ về cái
tôi, cái ngã. Thế nên đây là một ý niệm tích cực và có tính xây dựng.
Một lối suy nghĩ khác về cái “ta,” cái “Tôi,”
thường dẫn đến sự coi thường kẻ khác. Ðây là tinh thần ngã chấp được đặt
trên căn bản của một ảo tưởng quá cao về mình vượt xa thực tế, một nhận
thức lầm lạc mà ta không thể đơn thuần xóa bỏ được chỉ bằng cầu nguyện.
Trong trường hợp này ta phải quán chiếu và thiền định về vô ngã, phải thấy
được mọi hiện tượng đều rỗng không, không có cái gì hiện hữu một cách độc
lập. Kiến chấp sai lầm về ngã sẽ ngày càng mờ nhạt đi khi tâm trở nên quen
thuộc dần với tinh thần vô ngã.
Những luồng tư tưởng triết học Ðông phương
cổ điển đã dành một vị trí quan trọng trong việc phân tích khảo sát về cái
bản-ngã. Triết học cổ Ấn Ðộ không nằm trong truyền thống Phật giáo đã đề
cập đến cái ngã này, được gọi là tiểu ngã, atman, như là một thực
thể tách biệt không dính líu gì đến ngũ uẩn. Trong khi đó, giáo lý của
Phật giáo trái lại cho rằng không hề có một cái ngã khác biệt hay tách rời
khỏi ngũ uẩn, từ đó ta có khái niệm về vô ngã, atnaman. Phật giáo
như thế đã bác bỏ quan niệm cho rằng có sự hiện hữu của một cái ngã thường
hằng, độc lập, tồn tại như một cá thể tách biệt với ngũ uẩn. Tuy nhiên
Phật giáo không hề bác bỏ sự hiện hữu của cái ta, cái bản ngã, tức là cái
tôi ước lệ do năm uẩn cấu thành. Tất cả các trường phái triết học Phật
giáo đều công nhận sự hiện hữu của một cái ngã liên hệ chặt chẽ đến năm
uẩn, tuy nhiên không phải tất cả đều hoàn toàn đồng ý với nhau trong việc
giải thích về bản tánh của cái ngã này.
Trước tiên, một trường phái triết học Phật
giáo khẳng định rằng mỗi một yếu tố của năm uẩn cấu thành con người đều là
cái ngã. Một trường phái khác cho rằng ngã chỉ là thức uẩn. Một quan niệm
thứ ba cho rằng ngã là phần thẳm sâu nhất của thức, được biết dưới tên gọi
là “tàng thức” hay A-lại-da-thức theo Phạn ngữ. Một trong những quan điểm
của Trung quán tông - Quy mậu biện chứng phái (Madhyamika-Prasangika) cho
rằng có sự hiện hữu của một cái ngã liên hệ chặt chẽ đến năm uẩn, thế
nhưng ta không thể tìm ra nó nằm ở chỗ nào, và đi đến khẳng định rằng ngã
được hiện hữu một cách đơn giản như là một thứ nhãn hiệu, một cách gọi tên
đơn thuần trên căn bản của năm uẩn cấu thành con người. Khi ta dùng cụm từ
“gọi tên đơn thuần”, điều này không mang ý nghĩa một cách đơn giản là ngã
không hiện hữu, nhưng nhằm loại bỏ ý niệm cho rằng ngã hiện hữu như một
thực thể mang phẩm chất, đặc tính riêng biệt. Như thế, đã có sự hiện hữu
của một cái ngã do duyên sinh.
Từ đây chúng ta gặp gỡ quan điểm của
Einstein: Một điều khá quan trọng trong truyền thống Phật giáo, là không
hề chấp nhận có sự hiện hữu của một cái ngã tuyệt đối, và chính do nhờ
nhận thức sâu xa về vô ngã mà con người có thể làm suy yếu đi tác động
mãnh liệt của những yếu tố tâm thần thường mang lại cho ta lắm phiền não
cụ thể như lòngï kiêu hãnh, và ganh tỵ. Với Phật giáo, không những một cá
thể hiện hữu mà còn có thể tiến hoá từ một con người bình thường tiến đến
Phật quả. Câu trả lời của tôi có đáp ứng phần nào phần nào sự mong chờ của
quý vị?
Vâng, thưa Ngài.
Nếu quý vị không hiểu tôi có thể tiếp tục
cho đến khi nào vấn đề sáng tỏ hơn. Và nếu nó vẫn chưa sáng tỏ, tôi sẽ cố
làm cho nó sáng tỏ hơn nữa!
Ngài đã cho biết là rất thích thú khi đối
thoại với các nhà khoa học về các vấn đề khoa học nói chung cùng với các
tiến bộ trên lãnh vực kỹ thuật. Phật giáo đang bắt đầu bám rễ tại các
quốc gia Tây phương, được coi như là chiếc nôi của khoa học và kỹ thuật.
Phải chăng Ngài chỉ đơn giản muốn nắm bắt những thông tin trong lãnh vực
này hoặc chỉ để hội nhập vào nền văn hoá của chúng tôi hay là Ngài nghĩ
rằng nền khoa học hiện đại và tinh thần Phật giáo có thể có những tác động
hổ tương mà qua đó tiến trình khoa học có thể liên hệ với nhu cầu tinh
thần?
Từ kinh nghiệm cá nhân của tôi cũng như
thông qua những cuộc tiếp xúc với một số các nhà khoa học mà tôi được hân
hạnh gặp gỡ, tôi nhận thấy rằng có rất nhiều vấn đề có thể được trao đổi
giữa hai bên trong một số lãnh vực, cụ thể như vũ trụ học, thần kinh sinh
vật học, vật lý phân tử, và tâm lý học chẳng hạn. Tôi tin rằng cách thức
lý giải một số lãnh vực vừa nêu trong các kinh sách Phật giáo chắc chắn có
thể cống hiến một phương thức tiếp cận mới trong việc nghiên cứu những bộ
môn khoa học này. Hơn thế nữa tôi nghĩ rằng sự phát triển vượt bực thông
qua các nghiên cứu và các thành quả của khoa học kỹ thuật thực nghiệm có
thể mang lại rất nhiều điều hữu ích cho Phật giáo. Thế nên chắc chắn là
hai bên đều được hưởng những lợi ích hổ tương.
Ðiều này chỉ đơn thuần ở mức độ thu nhận
thông tin hoặc tiến xa hơn đưa đến sự áp dụng vào đời sống con người hay
không đều còn tùy thuộc vào mỗi cá nhân. Tuy nhiên tôi cũng xin được đánh
bạo để phát biểu rằng, nếu không đề cập đến lãnh vực khoa học, một số
người sẽ xem giáo lý Phật giáo sẽ không vượt xa hơn mức độ của những kiến
thức thông tin và như thế không thể áp dụng được vào thực tiễn. Thiết
tưởng những người nặng đầu óc tín ngưỡng cũng cần nên được nhắc nhở rằng
bất cứ những gì giúp cho ta nhận thức đều là giáo lý. Nói cho cùng, hướng
tiếp cận bao quát của Phật giáo không ngoài xác định bản chất của thực tại
và phân biệt giữa chân lý và sai lầm. Một khi bản chất của thực tại được
nhận thức một cách thấu đáo, trên căn bản đó những phương tiện đưa đến sự
tiến bộ trên con đường tâm linh có thể được lýgiải. Mặc dù sự hiểu biết về
bản chất của thực tại không quan hệ trực tiếp với sự tu tập Ðạo lý, chung
cuộc lại mục đích của sự kiếm tìm, tự bản chất cũng đã trở thành sự thực
hành tu tập. Những lý giải khoa học như vậy có thể là nguồn trợ giúp lớn
lao cho chúng ta trong việc xác định bản thể của thực tại và rất hữu ích
trong vấn đề tu tập tâm linh.
Khi gặp gỡ tiếp xúc với những y sĩ , những
nhà nghiên cứu y học Tây phương, Ngài có ấn tượng nào không về cái mà
chúng tôi gọi là phương pháp khoa học được họ sử dụng trong các cuộc thí
nghiệm, đặc biệt trên bình diện khảo sát thực tại sinh vật và vi trùng học,
cơ bản đã phản ảnh nguồn gốc văn hoá của họ, Cơ Ðốc hoặc DoThái-Cơ Ðốc?
Hay ngược lại Ngài có ấn tượng rằng họ đã không bị ràng buộc chút nào bởi
các tôn giáo và truyền thống triết học Tây phương, và rằng phương pháp
khoa học là một vấn đề phổ quát?
Tôi nghĩ rằng các nhà khoa học chắc chắn
đều áp dụng một nguyên tắc chỉ đạo chung là cố gắng khảo sát thực tại một
cách khách quan, mặc dầu vậy họ cũng không thể không bị ảnh hưởng bởi môi
trường văn hoá mà họ sinh sống. Người làm công tác khoa học cũng chỉ là
một con người, thế nên họ vẫn bị chi phối bởi bầu khí văn hoá xã hội chung
quanh; và do đó điều này cũng có một ảnh hưởng quan trọng vào sự phân tích
khách quan.
Phật giáo được biết đến ở phương Tây như là
một “tôn giáo thuần lý,” và sự lý giải này có vẻ như đủ khả năng để chấm
dứt một cuộc tranh luận khá cổ điển thường được thúc đẩy bởi các tôn giáo
dựa vào Thánh Kinh -Do Thái, Cơ Ðốc, và Hồi giáo- liên quan đến sự mâu
thuẫn giữa đức tin và lý trí. Ngài có nghĩ rằng một công thức như “tôn
giáo thuần lý” có thể mang lại sự hòa hợp của các truyền thống tâm linh đa
dạng, cũng như sự hiểu biết phong phú hơn về một số mối quan hệ gần gũi
giữa nền khoa học hiện đại và Phật giáo, một con đường tâm linh -đúng hay
sai chưa cần biết- có vẻ như rất thực tiễn đối với chúng tôi trong xã hội
Tây phương?
Trong các kinh sách Phật giáo, đặc biệt là
trong A-tì-đạt-ma-câu-xá-luận của Ngài Thế Thân có đề cập đến ba loại đức
tin: là “tín thành,” tức là tin tưởng một cách triệt để, “tín phục” tức là
tin tưởng do sự tin phục, và “tín hành” tức là tin tưởng và noi theo. Ta
cũng có thể nói đến hai loại đức tin căn bản. Loại thứ nhất đặt nền tảng
trên lý trí, qua đó khi ta khảo sát những nền tảng chân xác của đức tin
này, được tìm thấy trong số những người có trí thông minh sắc bén nhất.
Loại thứ hai có tính cách tự phát và đơn giản hơn được khai sinh do một số
ước lệ trong những người có khả năng tinh thần yếu kém hơn. Trong hai loại
này, loại đức tin được xây dựng trên lý trí là quan trọng hơn cả. Thế nên
ta có thể thấy được rằng trong Phật giáo, đức tin và lý trí quan hệ rất
mật thiết với nhau, bởi vì đức tin được sản sinh trên căn bản của lý trí
hoặc nhận thức thuần lý.
Có rất nhiều cách để ta có thể tiến hành sự
phân tích hợp lý hóa, tuỳ thuộc vào ba loại đối thể mà ta quán sát. Trong
trường hợp đầu tiên, đối thể phân tích sẽ là một thể tướng rõ ràng. Trong
trường hợp thứ hai, đối thể được ẩn tàng và trong loại thứ ba nó được ẩn
dấu một cách vi tếõ hơn. Ba loại đối thể này tương ứng với ba loại thể
tướng. Ta nắm bắt loại thể tướng biểu kiến do những nhận thức sơ khởi được
biết như là trực giác; thấu hiểu loại thể tướng ẩn tàng do những nhận thức
suy luận đặt cơ sở trên chứng cớ không thể bác bỏ được; còn loại thể tướng
thứ ba cũng do những suy luận đặt căn bản trên giá trị được công nhận
trong các kinh điển.
Ta khó có thể xác định ý nghĩa của thể
tướng ẩn dấu một cách vi tế ngay lập tức bằng luận lý thuần lý và càng khó
hơn nếu dùng cảm quan. Chúng ta chỉ có thể thấu hiểu được ý nghĩa của nó
dựa vào những gì được phát biểu bởi một nhân vật thứ ba đáng tin cậy, tín
nhiệm và không thể sai lầm mà những lời của họ, để được tin tưởng, dĩ
nhiên cũng phải hợp luận lý và không mâu thuẫn lẫn nhau. Lý trí vốn không
tham dự trực tiếp vào việc hình thành loại thể tướng thứ ba, thế nhưng đã
đóng một vai trò giúp ta xác định độ tin cậy của một người trong việc khám
phá ra loại thể tướng này.
Tất cả đã cho ta thấy rằng lý trí luôn luôn
can dự vào việc hình thành đức tin có cơ sở. Tôi thường có rất nhiều cơ
hội để nói chuyện về lãnh vực này. Nếu quan niệm tôn giáo thuần túy được
xây dựng trên cơ sở của đức tin “mù quáng” thì Phật giáo không phải là một
tôn giáo, mà có thể được xem như là một khoa học về tâm trí, một thể dạng
của vô thần chủ nghĩa. Tuy nhiên nếu so sánh với chủ nghĩa vật chất triệt
để thì không thể chối cãi được rằng Phật giáo là một con đường tâm linh,
một tôn giáo. Tất cả đều tùy thuộc vào quan điểm của mỗi người. Một cách
tóm tắt ta có thể nói rằng Phật giáo được phân biệt với hai đường lối tiếp
cận vừa trình bày hay cũng có thể là một chiếc cầu nối liền chúng với nhau.
Người ta thấy trong những năm gần đây giới
vật lý đang gia tăng mối quan tâm của họ trong vấn đề tìm hiểu về cái thực
tại có vẻ như còn đang nằm ngoài tầm tay của các nhà khoa học, cho dù với
mức độ chính xác và khả năng dự đoán của các học thuyết hiện đại như vật
lý lượng tử chẳng hạn. Một cách tổng quát, nhà vật lý học không những chỉ
tường trình về những sắc tướng và một chuổi nhân quả của một sự kiện,
nhưng đồng thời cũng cố gắng hoàn hảo hóa việc lý giải cái mà chúng ta
thường gọi là “bản thể” trong một cung cách dễ hiểu nhất. Sự sáng tạo của
chúng ta có vẻ như tùy thuộc khá lớn vào vấn đề này. Ðể hoàn tất mục tiêu
này chúng ta đã khai sinh ra những khái niệm tiêu biểu như nguyên tử,
phân tử, lực, năng lượng, không gian, thời gian, v.v...
Một số lượng lớn kinh sách của truyền thống
Phật giáo đã đề cập đến bản thể của hiện tượng, thảo luận về thực tại của
nguyên tử, bản thể của thời gian và không gian. Ngài có thể giải thích cho
chúng tôi hiểu tại sao giáo lý Phật giáo lại quan tâm đến vấn đề này?
Ngài có nghĩ rằng trong các công cuộc nghiên cứu của những nhà khoa học,
có quan trọng và cần thiết cho họ khi ghi nhận những lý giải trong Trung
Quán Luận, vốn bác bỏ sự hiện hữu của các hiện tượng?
Ðây là lý do tại sao những người theo
trường phái này khi nói về thể không, họ bác bỏ những thể không độc nhất
mà chỉ chấp nhận những thể không danh sắc. Những người theo trường phái
Kinh-lượng-bộ (Sautrantika) cho rằng một số thể tướng, ví dụ như thể không,
chẳng qua chỉ là do những ý thức biện biệt gán đặt hoặc định danh. Trong
trường hợp này, cụ thể như chân không, hay các thể tướng phức hợp không
liên hệ với sắc tướng hay tâm hoặc cá thể. Các từ “định danh” hay “gán đặt”
được dùng ở đây có ý nghĩa không khác xa bao nhiêu với trường phái Trung
Quán vốn cho rằng mọi thể tướng hiện hữu chỉ là một sự gán đặt, định danh
đơn thuần.
Theo trường phái Duy Thức (Chittamatra),
chẳng có gì khác nhau khi khi ta nói về căn bản duy danh của sự định danh,
về sự định danh “sắc tướng” được áp đặt cho một sắc tướng, và cuối cùng về
quan niệm cơ bản của nhận thức biểu hiện xem sắc như là sắc; sắc được biết
là không hiện hữu tự thân, theo một cung cách ngoại hiện. Tuy nhiên nếu ta
nhìn trở lại giai đoạn sơ khai của truyền thống Kinh-lượng-bộ, quan niệm
rằng sắc - được nắm bắt bởi ý thức cơ sở của nhận thức biểu kiến - hiện
hữu do các phẩm chất và đặc tính của chính nó.
Ðến đây tất cả các trường phái Phật giáo
đều đi đến khẳng định rằng mọi thể tướng đều có một hiện hữu tuyệt đối.
Thế nhưng những người theo trường phái Trung Quán tông lại bác bỏ sự hiện
hữu tuyệt đối của hiện tượng. Trong số này, chi phái đầu tiên, Ðộïc-lập
biện-chứng phái (Svatantrika) quan niệm rằng hiện tượng hiện hữu một cách
ước lệ, bởi chính nó. Một chi phái khác, Quy-mậu biện-chứng phái (Prasangika)
cho rằng ngay cả hiện tượng ước lệ cũng không thể hiện hữu bởi những đặc
tính của chính nó. Nói chung tất cả mọi trường phái đều chấp nhận vô ngã,
tuy nhiên cách thức diễn đạt ngày càng trở nên vi tế hơn.
Ðến đây một câu hỏi được đặt ra. Nếu “thực
tại” được quan niệm như là một đối thể khách quan có thể nhận thấy được và
tự nó là đủ để biện minh cho sự hiện hữu, thì triết học Phật giáo phủ nhận
sự hiện hữu của một thực tại như thế. Tuy nhiên thực tại chỉ hiện hữu nếu
ta quan niệm nó như là một trạng huống, mà mặc cho ta cất công tìm kiếm,
vẫn không thể nào tìm ra một đối thể khách quan như thế, ta cuối cùng chấp
nhận sự hiện hữu của nó như là một định danh. Trung Quán tông hay Trung
Quán Luận đặt trọng tâm vào việc loại trừ hai ý niệm cực đoan này.
Những gì trong Vật lý học gọi là “không thể
khám phá được” liên hệ đến lãnh vực vô cực và giới hạn, tương tự với khái
niệm của Phật giáo về đặc tính “không thể nhận ra được” của đối thể được
quán sát. Ðối với Phật giáo, chưa đủ để khẳng định rằng sự chấp ngã là sai
lầm bởi vì ý niệm này sẽ tự tiêu tan một khi ta hiểu được rằng đối thể của
kiến chấp sai lầm của ta không hề hiện hữu. Chúng ta cần loại trừ kiến
chấp sai lầm về bản ngã, tức là sự chấp thủ vào ngã chứ không phải sự nhận
thức về ngã như là một định danh đơn giản. Tại sao lại phải mang vào mình
những phiền hà như thế?
Như tôi đã giải thích sơ lược trước đây
rằng, bắt nguồn từ kiến chấp sai lầm, một ảo tưởng phóng đại về cái ngã -vốn
xa lìa với thực tại- sẽ xuất hiện; và khởi đi từ điểm này chúng ta bắt đầu
phân chia thế giới hiện tượng ra hai đối cực: một bên là tất cả những gì
thuộc về ta, và bên kia là những cái khác. Thế rồi chúng ta chỉ gắn bó với
cái thứ nhất và trở nên ác cảm với cái thứ hai. Một điều hoàn toàn đúng
đắn là để làm suy yếu sự chấp trước và tình cảm thù ghét này, chúng ta
phải cố gắng để loại bỏ kiến chấp sai lầm về cái ngã.
Trung Quán loại trừ hai trạng thái cực đoan
của các học thuyết chấp thường và chấp đoạn. Nếu không loại trừ được khía
cạnh cực đoan của học thuyết chấp thường ta sẽ không có những phương tiện
để loại bỏ những kiến chấp sai lầm về cái ngã. Ngược lại, học thuyết chấp
đoạn (hư vô chủ nghĩa) hoàn toàn phủ nhận sự hiện hữu của một cái ngã, nếu
ta không loại trừ được khía cạnh cực đoan này, ta sẽ không phân biệt được
tính chất tích cực và tiêu cực của một hành động trong đời sống ước lệ này,
và như vậy chẳng khác gì ta sẽ đi đến việc phủ nhận luật nhân quả, đó là
điều khó có thể chấp nhận được. Không chấp nhận tính cách cực đoan của học
thuyết chấp đoạn, ta khẳng định một điều rằng bất cứ ai gieo hay tích lũy
nhân gì chắc chắn sẽ phải gặt quả nấy. Bằng cách bác bỏ tính cách cực đoan
của học thuyết chấp thường, chúng ta tránh được tinh thần chấp ngã quá lố.
Ðây là cách lý giải của Trung Ðạo trong Trung Quán Luận.
Một cách tóm tắt, ta phải loại bỏ tà kiến
sai lầm và củng cố chánh kiến về cái ngã mà không phải tự đặt mình đóng
khung vào bất cứ tri thức thông thường nào về những ý niệm này. Khi đã
hiểu được như thế, ta cần phải tiếp tục quán chiếu, thiền định trên đối
tượng này để đi đến một sự chuyển hoá nội tâm thực sự. Những ý niệm này
càng ngày càng trở nên lợi ích cho ta một khi tâm ta dần dần quen thuộc
chúng.
Mới vài phút trước đây, Ngài có nói rằng
tình cảm có thể là nguồn gốc của khổ đau. Như thế Ngài có một định nghĩa
đặc biệt nào về bệnh tật theo cái nhìn Phật giáo? Phải chăng bệnh tật là
một dấu hiệu bất bình thường của một con người trên bình diện tâm, sinh lý
học, hay là sự rối loạn cơ thể cho thấy một sự rối loạn về tâm lý? Có phải
là điều bình thường khi trong một giai đoạn nào đó của đời sống, con người
phải bị bệnh tật ốm đau. Và trong những tình huống như vậy, giới chuyên
môn y khoa nên có thái độ như thế nào; họ nên loại bỏ sự bất bình thường
đó bằng mọi giá hay là giúp con người sống và làm quen với nó?
Về những trạng thái của tâm đôi khi được
biết đến dưới tên gọi “tình cảm”, chúng ta cần nên phân biệt những cái nào
là tích cực và những cái nào là tiêu cực. Những tình cảm như lòng nhân ái,
sự yêu thương, lòng từ bi là những tình cảm tích cực. Ðiều này cũng chẳng
khác gì nói rằng những tình cảm đó tồn tại trong dòng ý thức của chư Phật,
bởi vì những phẩm chất như thế bắt nguồn từ tâm của chư Phật. Ta cũng
không nên hoang mang trước sự khẳng định rằng chư Phật luôn quán tưởng về
tánh không. Bởi vì một khi đã đạt đến Phật quả, sẽ không còn sự tồn tại
của các ý thức biểu hiện và biện biệt. Tất cả chỉ còn là sự trực nhận của
tánh không. Tuy nhiên khi các Ngài thiền quán trên trí huệ vốn bao gồm cả
tánh không, tất cả những phẩm chất như lòng thương yêu và từ bi vẫn hiện
hữu trong tâm của chư Phật.
Khi nói về trạng thái tiêu cực của tâm, ta
liên hệ đến ba mối phiền não chính, được biết dưới tên gọi tam độc, đó là
tham, sân và si. Trên quan điểm của một người tu tập theo Phật giáo, những
mối phiền não hay độc dược tinh thần này chính là những bệnh hoạn tâm thần
thực sự. Tuy nhiên loại bệnh hoạn này sẽ không bao giờ được chữa lành cho
đến khi nào ta đạt đến trạng thái giải thoát, giác ngộ. Thế nên trước khi
đạt đến mức độ này, ta hãy đề cập đến những loại bệnh tật ít vi tế hơn.
Tổng quát mà nói, trong xã hội mà chúng ta
đang sống, một người được coi là có sức khoẻ hoàn hảo khi tâm của họ không
bị rối rắm hay xáo động sâu xa bởi ba mối phiền não, cho dù những yếu tố
tiêu cực này vẫn còn tồn tại ở trong họ. Ngược lại, với một người mà tâm
luôn bất an, không ngừng bị quấy nhiễu và chịu ảnh hưởng nặng nề của tam
độc, chắc chắn là họ sẽ rơi vào tình trạng khủng hoảng. Ðây chính là tình
trạng của bệnh thái tâm thần. Khi nói đến bệnh tâm thần ta phân biệt ra
hai mức độ khác nhau: thô và tế; cả hai đều cũng có thể liên hệ đến những
bệnh hoạn về thể chất. Vì lẽ đó, truyền thống y học Tây Tạng xem bệnh nhân
là một thể toàn diện, không những chỉ quan tâm đến thể chất mà còn lưu ý
đến cả lãnh vực tinh thần của bệnh nhân. Ðây là lý do giải thích tại sao
hiện đang có những người áp dụng việc trị liệu các bệnh tâm thần bằng cách
tổng hợp cả lối tâm lý trị liệu Tây phương và các phương cách của Phật
giáo. Tôi nghĩ rằng đây là một phương pháp rất tuyệt diệu.
Bây giờ, ta sẽ ứng xử như thế nào đối với
bệnh tật? Một điều rất hiển nhiên là con người ai cũng khát khao hạnh phúc,
và tìm kiếm hạnh phúc là một thứ quyền chính đáng. Ðồng thời cũng không ai
muốn bị khổ não bởi bệnh tật vây bủa hoặc phải chịu đựng bất cứ hình thái
đau khổ nào. Chúng ta phải phấn đấu hết sức mình để ngăn ngừa khổ đau, và
trên căn bản này, sử dụng thuốc phòng bệnh là một điều khôn ngoan. Ta phải
cố gắng để phòng ngừa bệnh tật bằng đủ mọi phương cách có thể được. Nếu
như ta đã cố gắng hết sức mình, nhưng bệnh hoạn và khổ đau vẫn xảy ra, ta
phải cố gắng chiêm nghiệm nó một cách sáng suốt để đừng tạo thêm mối lo
lắng cho những khổ đau có sẵn.
Cuốn phim “Tại sao Bồ Ðề Ðạt Ma Ðã Ði Về
Phương Ðông?”, thông qua những hình ảnh tuyệt vời của nó đã giúp chúng ta
gặt hái một số kinh nghiệm và hiểu biết về một phạm trù mà qua đó sự giải
phóng tâm linh hoà nhịp với sự giác ngộ của ý thức được xảy ra do sự tác
động hổ tương giữa con người và môi trường thiên nhiên. Tuy nhiên Phật
giáo lại lên tiếng phủ nhận sự hiện hữu của thế giới hiện tượng có thật,
thường được biết như là “thiên nhiên”. Xin Ngài cho biết ý niệm về thiên
nhiên đã chiếm một vị trí như thế nào trong Phật giáo, và làm thế nào để
chúng ta nhận thức được tánh không của thế giới hiện tượng mà không làm
thay đổi cái nhìn của ta đối với môi trường thiên nhiên?
Các loài vô tình được biết là không có sự
hiện hữu tự thân mà chỉ có sự hiện hữu ước lệ. Ðiều này thật ra không phải
chỉ áp dụng cho các loài vô tình mà còn có thể cho các chúng hữu tình,
nghĩa là các sinh vật có ý thức. Nhìn trên khía cạnh này, thế giới của
loài vô tình cũng bình đẳng với thế giới hữu tình của các sinh vật. Bao
lâu mà chúng ta quan tâm đến sự liên hệ giữa thế giới khách quan và thế
giới nội tại (tâm), thì theo một số trường phái triết học Phật giáo, đặc
biệt là Du-già-hành-tông (một chi nhánh của Trung Quán tông) và Duy thức
tông, thế giới hiện tượng khách quan không hiện hữu; tất cả những gì hiện
hữu thật ra chỉ là bản tánh của tâm. Trong khi đó Quy-mậu biện-chứng phái,
một chi phái của Trung Quán tông, đặt trọng tâm vào việc giải thích về
tính tương đối. Theo trường phái này thì thế giới hiện tượng khách quan
hiện hữu, nó không phải là bản tánh của tâm. Chúng không hiện hữu tự thân
hay như một cứu cánh, tuy nhiên bản tánh của chúng khác biệt với tâm. Thế
giới ngoại tại hiện hữu tùy thuộc vào tâm như là một sự định danh bởi tâm.
Bởi thế nó không hiện hữu một cách độc lập đối với sự gán đặt của tâm, và
đồng thời cũng không phải là bản tánh của tâm. Thế cho nên thế giới ngoại
tại có thể được khảo sát một cách khách quan đã hiện hữu.
Một cách tổng quát, Phật giáo hiểu môi
trường được cấu thành bởi vô số lượng phân tử; đặc biệt quan niệm con
người là một bộ phận của thiên nhiên và lẽ tự nhiên, đã có một mối dây
liên hệ chặt chẽ giữa nhân loại và môi sinh. Hiển nhiên là hạnh phúc của
chúng ta tùy thuộc phần lớn vào môi trường sinh sống. Ðó là lý do tại sao
kinh điển Phật giáo luôn giải thích vấn đề con người phải đối xử với thiên
nhiên như thế nào. Cụ thể như, một trong số những giới luật tu sĩ Phật
giáo đã cấm đoán việc gây ô nhiễm hay hũy diệt cây cối. Cuộc đời của Ðức
Phật cũng thế, hình như Ngài đã gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên. Ngài
không phải được sinh ra tại hoàng cung nhưng mà trong công viên, dưới một
cành cây sa-la. Ngài chứng quả giác ngộ dưới gốc cây bồ đề và giã từ thế
giới này để nhập niết bàn, một lần nữa cũng dưới ba tàng cây sa-la. Ngài
có vẻ như rất yêu thích cây cối.
Những khám phá gần đây của khoa vật lý
không gian hiện đại và học thuyết “tiếng nổ lớn tạo nên vũ trụ” (big
bang), đã tạo nên một sức quyến rũ đặc biệt về vũ trụ cũng như một sự tra
vấn của tất cả thành viên thuộc thế hệ chúng ta về nguồn gốc, thân phận và
ý nghĩa về sự hiện hữu của mình. Học thuyết “big bang” quả là đã tạo nên
một tác động có ý nghĩa trong cách nhìn của chúng ta đối với sự vật và
thiên nhiên; nó đồng thời cũng đưa ra nhữngï đổi mới nhận thức rất đáng kể.
Sự hình thành cấu trúc của vũ trụ, vốn hoạt động một cách tương thuộc, và
những công trình nghiên cứu được tiếp tục phát hiện là những nguồn ngạc
nhiên vô tận đối với con người. Giống như tất cả các truyền thống tâm linh,
Phật giáo cũng rao truyền một huyền thoại về vũ trụ. Thế nhưng Phật giáo
đã bác bỏ cái ý tưởng về một đấng sáng tạo. Tại sao ?
Hầu như các nhà khoa học phương Tây đều
đồng ý rằng đời sống và ý thức là kết quả vượt bực của sự tiến hoá vật
chất của vũ trụ, tuy nhiên họ không hiểu bằng cách nào và tại sao sự vật
đã xuất hiện theo một cung cách như thế, sự xuất hiện có vẻ như để nhằm
hoàn thành những điều kiện cần thiết cho sự sống và ý thức được sản sinh.
Ðiều mà họ biết được là những điều kiện này rất chặt chẽ, và được hoàn tất
ở trong vũ trụ này một cách khá ngạc nhiên. Ngài chắc là có một quan điểm
hoàn toàn khác biệt về vấn đề này. Xin Ngài vui lòng giải thích cho chúng
tôi biết đôi điều về ý thức trong mối tương quan của nó đối với sự vật và
vũ trụ?
Tại sao theo quan điểm Phật giáo lại không
thể có một vị thần sáng tạo? Như ta được biết đã không cóbất kỳ sinh vật
nào ngay từ buổi đầu của vũ trụ bởi lẽ chính yếu là nguyên nhân không thể
có sự khởi đầu. Nếu vũ trụ có điểm khởi đầu thì ý thức cũng phải có điểm
khởi đầu. Nếu chúng ta chấp nhận một điểm khởi đầu cho ý thức ta đồng thời
cũng phải chấp nhận rằng cái nguyên nhân sản sinh ra nó cũng phải có điểm
khởi đầu, tức là một nguyên nhân đột biến cấu thành ý thức, và như vậy
cuối cùng nó sẽ dẫn ta đến không biết bao nhiêu là câu hỏi quan trọng khác.
Nếu ý thức phát khởi không do một nguyên nhân, hoặc bởi một cái nhân
thường hằng cố định, cái nhân đó phải luôn được hiện hữu trên một căn bản
thường hằng bất biến hay là chẳng bao giờ hiện hữu cả. Thực tế cho thấy
một hiện tượng hiện hữu một cách pha trộn chứng tỏ rằng nó tùy thuộc vào
nguyên nhân và điều kiện. Khi tất cả mọi điều kiện chín mùi, một hiện
tượng được khai sinh. Khi những điều kiện đó chưa hoàn tất hay thiếu sót,
hiện tượng sẽ không xuất hiện. Như nguyên nhân không có điểm khởi đầu và
có thể kéo lùi đến vô tận, tất cả mọi sinh vật cũng thế. Vì vậy không thể
có một đấng sáng tạo.
Bây giờ chúng ta hãy nhìn một hiện tượng cụ
thể, một tảng băng chẳng hạn. Chắc chắn là nó có điểm khởi đầu. Nó được
hình thành như thế nào? Thế giới bên ngoài xuất hiện như là một hệ quả của
những tác hành của con người đang sử dụng nó. Những tác hành này, hay được
gọi là nghiệp, được xuất phát từ những ý hướng, động cơ thúc đẩy của
những con người chưa hoàn toàn kiểm soát được tâm ý mình.
Tâm, trên căn bản là “người sáng tạo nên
thế giới”. Trong Kinh điển, tâm được mô tả như là một tác nhân. Ở trên, ta
đã biết rằng ý thức không có điểm khởi đầu, tuy nhiên ta phải biết phân
biệt giữa hai loại ý thức thô lậu và vi tế. Một số ý thức thô lậu xuất
hiện như là những bộ phận phụ thuộc của các sắc uẩn, thể xác. Ðây là chứng
cớ khi ta khảo sát những trung khu thần kinh khác nhau và chức năng vận
hành của bộ óc, tuy nhiên khi đã hội đủ tất cả các điều kiện sinh lý cũng
không có nghĩa là đủ để sản sinh ra ý thức. Ðể có được ý thức, nó cần phải
có bộ phận để phản ánh vàbiết được một đối thể xuất hiện, thế nên nó cần
phải có một cái nhân đồng thể chất với ý thức. Trong trường hợp này, để có
thể có được một cái quả có cùng thể chất, cái nhân đồng thể chất cơ sở này
trên căn bản sẽ phải là một ý thức vi tế. Chính cái ý thức hay tâm vi tế
này đã đột phá ra khỏi tế bào gốc ngay thời điểm mà ý thức xuất hiện. Tâm
vi tế vì thế không thể có điểm khởi đầu. Bởi lẽ nếu có điểm khởi đầu có
nghĩa là tâm phải được sản sinh ra bởi một cái gì đó không phải là tâm.
Theo giáo lý của Mật tông Thời luân (Kalachakra Tantra), ta phải đi lùi
trở lại từ những phân tử của khoảng không để tìm cái nhân đồng thể chất cơ
sở này của thế giới vật chất khách quan cũng như thể chất cuả mọi loài
sinh vật.
Vũ trụ quan của Phật giáo được xây dựng
trên chu kỳ của vũ trụ thông qua bốn giai đoạn: thành, trụ, hoại, không.
Giai đoạn không là giai đoạn chuyển tiếp để từ đó hình thành một vũ trụ
mới. Trong giai đoạn không này, những phân tử của chân không tồn tại, và
từ những phân tử này một vũ trụ mới được thành lập. Chính từ những phân tử
này của chân không ta có cái nhân đồng thể chất cơ sở của toàn bộ thế giới
vật chất. Nếu ta muốn mô tả sự hình thành của vũ trụ cũng như thân xác của
con người, điều mà ta cần làm là phân tích và thấu hiểu được cách thức qua
đó tiềm lực thiên nhiên của các hoá chất và các nguyên tố khác cấu thành
vũ trụ đã có khả năng tạo hình từ những phân tử chân không này. Chính trên
cơ sở tiềm lực đặc biệt của những phân tử này mà cấu trúc của vũ trụ và
thể xác của con người từ đó xuất hiện. Thế nhưng ngay từ thời điểm mà
những nguyên tố tạo nên thế giới bắt đầu dấy lên những kinh nghiệm khác
nhau về khổ đau và hạnh phúc giữa nhân sinh, ta không thể không biết đến ý
niệm về nghiệp lực -tức là những tác hành tích cực hay tiêu cực mà con
người gây nên và tích lũy từ quá khứ. Rất khó có thể xác định được đâu là
nơi mà sự biểu hiện tự nhiên của tiềm lực của các yếu tố vật chất chấm dứt
và đâu là nơi mà hệ quả của nghiệp, tức là kết quả của tác hành quá khứ
của ta bắt đầu. Nếu bạn thắc mắc về mối liên hệ có thể xảy ra giữa nghiệp
và môi trường bên ngoài được hình thành do những định luật tự nhiên, đây
chính là lúc tốt nhất để giải thích nghiệp là gì.
Nghiệp trước tiên có nghĩa là hành động. Ta
phân biệt ra ý nghiệp tức là một loại nghiệp có gốc ở tâm, mà yếu tố tinh
thần gồm tác ý, hay ý hướng là chủ yếu. Ngoài ra còn có thân nghiệp và
khẩu nghiệp. Ðể hiểu mối quan hệ giữa thân, khẩu và ý nghiệp với thế giới
vật chất bên ngoài, thiết tưởng chúng ta cần liên hệ đến các kinh sách mật
tông. Mật tông Thời luân (Kalachakra Tantra) giải thích rằng trong thể xác
của ta, ở mức độ thô thiển, vi tế và cực vi tế có đủ tất cả năm yếu tố cấu
thành thế giới vật chất. Thế nên trong bối cảnh này, tôi nghĩ rằng chúng
ta phải hình dung ra được mối quan hệ giữa thân, khẩu, và ý nghiệp của ta
với các yếu tố ngoại giới.
Với tư cách là một y sĩ , tôi có một câu
hỏi khác dành cho Ngài. Tại Pháp, đặc biệt là trong y giới, chúng tôi
thường nghe nhắc đến cuốn “Tử Thư của Người Tây Tạng.” Những kỹ thuật y
khoa hiện nay chẳng hạn như phương pháp làm kích động trở lại, giải phẩu,
ghép mô, và hóa học trị liệu trong việc chữa trị ung thư, đều đưa đến ý
niệm rằng cái chết của một bệnh nhân là sự thất bại trên một lãnh vực nào
đó của y khoa. Cụ thể như tại Pháp, 70 phần trăm tử vong đều xảy ra tại
bệnh viện mà ở đó những ngày cuối cùng của bệnh nhân thường được diễn ra
tại phòng hồi sinh. Vì lẽ đó chúng tôi thường là không thảo luận với bệnh
nhân về những giây phút cận tử của họ; ngược lại mọi chuyện được làm như
là để kéo dài niềm hy vọng và ý chí cầu sinh của bệnh nhânï. Ðồng ý rằng,
điều quan trọng là giữ cho niềm hy vọng không tàn lụi, tuy nhiên có một số
các nền văn hoá khác, nếu chúng tôi không lầm, kể cả truyền thống Phật
giáo, việc chuẩn bị cho người hấp hối là một phần nằm trong quyền lợi và
trách nhiệm của con người.
Theo quan điểm của Ngài thì cái chết là một
sự kiện sinh vật học và y học , hay đơn thuần chỉ là một vấn đề của cá
nhân và tâm linh? Như vậy phải chăng là điều đúng đắn nếu chúng ta làm đủ
mọi cách trong năng lực của mình nhằm cứu sống hay tối thiểu là để kéo dài
đời sống con người thêm vài ba năm? Hoặc ngược lại, thật là bất công khi
bỏ liều cho con người nằm chết trong một khung cảnh kỹ thuật y khoa cao
cấp, tách lìa họ ra khỏi gia đình và bạn bè thân thuộc trong giờ phút cuối?
Theo nội dung của một bản báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới thì đời sống
không hẵn là tuyệt đối tốt và cái chết cũng không hẵn là tuyệt đối xấu.
Ngài có ý kiến gì về vấn đề này? Và cuối cùng, những nỗ lực của giới y
khoa Tây phương nhằm ngăn ngừa cái chết là một vấn đề đáng nghi vấn đối
với Ngài? Ngược lại, nếu quan niệm rằng cái chết hoàn toàn thuộc về người
đang hấp hối cùng với bạn bè thân thuộc và gia đình của họ, thì ở thời
điểm nào người thầy thuốc nên rút lui? Và dưới những điều kiện nào thì
chúng tôi phải thông báo cho bệnh nhân biết là họ sẽ không tránh khỏi cái
chết?
Ðiều trước tiên, chúng ta phải nhận thức
được rằng cái chết thực ra là một phần của đời sống và tự nó không tốt mà
cũng chẳng xấu. Trong cuốn “Tử Thư của Người Tây Tạng” mà qúy vị vừa đề
cập đến có nói như thế này: “Cái mà chúng ta gọi là chết thuần tuý chỉ là
một khái niệm.” Nói một cách khác, cái chết tiêu biểu cho sự chấm dứt của
ý thức thô lậu và cơ phận mà nó nương tựa, tức là thể xác. Ðiều này chỉ
xảy ra ở mức độ thô lậu của tâm. Thế nhưng cả tử lẫn sinh không hề hiện
hữu ở mức độ vi tế của thức, được biết đến như là nguồn “linh quang trong
suốt.” Dĩ nhiên, nói chung chết là một cái gì đó làm cho người ta sợ hãi.
Thế nhưng, dù muốn hay không, chết là điều không thể tránh khỏi. Ðó là lý
do tại sao trong lúc sống ta phải biết tập làm quen với cái chết, để đến
khi nó xuất hiện sẽ không làm cho ta bị kích động. Chúng ta không thiền
quán về cái chết một cách thường xuyên để hy vọng được chết sớm; ngược lại,
cũng giống như mọi người ta cầu mong cho thọ mạng được kéo dài. Tuy nhiên
như đã nói, chết là điều không thể tránh khỏi, nếu ta biết bắt đầu chuẩn
bị sớm, khi cái chết gần kề ta sẽ dễ dàng chấp nhận nó.
Tôi nghĩ là không có một quy luật tổng
quát nào liên quan đến vấn đề săn sóc bệnh nhân trong phòng hồi sinh nhằm
kéo dài đời sống của họ. Ðây là một vấn nạn khá phức tạp, đòi hỏi phải xem
xét nhiều yếu tố trong khi nghiên cứu và tùy theo từng tình huống, từng
trường hợp đặc biệt để có những giải pháp thích ứng. Cụ thể như nếu ta kéo
dài đời sống của một người đang lâm bệnh trầm trọng nhưng tinh thần của họ
vẫn còn sáng suốt, chúng ta đang giúp cho họ cơ hội được tiếp tục suy nghĩ
theo cung cách mà một con người có thể suy nghĩ. Chúng ta cũng nên quan
tâm đến khía cạnh nếu kéo dài đời sống có mang thêmlợi ích gì cho người
bệnh hay không, hay ngược lại chỉ làm cho họ khổ đau thêm cả thể xác lẫn
tinh thần, như gây thêm nỗi đau đớn hoặêc kinh hãi. Trong trường hợp người
bệnh đang hôn mê thì lại là một vấn nạn khác. Ước muốn của gia đình bệnh
nhân phải được cân nhắc tới cũng như gánh nặng tài chánh gây ra do việc
điều trị kéo dài. Tôi nghĩ rằng điều quan trọng hơn cả là chúng ta cố gắng
làm hết sức mình để đảm bảo rằng người đang hấp hối sẽ được ra đi trong
yên tĩnh, với tất cả niềm thanh thản và an bình nội tâm. Ðồng thời cũng
nên lưu ý đến khía cạnh người đang hấp hối có hành trì theo một tôn giáo
nào hay không. Nhưng cho dù trường hợp nào đi nữa, có hay không có niềm
tin tín ngưỡng, tôi tin rằng con người tốt nhất vẫn là được chết trong an
bình.
SẮC TƯỚNG VÀ
THỨC TƯỚNG
Chúng tôi đã có cơ hội may mắn được nghiên
cứu cùng với Ðức Ðạt Lai Lạt Ma về một số vấn đề liên quan đến những cốt
lỏi của khoa học thực nghiệm từ quan điểm của duyên khởi. Trước khi chúng
ta bắt đầu cuộc thảo luận này, xin Ðức Ðạt Lai Lạt Ma vui lòng giải thích
vắn tắt cho chúng tôi về duyên khởi trong triết học Phật giáo cũng như
những gì Ngài hy vọng thu lượm được từ hội nghị thảo luận khoa học này?
Thành thật mà nói tôi đã học hỏi được rất
nhiều điều qua những cuộc gặp gỡ với các nhà khoa học của đủ mọi ngành
cũng như đã gặt hái những lợi ích lớn lao từ những cuộc gặp gỡ này. Một số
những lý giải của Phật giáo cũng được chứng tỏ là rất hữu ích đối với các
nhà khoa học, tạo cơ hội để họ có thể nhìn vào lãnh vực chuyên môn của
mình từ một khung cảnh khác. Tôi tin chắc hầu hết qúy vị ở đây đều có
những kiến thức nhập môn về phương thức tiếp cận của Phật giáo, đặc biệt
là Phật giáo Ðại thừa, trước tiên là ta nên giữ một thái độ hoài nghi, rồi
kiểm chứng vấn đề, và cuối cùng chỉ chấp nhận khi ta tin chắc là nó đúng
sự thực. Ngay cả chúng tôi -những người Phật tử, với lòng kính ngưỡng vô
biên với Ðức Bổn sư- cũng vẫn được quyền bác bỏ giáo lý của Ðức Phật nếu
tìm thấy những mâu thuẫn ở trong đó. Như qúy vị thấy, chúng tôi được tự do
để có một tinh thần phê phán, ngay cả đối với giáo lý của mình. Trong một
bối cảnh như thế, tôi thấy không có gì trở ngại khi có dịp được đối thoại
với các nhà khoa học hoặc ngay cả với những người duy vật triệt để. Trái
lại đây là một cơ may rất hữu ích.
Thêm vào đó, từ kinh nghiệm cá nhân, qua
những cuộc đối thoại như thế này phải nói là có một số ý tưởng được chúng
tôi đón nhận với sự biết ơn. Chắc chắn rằng tiến trình luận lý của chúng
tôi vẫn không bao giờ được coi là đủ. Những chất vấn gắt gao do đó sẽ giúp
chúng tôi suy nghĩ sâu xa hơn về các chủ đề được quan tâm và vì thế rất là
hữu ích. Ðối với những người trưởng thành trong môi trường văn hoá Phật
giáo, một số khái niệm đối với họ rất là hiển nhiên. Bởi vì quá hiển nhiên
chúng tôi đôi lúc lơ đểnh không quan tâm đến sợi chỉ xuyên suốt tiến trình
luận lý phức tạp đưa đến kết luận. Ðó là lý do tại sao những chất vấn được
nêu lên từ những truyền thống đa dạng khác buộc chúng tôi phải nhìn lại
những vấn đề này trong một cách nhìn mới mẻ hơn.
Ðể bắt đầu, tôi xin được trình bày vắn tắt
quan điểm của Phật giáo về duyên khởi. Chúng ta có thể hiểu được nguyên
lý này -còn được gọi là duyên sinh hay nhân duyên- trên những mức độ khác
nhau, bắt đầu bằng quan hệ nhân quả, hay là luật nhân quả vốn được chấp
nhận bởi Tứ Ðại Thuyết Phái, tức là tất cả bốn trường phái triết học lớn
của Phật giáo (*). Một cách khác để hiểu nguyên lý này khi ta nhìn vào mối
dây quan hệ để thấy rằng cái tổng thể luôn luôn tùy thuộc vào các thành
phần của nó. Ðúng như vậy, tất cả mọi sự vật hiện hữu được coi như là một
tổng thể, bao gồm bởi nhiều yếu tố cấu tạo nên chúng. Bởi vì chúng được
cấu tạo bởi nhiều thành phần, chúng phải lệ thuộc vào các thành phần đó.
Sự hiện hữu ban sơ của chúng tùy thuộc vào thành phần cấu tạo thế nên
chúng đã không hiện hữu một cách tự do, một cách độc lập.
(*) Chú thích của người dịch: Tứ đại thuyết
phái của Phật giáo được kể đến gồm: Kinh lượng bộ (Sautrantika), Phân
thuyết (Vaibhashika), Duy Thức học (Cittamatra) và Trung Quán luận (Madhyamaka).
Ðể có thể có một sự giải thích rõ ràng hơn
về lý duyên khởi, thiết tưởng chúng ta nền đặt mình vào khung cảnh của
những lý giải của Phật giáo về thực tại. Trước tiên, mọi thể tướng có thể
là thường hằng hoặc vô thường. Không thể có một khả năng thứ ba. Trong các
tướng vô thường, ta có sắc tướng hay còn được gọi là “sắc”, và vô sắc
tướng trong đó kể cả thể tướng thuộc về tinh thần (tức là tâm), và các thể
tướng trừu tượng, được biết như là “phức tướng không liên hệ gì đến sắc và
tâm.” Lý duyên sinh của sắc tướng được xác định trong mối liên hệ với
không gian, nói rõ hơn là tùy thuộc vào chiều kích không gian. Lý duyên
sinh của vô sắc tướng được hình dung qua mối liên hệ với thời gian hoặc
ngay cả với chiều kích không gian. Tâm là một chuổi liên tiếp của các
khoảnh khắc. Chúng ta nói đến tâm tương tục. Chúng ta đề cập đến phức
tướng không liên hệ gì đến sắc và tâm, tuy nhiên chúng cũng lệ thuộc vào
các chiều không gian. Như về không gian vô phức tướng cũng thế, ta nói đến
phía nam, phía đông, v.v...
Tôi vừa trình bày nguyên lý về duyên khởi
một cách tổng quát theo Trung Quán tông, tức Trung Ðạo, bao gồm cả hai chi
phái, trong đó Quy-mậu biện-chứng phái (Prasangika) được xem như là có
trình độ cao hơn. Trường phái này còn thêm vào nhữngï chú giải vi tế về
những lý giải hiện hành liên quan đến lý duyên khởi, nói đến tính chất
không thể tìm thấy, “không thể phát hiện” được của một số hiện hữu định
danh. Nói một cách khác, thông qua phương pháp phân tích ta đi tìm kiếm
hiện tượng đằng sau sắc tướng, điều chắc chắn là không thể tìm thấy được.
Tuy nhiên nếu nói rằng những hiện hữu này là không thể tìm thấy được sau
khi trải qua một tiến trình phân tích, ta có nên đi đến kết luận rằng
chúng không hề hiện hữu? Ðể loại trừ kiến chấp theo lối hư vô chủ nghĩa
này, câu trả lời dứt khoát của ta là “Không.” Chúng -sắc tướng- hiện hữu,
nhưng không hiện hữu một cách độc lập mà trong mối quan hệ nhân duyên với
các sắc tướng khác, chẳng hạn như bằng cái tên gọi mà qua đó chúng được
định danh. Ðây là phương thức căn bản nhất để hiểu rõ nguyên lý về duyên
khởi. Vì sắc tướng hiện hữu cho nên những danh hiệu của chúng hiện hữu, và
ngược lại. Tuy nhiên ta cũng nên lưu ý rằng tất cả mọi sự vật được định
danh bởi tâm không nhất thiết phải hiện hữu. Thế nên điều khó khăn nhất là
làm sao xác định được trong số những vật do tâm gán đặt danh hiệu, cái nào
là hiện hữu, cái nào không. Ngay cả khi bác khước tính cách hiện hữu độc
lập, tự do của chúng, ta cũng phải tránh để không bị rơi vào chiếc bẩy sập
của chủ nghĩa tương đối cường điệu vốn quan niệm rằng tất cả mọi sự vật mà
tâm nhận biết được đều có thực. Vấn đề của chúng ta bây giờ là phải xác
định xem tiêu chuẩn nào có thể giúp ta nhận ra được những sắc tướng, hiện
tượng do tâm định danh là thực sự hiện hữu.
Giáo lý của Quy-mậu biện-chứng phái đề ra
ba tiêu chuẩn: Một hiện tượng do tâm nhận biết được xem là hiện hữu, trước
tiên nếu nó được chấp nhận ngay bởi trực giác, không biện biệt; kế đó là,
nếu trực giác này không mâu thuẩn với nhận thức thông thường vốn tuân thủ
các ước lệ; và cuối cùng, nếu sự hiện hữu của nó không bị phủ nhận bởi óc
phân tích vốn khảo sát thể dạng hiện hữu cuối cùng của thể tướng. Căn cứ
vào những tiêu chuẩn này mà ta có thể xác định một thể tướng hiện hữu theo
quy cách ước lệ hay không. Những tiêu chuẩn này chỉ liên hệ đến cái tâm
hiện đang nhận biết đối thể mà thôi, và điều này nhắc nhở ta một lần nữa
rằng không có cái gì có thể hiện hữu một cách độc lập đối với cái tâm đang
quán sát nó.
Ðiều này buộc ta phải giới hạn khái niệm về
nhận thức thông thường. Tất cả mọi trường phái, ngoại trừ Quy-mậu
biện-chứng phái, quan niệm rằng nhận thức thông thường nắm bắt đối thể của
nó không hề sai lầm hay thiếu chính xác. Những trường phái này không chấp
nhận một sự thiếu chính xác nào đối với nhận thức thông thường, trong khi
đó Quy-mậu biện-chứng phái của Trung Quán luận khẳng định rằng, mặc dù
nhận thức thông thường không thể bị sai lầm trong việc nhận ra đối thể
được nắm bắt, thế nhưng yếu tố thiếu chính xác vẫn có thể xảy ra ở một mức
độ nào đó. Ta hãy lấy thí dụ về trường hợp nhận thức thông thường liên
quan đến tính cách vô thường của âm thanh: kinh nghiệm này vốn chỉ xảy ra
trong mối liên hệ với đối thể được nắm bắt, tức tính cách vô thường của
hiện tượng âm thanh, đối với những người theo Quy-mậu biện-chứng phái là
thiếu chính xác, bởi vì họ quan niệm đối thể của nó như vậy đã được xác
định như một hiện hữu tuyệt đối, độc lập. Tất cả các trường phái khác đều
chấp nhận sự hiện hữu tự thân của một thực tại ước lệ. Thế nên đối với họ,
sự nhận thức rằng hiện tượng được hiện hữu theo cách thế như vậy là đúng
đắn, chẳng khác gì nhận thức thông thường là đúng đắn và chính xác từ mọi
khía cạnh. Tuy nhiên đối với Quy-mậu biện-chứng phái, chỉ có một nhận thức
hoàn toàn chính xác, không bao giờ sai lầm, là sự thực chứng trực tiếp và
khả tín về tánh không, tức là nhận thức không biểu kiến về bản thể tối hậu
của hiện tượng.
Như thế, tôi đã trình bày một cách vắn tắt
về nguyên lý của duyên khởi.
Tôi xin được kể hầu Ngài một câu chuyện có
tính cách ngụ ngôn để so sánh giữa ngành vật lý cổ điển và vật lý lượng tử.
Câu chuyện như thế này, có một người thợ câu đang câu cá trong một cái đầm
nước rất đục. Theo cách nhìn cổ điển thì đang có một con cá vô hình đang
lội quanh đâu đó; nó vô hình bởi lẽ đơn giản là nước quá đục. Dĩ nhiên anh
ta có thể câu được nó và rồi anh ta sẽ trông thấy nó mắc dính ở đầu dây
câu. Trong cách nhìn này, con cá đã được định vị một cách hoàn hão và tác
động hổ tương chỉ xảy ra một cách cục bộ giữa nó và nước trong đầm. Tuy
nhiên, cũng con cá này, theo cách nhìn lượng tử, tan biến vào cả cái đầm
và như thế đã không còn được định vị một cách hoàn hão. Tác động hổ tương
lúc này là với toàn bộ cái đầm, ở mọi thời điểm. Trong một vài trường hợp
nó có thể có một tác động hổ tương mạnh mẽ hơn, với toàn thể đại dương
chẳng hạn. Nếu người thợ câu tìm cách bắt con cá này, một hiện tượng định
vị hóa xảy ra, và rồi anh ta sẽ thấy một con cá bình thường mắc dính ở đầu
dây câu. Thế nhưng khi anh ta để con cá lên bải cỏ, con cá một lần nữa lại
tan biến đi ngay khi anh ta không còn nhìn đến nó.
Ngài có tin rằng với cách nhìn lượng tử này,
qua đó mỗi phân tử cực nhỏ có được một nhận thức về toàn thể không gian
bao quanh mình, như được mô tả bởi toán học cơ bản, là phong phú hơn so
với cách nhìn cổ điển? Ngài có nghĩ rằng nó có thể làm sáng tỏ ý niệm về
bộ phận và tổng thể đa hợp trong một cách nhìn vi tế hơn là lối tiếp cận
cổ điển? Chúng tôi rất thích thú được nghe ý kiến của Ngài trên quan điểm
lượng tử liên quan đến duyên khởi.
Tôi cảm thấy rằng, ở một mức độ rất sâu sắc,
đã có một vài điểm đồng quy giữa quan điểm lượng tử về thực tại và giáo lý
Phật giáo về duyên khởi, tuy nhiên thành thực mà nói, tôi chưa hiểu rõ lắm
về quan điểm lượng tử, dù rằng tôi đã cố gắng hết sức nhưng vẫn gặp phải
một số khó khăn! Thế nên tôi không cảm thấy chắc chắn cho lắm để thiết lập
một sự so sánh song song về lãnh vực này. Tuy nhiên theo cách diễn tả của
bạn, hình như đã có những điểm tương đồng giữa quan điểm lượng tử về thực
tại và quan điểm đặc biệt của một trong những trường phái triết học Phật
giáo, Duy Thức học.
Theo quan điểm của trường phái này, thế
giới khách quan, tức vũ trụ vật lý không được cấu thành ở bên ngoài mà tất
cả chỉ là do tâm tạo. Ðể bênh vực cho lý thuyết này, họ đã dùng những lý
luận về tính đồng thời giữa đối thể và nhận thức nắm bắt nó. Nói một cách
khác, bất cứ lúc nào bạn quan sát một sự vật, sự quan sát đối thể và đối
thể được quan sát cộng hưởng cùng nhau. Như vậy, đối thể chỉ hiện hữu khi
nào nó được nhận biết. Tuy nhiên Quy-mậu biện-chứng phái đã không chấp
nhận quan điểm này, cho rằng thế giới khách quan bên ngoài chẳng là gì
khác hơn một sự phóng chiếu đơn giản của tâm, và từ đó đã đưa đến vô số
những mâu thuẩn trong triết lý lẫn luận lý.
Tôi nghĩ là chúng ta có thể thiết lập lên
một mối liên hệ song hành khá thích thú giữa ngành cơ học lượng tử vốn cho
rằng thực tại được mô tả như là ở thể lỏng thay vì thể rắn, với một lối
thiền đặc biệt quán sát trên sự vật, qua đó người hành thiền tập trung sự
chú tâm của mình vào bản thể của một đối tượng ở một mức độ cực kỳ tinh tế
như là một sắc tướng được cấu thành bởi vô số lượng những phân tử. Sau
một thời gian thiền quán, sự nhận thức về những phân tử cấu thành đối
tượng trở nên sắc bén đến độ hành giả không còn cảm nhận thấy thể rắn chắc
của đối tượng ngay cả khi sờ vào nó, trong khi những người khác vẫn tiếp
tục cảm nhận sự rắn chắc của cùng một đối thể. Những người thực hành thiền
định thường có những thực chứng này đối với thế giới vật chất; đây không
phải là một sự miêu tả thuần lý thuyết.
Tiếp tục nói thêm một số kinh nghiệm về
thiền định, trong đó có khả năng là con người có thể di chuyển trong không
gian. Không gian được định nghĩa như là một khoảng chân không, không thể
sờ mó tiếp xúc, và không bị ngăn trở chướng ngại. Mặc dù nó không được
cấu thành bởi các nguyên tố vật chất thô lậu, nếu hành giả tập trung thiền
quán về vô lượng phân tử cấu thành không gian -ví dụ như các bộ phận chiều
kích, thể rắn chắc vi tế của các phân tử này- và bởi vì nó không thể trùng
lặp, hành giả sau một thời gian nỗ lực tinh chuyên tập luyện, có thể đạt
đến khả năng bước lên chúng. Ở đây chúng ta đang nói chuyện trên quan điểm
thực chứng của một hành giả tu tập thiền định và bởi vì những sự kiện có
vẻ như bất thường này xảy ra trong cảnh giới của kẻ hành thiền, nên cũng
sẽ là một điều thích thú để được biết ngành cơ học lượng tử có thể giải
thích như thế nào về những hiện tượng như vậy.
Trong khi thực hành, nhà vật lý không phải
là một người máy và cũng không phải là một chiếc máy vi tính. Cho dù chúng
ta có thể sử dụng người máy để vận hành một cái pít-tông và tính toán đủ
mọi chuyện bằng một chiếc máy vi tính, nhà vật lý học cũng chỉ là một con
người. Một người nào đó đang cố gắng tìm một phương cách đúng đắn để đương
đầu với một vấn nạn chắc hẵn là không ở trong tình huống hoàn toàn khách
quan và hợp lý -họ chỉ nhắm vào những gì cần phải được khám phá. Chúng ta
luôn luôn có những khát vọng, kể cả khát vọng tìm kiếm chân lý vốn can dự
vào nỗ lực khám phá lẽ phải và cách thức chúng ta đương đầu với hoàn cảnh,
mà thực ra nếu có thể được, ta muốn thực hiện công cuộc thí nghiệm của
mình một cách vô tư như một người máy.
Câu hỏi đặt ra như thế này: Ðối với tôi
hình như làm việc trong lãnh vực vật lý đòi hỏi tinh thần của một nhà tu
khổ hạnh. Chủ nghĩa khổ hạnh theo chúng tôi quan niệm là: nhắm đến việc
kiểm soát những khát vọng để có thể phục vụ chân lý một cách tốt hơn. Ðiều
trước tiên xin hỏi Ngài, chúng tôi có thể dùng chữ “chủ nghĩa khổ hạnh”,
một từ ngữ có thể rất là Tây phương để diễn đạt vấn đề này? Ðồng thời xin
Ngài vui lòng cho biết ý kiến về những ý niệm này đối với lý duyên khởi và
cách thức mà chúng tôi ứng xử.
Thực ra những vấn nạn mà qúy vị mô tả trong
các công cuộc thí nghiệm và khảo cứu của mình về bản tánh của thực tại
cũng là những vấn nạn mà tất cả chúng ta phải đối đầu trong cuộc sống hàng
ngày. Nếu chúng ta phải chờ đợi cho đến khi hiểu biết cặn kẻ tất cả mọi
yếu tố làm nên thực tại trước khi hành động thì có lẽ chúng ta chẳng bao
giờ hành động cả! Thế nên chúng ta phải tìm ra một sự thỏa hiệp.
Tôi có cái cảm giác rằng thật khó mà đạt
đến mức độ mà ta có thể có được một mô tả hoàn chỉnh và dứt khoát về thực
tại. Mặc dù tôi không hoàn toàn bác bỏ sự mô tả về thực tại bởi ngành cơ
học lượng tử, hình như đối với tôi ngay trong cốt lõi của cái thực tại này,
bản thể ở cái mức vi tế nhất vẫn không thể tiên liệu được. Khi chúng ta cố
gắng tìm kiếm những quy luật để lý giải những tác động, chúng có vẻ như
không có ý nghĩa gì cả. Có những đổi thay đột biến không thể nào giải
thích được, có vẻ như xảy ra do sự tình cờ hay bởi những nguyên cớ nào đó
mà ta không hiểu nỗi. Bởi lẽ đó, với tư cách là một người Phật tử tôi tự
hỏi để có thể giải thích được cái yếu tố can thiệp vào những đổi thay đột
biến này có thể không phải là nguyên lý nghiệp lực hay là luật nhân quả.
Một cách chính xác hơn, hình như việc không thể tiên liệu được như thế có
thể được giải thích bởi sự hiện hữu của những yếu tố còn vi tế hơn nữa đã
ảnh hưởng lên tác động này thay vì những yếu tố mà ta đã từng quan sát,
cũng như bởi nghiệp lực có thể đóng một vai trò trong đó. Ta cũng nên biết
rằng, hậu quả của nghiệp không thể đo lường được về lượng cũng như về phẩm.
Loại thực tại nào, nếu quả có một thực tại
như thế, Ngài cảm thấy cần được nêu ra ?
Câu trả lời của Phật giáo về câu hỏi, “Cái
gì đúng là thực tại?” rất là giản dị và trực tiếp, đó là bản tánh duyên
sinh! Khi ta dùng chữ “thực tại” trong khung cảnh Phật giáo, ta cũng cần
phải nêu rõ mức độ thực tại nào mà chúng ta muốn đề cập đến. Nếu chúng ta
muốn nói đến mức độ của thế giới hiện tượng, còn được gọi là thực tại
tương đối hay thực tại ước lệ, ta có thể mô tả thực tại này dưới những tên
gọi rất phức tạp và rất chi li. Tuy nhiên trên mức độ tổng quát, để mô tả
những nét tổng quát của thực tại và bản tánh rốt ráo của nó, ta có thể
thấy rằng một bên nó không được tạo thành do những đặc tính của chính nó
tức không phải là một hiện hữu tự thân hay tuyệt đối; còn một bên nó mang
bản tánh duyên sinh. Trong ngôn ngữ Phật giáo, cả không tánh (hay không
phải hiện hữu tự thân) lẫn duyên sinh là hai bề mặt của một đồng tiền.
Khi chúng ta đề cập đến thực tại trên mức
độ của sự thật ước lệ, chúng ta bước vào một cảnh giới hết sức phức tạp.
Chẳng hạn như khi ta chất vấn những triết gia Phật giáo về định nghĩa của
một đối thể đặc biệt nào đó, họ sẽ cho ta một định nghĩa rất chặt chẽ, khả
tín về đối thể đó, kể vanh vách những yếu tố phụ thuộc của nó. Họ sẽ cho
ta biết những đặc tính chính yếu của đối thể và không quên chêm vào câu,
“trong số những thứ khác.” Thế nhưng nếu ta chỉ ra cho họ thấy rằng cái
danh sách mà họ nêu ra đó chưa được đầy đủ lắm, họ sẽ trả lời rằng một
danh sách như thế chắc là phải bao gồm toàn bộ thế giới hiện tượng bởi vì
đối thể được hiện hữu trong mối quan hệ với tất cả chúng.
Ðối với chủ đề này, thiết tưởng một điều
khá quan trọng là ta phải hiểu được mối quan hệ giữa ngôn ngữ và ý niệm
đối với hiện tượng, sắc tướng. Ðây là một vấn đề nói chung khá phức tạp.
Theo luận lý Phật giáo, ngôn ngữ và ý niệm nhận thức thực tại thông qua
một tiến trình loại trừ những gì được coi là không phải thuộc về đối thể.
Ngôn ngữ và ý niệm xác định một đối thể bằng một tiến trình loại trừ hiện
thể khác chứ không phải đưa ra một khẳng định đơn giản.
Cụ thể như nhận thức biểu kiến -nhận thức
thông qua hình ảnh được ghi nhận ở trong tâm- về một cái bình chẳng hạn,
được xảy ra sau khi tâm đã loại trừ những gì không phải là cái bình. Và
như vậy để có một định nghĩa hoàn chỉnh về một đối thể, điều cần thiết là
ta phải kể ra toàn bộ các hiện tượng không phải và không thuộc về đối thể,
đó là điều không bao giờ có thể xảy ra.
Những câu trích dẫn sau đây cho thấy sự khó
khăn như thế nào để phân biệt giữa cơ học lượng tử và nhận thức Phật giáo.
Trước tiên, từ kinh điển Phạn ngữ:
Vasha hỏi Ðức Phật: “Bạch Ðức Thế Tôn, Ngài
khẳng định rằng linh hồn của bậc thánh nhân tồn tại sau khi chết?”
“Ta không khẳng định rằng linh hồn của bậc
thánh nhân tồn tại sau khi chết.”
“Bạch Ðức Thế Tôn, Ngài khẳng định rằng
linh hồn của bậc thánh nhân không tồn tại sau khi chết?”
“Ta không khẳng định rằng linh hồn của bậc
thánh nhân không tồn tại sau khi chết.”
“Bạch Ðức Thế Tôn, bậc thánh nhân sẽ được
tái sanh ở đâu?”
“Không phải là điều thích hợp để nói rằng
bậc thánh nhân sẽ được tái sanh.”
“Bạch Ðức Thế Tôn, như vậy bậc thánh nhân
sẽ không tái sanh?”
“Không phải là điều thích hợp để nói rằng
bậc thánh nhân sẽ không tái sanh.”
Bây giờ là một trích đoạn từ
cuốn “Khoa học và Nhận thức” của Oppenheimer:
Khi ta hỏi, ví dụ như, vị trí của các hạt
điện tử luôn luôn giống nhau, ta phải nói là không. Khi ta hỏi phải chăng
vị trí của các hạt điện tử luôn luôn thay đổi qua thời gian, ta phải nói
là không. Khi ta hỏi phải chăng vị trí của các hạt điện tử luôn luôn ở thể
tỉnh, ta phải nói là không. Khi ta hỏi phải chăng vị trí của các hạt điện
tử luôn luôn ở thể động, ta phải nói là không.
Và cuối cùng, Maiyetri, một vị
hoàng hậu triết gia của Ấn Ðộ cổ, hơn 3,000 năm trước đây khi đi tìm bản
chất của thực tại, đã phát biểu:
Xin hãy dẫn dắt tôi từ chỗ hão huyền đến
nơi chân thực.
Xin hãy dẫn dắt tôi từ chỗ tối tăm đến nơi
ánh sáng.
Xin hãy dẫn dắt tôi từ cái chết đến sự sống
đời đời.
Phải chăng những chân lý khoa
học đã vén màn bí mật về cấu trúc của vụ trụ mà những sự thật được dấu kín
của nó được khai quật giống như những kho tàng của tiền nhân để lại? Hay
chúng tôi, những nhà khoa học, cụ thể là những nhà vật lý học, chẳng khác
gì một ảo thuật gia móc những con thỏ được chúng tôi dấu kín ra từ những
chiếc nón của mình? Một người Phật giáo thứ thiệt có thể nói rằng cả
chiếc nón lẫn con thỏ đều không thật. Tôi có thể thêm vào rằng ảo thuật là
thật. Ngài nghĩ như thế nào?
Trong số những phẩm chất của
Ðức Thế Tôn được mô tả lại trong kinh sách Phật giáo, có nói đến khả năng
toàn tri toàn giác. Vâng, chỉ có sự toàn tri toàn giác khi nào ta có cái
gì đó để tri và giác. Cũng trong những kinh sách này có viết rằng những sự
vật được nhận thức luôn có hai mặt: bản tánh rốt ráo của chúng và thực tại
tương đối hay ước lệ. Ta cũng tìm thấy những lời khẳng định của các bậc
đại sư Ấn Ðộ, cụ thể là Thánh giả Long Thọ như thế này: “Chỉ thông qua
nhận thức về nhị đế mà một người có thể đạt đến sự giải thoát hoàn toàn.
Nếu ta không lưu tâm đến điều này, ta không thể đạt đến giải thoát.” Sự
khác biệt giữa giải thoát (Phạn ngữ: moksha), tức là tình trạng được giác
ngộ, và đối cực của nó, vô minh, tức là tình trạng ngu tối và nô lệ, chính
là sự hiểu biết hay u mê của ta về bản tánh rốt ráo của hiện tượng -Không
tánh.
Ðể diễn tả sự toàn tri toàn giác của một vị
Phật, ta nói đến hai mươi mốt loại trí tuệ căn bản và xuyên suốt, được chi
tiết hoá qua 146 loại trí tuệ siêu việt. Tất cả điều này đều được đặt căn
bản trên sự giả định rằng có một cái gì đó để cho ta nhận thức, nếu không,
ta không thể nào nói đến kiến thức hay trí tuệ.
Ðoạn trích dẫn ở trên được rút ra từ một
bản kinh có nội dung đề cập đến 14 câu hỏi được nêu ra mà không có câu trả
lời. Trong một tác phẩm của mình, “Tuệ Căn Luận” (Prajnamula), Thánh giả
Long Thọ đã bàn luận khá sâu về chủ đề này và đưa ra một số tiêu chuẩn để
ta có thể hiểu được tại sao Ðức Phật đã không trả lời về một số câu hỏi.
Trong số đó, Thánh giả Long Thọ đã giải thích rằng khi đưa ra một câu trả
lời khẳng định hay phủ định cho một câu hỏi mà hậu quả là có thể dẫn dắt
người đối thoại đến chỗ chấp thường hay chấp đoạn, Ðức Phật giữ thái độ im
lặng.
Cũng như thế, ta có thể tìm thấy trong luận
lý Phật giáo, bốn cơ sở luận lý được áp dụng vào ý niệm về không tánh có
thể cho phép chúng ta đi đến kết luận rằng bốn tà kiến được loại bỏ. Bốn
biên kiến này là hiện hữu tuyệt đối, hoàn toàn không hiện hữu, tuyệt đối
lẫn hoàn toàn không hiện hữu, và không hiện hữu tuyệt đối cũng không hoàn
toàn không hiện hữu. Nếu một thể tướng đã không hiện hữu ở mức độ ước lệ,
thì với lý luận như thế, đặc biệt làtrên quan điểm của biên kiến về hoàn
toàn không hiện hữu,thì nó hẵn là không phục vụ cho một mục tiêu nào cả.
Câu trả lời của tôi về câu hỏi này là, có sự hiện hữu của một thực tại của
thể tướng mà ta có thể nhận thức, tiếp cận được.
Ðối với vấn đề hiện hữu và không hiện hữu,
Thánh giả Long Thọ đã phát biểu một cách rõ ràng ở một trong những tác
phẩm của Ngài rằng, phủ nhận sự không có hiện hữu tự thân cũng giống như
khẳng định có sự hiện hữu tự thân. Ðây là một nguyên tắc lý luận được áp
dụng cho các thể tướng với bản thể mâu thuẫn trực tiếp, qua đó không những
sự phủ định một điều bao hàm sự khẳng định điều ngược lại mà còn loại bỏ
một khả năng thứ ba có thể được hiện hữu. Ngài Liên Hoa Giới
(Kamalashila), một đệ tử của đại luận giả Shantirakshita đã bảo vệ quan
điểm tương tự trong tác phẩm “Trang Nghiêm Trung Luận.” Lập trường của
Quy-mậu biện-chứng phái thuộc Trung Quán tông về vấn đề bản tánh của thực
tại phức tạp hơn. Nó bác bỏ tự thân, độc lập tính thông thường được gán
cho thể tướng. Thể tướng hiện hữu nhưng là do duyên sinh , các sự gán đặt
danh hiệu cũng thế. Thế nên không thể căn cứ vào điểm này để kết luận
rằng bất cứ những gì do tâm hình dung ra đều hiện hữu. Không những không
thể có chuyện mọi sự được tâm nhận biết hiện hữu, mà ngay cả nghiệp quả
cũng chỉ có một tác động giới hạn. Nói một cách cụ thể, luật nhân quả
không can dự vào ở một mức độ nào đó của thực tại. Triết học Phật giáo
hình dung ra bốn nguyên tắc căn bản, kể cả về bản tánh đặc biệt của một
hữu thể. Lấy thí dụ về sự tương tục: sự kiện mà những khoảnh khắc về trước
đưa đến những khoảnh khắc tiếp theo là một tiến trình tự nhiên chẳng dính
líu gì đến nghiệp lực cả.
Như thế ta đã nhận ra, theo Trung Quán -
Quy Mậu Biện Chứng phái, làm thế nào chúng ta phải thực hiện sự “đi dây”
và tìm ra một con đường trung dung giữa biên kiến chấp đoạn cho rằng thể
tướng không hiện hữu, và biên kiến chấp thường quan niệm rằng thể tướng có
một hữu thể mang tính chất độc lập và tuyệt đối.
Vấn đề duyên khởi không phải chỉ đặt ra cho
tình trạng của những đối tượng của từng giới -ví dụ như những đối tượng
của giới vật lý- nhưng nói chung cũng là tình trạng của mỗi một trong
những giới này, mà trong một mức độ nào đó được xem như là một kết quả
thực tiễn của những cấu trúc tượng trưng, những chiến lược luận đàm, những
tác động hổ tương trong thực hành. Tôi đã không có câu trả lời cho vấn đề
này nên xin được nêu lên một câu hỏi cùng Ðức Ðạt Lai Lạt Ma. Có hay không
những điểm gặp gỡ giữa lý thuyết bất nhị của tư tưởng Phật giáo, sự khẳng
định của nó về tánh không hoặc sự vắng mặt của nguyên nhân cơ bản với
luồng tư tưởng hiện đại, được chúng tôi đặc tính hoá như là sự nắm bắt
tương đối về đối thể, một sự nhận thức tương đối về chân lý, và sự chấp
nhận tính cách đa dạng của sự hợp lý hoá cũng như sự phong phú vô hạn của
thế giới ?
Trong khung cảnh của câu hỏi mà bạn vừa
nêu, trên quan điểm Phật giáo, tôi muốn khẳng định thêm một lần nữa về sự
cần thiết phải bảo tồn một con đường trung dung giữa hai biên kiến chấp
thường và chấp đoạn, một quan điểm trung dung khả dĩ khẳng định sự hiện
hữu của thể tướng như là một sự định danh nhưng đồng thời cũng hoàn toàn
bác bỏ sự hiện hữu tuyệt đối. Theo quan điểm của Quy-mậu biện-chứng phái,
cái nhìn triết học này được xem như là khó thực hiện nhất. Nói một cách
khác, sự khó khăn không phải hoàn toàn nằm ở chỗ phủ định sự hiện hữu tự
thân của thể tướng nhưng đồng thời cũng là sự nhận thức về những gì còn
lại ở đàng sau, cái thặng dư.
Khi ý niệm về nhị nguyên tính được gợi lên
trong bối cảnh Phật giáo, những ý nghĩa khác nhau của từ này cần phải được
lưu ý. Chẳng hạn như, ta có thể nói đến một ý thức bất nhị của sự nhận
thức cả hai thứ chân lý, tương đối và rốt ráo trong cùng một lúc; ta có
thể nói đến một ý thức bất nhị bao hàm ý nghĩa như là một trực giác về đối
thể mà không qua trung gian của một hình ảnh trong tâm trí; và cuối cùng,
ta cũng có thể nói đến một ý thức bất nhị mang ý nghĩa rằng đối thể của
nhận thức không còn xuất hiện như là một thực thể độc lập, tự do. Mức độ
tột cùng của bất nhị là trí tuệ siêu việt - là vô niệm, nhất như. Trí tuệ
này xuất hiện như là một phần của thực chứng thiền định, không hề liên hệ
đến loại nhận thức thông thường về một thực tại ước lệ.
Nhân đây tôi cũng rất hân hạnh được phát
biểu đôi điều về những gì tôi đã được lĩnh hội qua những cuộc tranh luận
của các thành viên trong hội nghị này. Tôi có cảm giác rằng, có thể là tôi
sai lầm, ý thức hệ Tây phương đang có khuynh hướng chuyển từ một thái cực
này sang một thái cực khác. Có vẻ như những khuôn mẫu cổ điển của khoa học
và kỹ thuật, trong quá khứ đã phải chịu một sức ép của nhu cầu đi tìm kiếm
những nền tảng vững chắc và những sự thật tuyệt đối, một điều mà cho đến
nay người ta thấy chỉ là những cố gắng vô ích. Thế nên bây giờø có một
tiến trình hoàn toàn đảo ngược, người ta hướng đến một cực đoan khác, chủ
nghĩa tương đối, cho rằng không có gì hiện hữu lâu dài, và kể cả có thể
không có cả một thực tại như thế! Hình như đã không có một khu vực tiếp
cận trung gian nằm giữa hai trạng thái cực đoan này được người ta quan tâm
đến. Ðó là những điều màtôi đã được mục kích. Người ta cũng thường nói đến
những khác biệt giữa nhận thức của ta về thế giới bên ngoài và thực tại, ý
niệm về sự mâu thuẫn giữa thái độ một bên ta nhìn thế giới và một bên thể
tướng hiện hữu cho phép ta suy ra sự hiện hữu ở một mức độ nào đó của thực
tại.
Xin tiếp tục câu hỏi kế tiếp!
Một sự kiện được ghi nhận là trong truyền
thống của Ngài có nói đến sự hiện hữu của tình trạng trong suốt, và cũng
đã có những tường trình về trường hợp của những người thực chứng được tình
trạng vi tế này của tâm, câu hỏi của chúng tôi gồm hai phần: Trước tiên,
về mặt lý thuyết Ngài có nghĩ rằng trạng thái vô thức của tâm như thế có
thể được quán sát bởi những phương tiện ngoại giới? Cụ thể như, nếu ta đặt
một thiền giả trong tình trạng đã đạt đến nguồn linh quang trong suốt vào
một trong những chiếc máy hiện đại của chúng ta với từ trường cộng hưởng,
sử dụng kỹ thuật não -động-ký, chúng ta có thể ghi nhận được một cái gì đó
như là những dấu hiệu của tình trạng vi tế này? Có thể là chúng ta chưa
biết cách phải làm như thế nào, tuy nhiên trên mặt lý thuyết Ngài có tin
rằng điều này có thể xảy ra?
Nếu đúng như vậy thì theo ý kiến của Ngài,
mối quan hệ giữa hai mức độ, thô và tế, trong phạm trù của duyên khởi sẽ
như thế nào? Dĩ nhiên là chúng tôi không muốn rơi vào một chủ nghĩa nhị
nguyên mới, của thô và tế. Chúng tôi muốn biết bản chất của mối quan hệ
nhân quả giữa hai mức độ này là cái gì?
Theo tôi nghĩ, có thể là điều rất khó khăn
để đo lường một hoạt động đặc biệt nào đó của tâm vừa bao gồm cả sự phản
ánh một đối thể đồng thời nhận biết nó. Tuy nhiên qua những kinh nghiệm
được biết về ý thức thô lậu xuất hiện trong hoạt động của não bộ và do đó
có thể quan sát được, hình như người ta có thể nghiên cứu được những biểu
kiến vật lý về những trạng thái vi tế hơn của tâm thức. Mức độ vi tế của
thức, được biết dưới tên gọi là “nguồn linh quang trong suốt”, xuất hiện
đồng thời cùng với những thứ khác ngay khoảnh khắc khi ta chết. Những
người có trình độ tu chứng có thể kéo dài tình trạng này một cách tự
nguyện nhiều ngày sau khi chết và trong thời gian này thể xác của họ sẽ
không bị thối rửa. Các phương tiện khoa học tối tân hiện đại có thể quan
sát được hiện tượng này và thực ra đã được đem ra thực hiện tại Ấn Ðộ. Mặc
dù đối với tôi hình như quả là điều khó khăn khi sử dụng những phương
pháp này để quan sát toàn bộ tình trạng vi tế của tâm thức, thế nhưng tôi
nghĩ điều này có thể mang lại cho ta một ý niệm.
Ðể trả lời cho câu hỏi thứ hai liên quan
đến mối quan hệ giữa thô lậu thức và vi tế thức, thiết tưởng bạn cần nên
biết rằng mức độ vi tế của tâm thức tùy thuộc một phần vào mức độ vi tế
của bộ phận thể chất nâng đỡ nó cũng như vào các bộ phận chức năng tương
ứng, tức lục căn. Tuy nhiên cái bộ phận được chia xẻ bởi tất cả ý thức
-vừa phản ánh vừa nhận biết đối thể- có xuất xứ từ vi tế thức. Bằng cách
này ta có thể hiểu được mối liên hệ căn bản giữa mức độ vi tế và thô lậu
của tâm thức. Cảm thụ và ý thức được sản sinh tùy thuộc vào những bộ phận
chức năng tương ứng với mỗi thành phần của lục căn: nhãn căn cho ta thị
giác; ý căn cho ta ý thức, v.v... Bởi vì bộ phận nâng đỡ chúng ở trong
tình trạng thô lậu hơn, cảm thức xúc giác được coi như thô lậu hơn so với
ý thức. Tuy nhiên tất cả đều có khả năng phản ánh và nhận biết đối thể,
một khả năng được bắt nguồn từ nền tảng cơ sở là vi tế thức, tức là nguồn
linh quang trong suốt. Những kinh sách của Phật giáo Mật tông có đề cập
đến cách thức mà qua đó những mức độ của thô lậu thức được nối kết với vi
tế thức. Chẳng hạn như kinh sách đã giải thích rõ bằng cách nào mà tám
mươi tình trạng của ý thức tương ứng với bốn cấp độ của việc thẩm thấu thô
lậu thức vào vi tế thức được xảy ra trong khi chết. Những sợi dây nối kết
giữa những mức độ khác nhau của tâm cũng đã được minh hoạ chi tiết, tuy
nhiên đây là một chủ đề khá phức tạp và rất khó khăn để có thể đi sâu vào
trong lúc này.
Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến vấn đề thực
chứng giá trị của các thể tướng bởi ý thức, và qua đó những điều kiện nhân
duyên hợp nhất chúng. Tạm thời để qua một bên một số những tương đồng -khá
thích thú- giữa Phật pháp và nền khoa học hiện đại, chúng tôi muốn biết
Phật giáo có thể cống hiến thêm những gì cơ bản hơn cho phương Tây. Ðặc
biệt chúng tôi đang nghĩ đến khía cạnh thực hành thiền định: với một tâm
thức rộng mở và ý thức về không gian và thời gian được đổi mới có thể cho
ta những thông tin khoa học có khả năng mở cửa vào một “thực tại” thực sự
có ý thức hơn, để cho khoa học không còn thuần túy chỉ là chuyện “giả
tưởng” đầy hấp dẫn liên quan đến các đề tài vật chất/năng lượng, không
gian/chiều thời gian, sự vô thực thể của hiện tượng, v.v...
Tôi không có câu trả lời ngay lập tức cho
câu hỏi này, tuy nhiên có một số gợi ý sau đây xin được nêu lên cùng qúy
vị. Quả thật là một điều khá thích thú khi được liên hệ những ý tưởng này
với một số loại thể tướng được đề cập đến trong một số kinh văn Phật
giáo. Ta có các loại sắc tướng, danh sắc không do các vật chất thô lậu cấu
thành (một trong những đặc tính của nó là rắn chắc) mà là những thể dạng
vi tế, được sắp xếp vào năm loại chính. Loại thứ nhất là những thể dạng
bắt nguồn từ sự tập hợp của vô số lượng phân tử cực kỳ nhỏ chẳng hạn như
nguyên tử. Chúng được mô tả là có hình cầu nhưng không thấy đề cập đến màu
sắc. Kế đến là loại thức tướng về khoảng chân không, mà theo nhận thức
thông thường, sự xuất hiện của chúng được biết như là bầu trời. Tôi nghĩ
rằng khoa học hiện đại có thể cung cấp nhiều lý giải về đề tài này và đã
thành công trong việc làm cho chúng trở nên dễ dàng lãnh hội hơn. Trong
thực tế, nó sẽ là những phân tử của chân không hay của ánh sáng? Hai loại
thể tướng vi tế này được hầu hết mọi người chấp nhận và không phải là
những sản phẩm do tâm tạo.
Loại thể dạng vi tế thứ ba bao gồm những
gì mà ta có thể hình dung ra và chỉ có thể xuất hiện trong khi đang hành
thiền, tuy nhiên chỉ có hành giả là có thể thấy được chúng cũng như chúng
không có khả năng thực hiện các chức năng thông thường. Loại kế tiếp là
những thể dạng được sáng tạo do năng lực của chỉ quán; đây là những thể
tướng có xuất xứ từ các yếu tố của tứ đại (đất, nước, gió, lửa,) thông qua
công năng tu tập thiền định, những người hành trì đã thành công xuất sắc
trong việc khai phá được năng lực tập trung tư tưởng của họ. Những thể
tướng này không những được thể nghiệm bởi chính người hành thiền mà còn cả
với những người khác. Chẳng hạn như với lối thiền định này, hành giả có
thể tạo ra lửa -lửa với đầy đủ chức năng của nó là đốt cháy và phát
nhiệt. Có vẻ như là một điều lạ kỳ khi thể dạng này được tạo ra bằng
thiền định. Tôi không biết được một cách chắc chắn làm thế nào để lý giải
hay hiểu được chuyện này. Tuy nhiên tôi biết là chúng không hiện hữu lâu
dài sau khi được tạo nên, có thể chỉ kéo dài trong khoảng thời gian hành
thiền. Các loại thể dạng thứ ba và thứ tư vừa được đề cập ở trên xin được
gởi đến cho các nhà khoa học để họ quán chiếu! Nếu những thể tướng này
hiện hữu, như vậy chúng đã được tạo ra bằng cách nào?
Từ trước đến giờ ta chỉ đề cập đến những
thông tin được chứa đựng trong các kinh điển Hiển giáo. Bên cạnh đó chúng
ta cũng có thể khảo sát chúng dưới ánh sáng của Mật tông, một tông phái
của Phật giáo có khả năng đối trị một cách đầy đủ về bản thể của những khí
lực ít hay nhiều vi tế.
THỰC TẠI VÀ ẢO ẢNH
Xin Ngài cho biết ýniệm về thời gian trong
Phật giáo?
Xin lỗi, tôi hiểu lầm sự chuyển ngữ Tây
Tạng của câu hỏi; trong ngôn ngữ của chúng tôi hai tiếng “ma qủy” và “thời
gian” phát âm từa tựa nhau, và thế là tôi đang sắp sửa chuẩn bị nói chuyện
cùng qúy vị về vấn đề ma qủy theo quan điểm Phật giáo!
Giáo lý của Phật giáo đã đưa ra nhiều luận
điểm về thời gian. Trường phái Kinh Lượng Bộ (Sautantrika,) còn được gọi
là “Kinh Thủ” khẳng định rằng tất cả mọi thể tướng và sự kiện chỉ hiện hữu
ngay trong khoảnh khắc hiện tại. Ðối với trường phái này, quá khứ và tương
lai không gì khác hơn là những khái niệm, những cấu trúc tinh thần đơn
giản. Còn đối với Trung Quán - Quy Mậu Biện Chứng phái, Hệ Quả Biện Chứng
phái của Trung Ðạo thì giải thích thời gian theo tính cách tương đối, xem
đó như là một thực thể trừu tượng dùng để mô tả sự tiếp nối của một sự
kiện hay một hiện tượng do tâm khai triển ra trên căn bản của sự gán đặt.
Quan điểm triết học nàynhư thế đã mô tả thời gian như là một khái niệm
trừu tượng mà chức năng của nó tùy thuộc vào tính tương tục của hiện
tượng. Từ quan điểm này, việc cố gắng giải thích thời gian như là một
thực thể độc lập, không tùy thuộc vào một hữu thể nào là không có cơ sở
chứng minh. Như vậy một điều khá rõ ràng rằng thời gian là một thể tướng
tương đối và không thể ở trong tình trạng độc lập; Tôi thường hay nêu thí
dụ về những đối thể ngoại giới có thể được dễ dàng nhận ra khi đặt chúng
trong bối cảnh quá khứ hay tương lai, thế nhưng đối với khoảnh khắc hiện
tại thì có vẻ như khó mà nhận thức được chúng. Chúng ta có thể chia thời
gian thành từng thế kỷ, thập niên, năm, tháng, ngày, giờ, phút, giây. Thế
nhưng giây lại cũng có thể được chia ra thành nhiều phần nhỏ hơn, một phần
triệu giây chẳng hạn, và như vậy ta có thể đánh mất đi sự nắm bắt ý niệm
về quảng thời gian hiện tại một cách dễ dàng!
Ý thức cũng thế, nó không có quá khứ và
tương lai mà chỉ biết đến những khoảnh khắc hiện tại; đó là sự tương tục
của một khoảnh khắc hiện tại này được biến thành một khoảnh khắc hiện tại
khác, trong khi đó với những đối thể ngoại giới, hiện tại biến mất nhường
chỗ cho các ý niệm về quá khứ và tương lai. Tuy nhiên nếu theo đuổi luận
lý này xa hơn sẽ dẫn ta đến chỗ phi lý, bởi vì để mở cánh cửa vào quá khứ
hay tương lai ta lại cần một cái khung bản lề, trong trường hợp này, tức
là hiện tại, mà ta đã mất hết dấu vết của nó khi chia nhỏ ra thành từng
phần triệu giây...
Nếu ý thức không có điểm khởi đầu cũng như
chung cuộc, và nếu nó vô thường, phải chăng nó cũng bị lão hoá như một
ngôi nhà cũ, đổi thay trong từng khoảnh khắc? Và nếu như nó không có sắc
tướng, màu sắc, mùi vị, làm thế nào nó lại có thể biến đổi được?
Trước tiên, chúng ta cố gắng đồng ý cùng
nhau trên khái niệm còn mơ hồ về ý thức, về tâm. Ta chỉ mới có một tri
kiến rất thô thiển và hạn hẹp về ý thức. Tham vọng muốn hoàn hảo hóa tri
kiến này thông qua quá trình nghiên cứu phân tích đưa ta đến sự khám phá
về nguồn linh quang trong suốt và nhận biết được bản thể của ý thức. Một
vấn đề cực kỳ quan trọng là phải biết cách làm thế nào để nhận ra đối
tượng mà ta đang phân tích, trong trường hợp này tức là bản thể của ý
thức. Một khi chúng ta nhận biết được bản thể của ý thức mà đặc tính chính
là vô hình và vô ngại, chúng ta có thể dùng nó để đối chiếu với các đối
thể ngoại giới và một loại thể tướng thứ ba, những khái niệm trừu tượng,
như ý niệm về thời gian và thay đổi vốn không mang cùng bản thể của ý thức
cũng như không phải là những vật thể. Ghi nhớ kỹ ba hạng mục này -những
vật thể, tâm, và những ý niệm trừu tượng- ta có thể nhận diện được ý thức
bằng cách so sánh nó với hai loại thể tướng khác. Một khi chúng ta có một
tri kiến rõ ràng về bản thể của nó, không những ta sẽ có được một kinh
nghiệm rất tỉnh thức về tiến trình đổi thay xuất hiện ngay chính trong
lòng ý thức mà còn có khả năng hiểu được bằng cách nào ý thức và kinh
nghiệm về ý thức hoàn toàn tùy thuộc vào khoảnh khắc trước nó. Chỉ có
khoảnh khắc ý thức trước nó mới có thể dẫn đến khoảnh khắc ý thức tiếp
theo -ngoài ra không có gì khác có thể có được tính năng đó.
Tôi nghĩ là chúng ta không thể bàn về sự
tương tục của ý thức khi chỉ thuần túy dựa trên khái niệm về niên đại học.
Khái niệm về niên đại học mà qua đó là sự lão hoá chỉ có ý nghĩa đối với
thế giới vật chất, chẳng hạn như thể xác con người. Trên mức độ của các ý
thức cá biệt chẳng hạn như các tính năng cảm giác, ta có thể dùng từ “lão
hoá” này để liên hệ đến bình diện sinh lý, tức là xác thân con người;
trong trường hợp những ý thức cảm giác, sự lão hoá phần lớn tiến triển
đồng bộ với điều kiện sinh lý hoá của từng cá nhân. Cả hai sự tiến triển
này không mang tính độc lập. Thế nên ta chỉ có thể nói đến “sự lão hoá của
ý thức cảm giác” nếu ta liên hệ sự khẳng định này với tiến trình sinh học,
sinh lý học, tức là những việc không thể áp dụng được đối với tâm thức.
Một điều quan trọng đối với tôi là hãy quán
chiếu trên bản thể của ý thức, phân biệt được các loại ý thức khác nhau
cùng bản thể của chúng. Kinh điển Phật giáo quan niệm rằng những tưởng uẩn
về cảm thụ, chẳng hạn như nhãn thức, là trực tiếp chứ không phải nhận
thức; nhãn thức thâu nhận trực tiếp sắc tướng mà không hề phân biệt rằng
nó xấu hay tốt, thích hay là không thích. Sự phân biệt xảy ra ở mức độ
nhận thức, bao gồm một tiến trình lý giải phức tạp hơn là một cảm thụ đơn
thuần.
Theo tất cả những điều mà người ta quan tâm
về tâm thức, thế giới của nhận thức tư tưởng, ta có thể phân biệt chúng ra
nhiều mức độ vi tế khác nhau, từ thô lậu cho đến cực kỳ vi tế, đều được
dẫn chứng bằng các tư liệu cụ thể trong hệ thống mật tông. Não bộ, các
đường dây thần kinh, các khớp thần kinh, v.v... đều có quan hệ với ý thức,
và điều này đã mở ra một địa bàn rộng lớn để cho ta nghiên cứu khi liên hệ
chúng với những gì mà ngôn ngữ mật tông gọi là khí lực (Tây Tạng: lung;
Phạn ngữ: prana).
Nghiên cứu về bản chất đúng đắn của mối
liên hệ giữa não bộ, ý thức, và khí lực là một vấn đề khá thích thú. Khi
tất cả mọi chức năng của não bộ ngưng hoạt động và tất cả mọi điều kiện
sinh lý biến mất, hình như tiến trình của ý thức vẫn còn tiếp tục hiện hữu
dưới một dạng nào đó. Ðiều này đã được quan sát qua kinh nghiệm của một số
vị lạt ma đã chứng đắc mà xác thân của họ, mặc dù đã được xác nhận lâm
sàng là chết, vẫn giữ được vẻ tươi nhuận không hề bị thối rửa sau nhiều
ngày hoặc nhiều tuần. Ở giai đoạn này, quan điểm Phật giáo cho rằng cá
nhân đó chưa hoàn toàn chết hẵn mà đang tiếp tục diễn tiến qua một tiến
trình lâm tử và đang ở trong tình trạng của ý thức vi tế. Tôi nghĩ là các
nhà khoa học nên có một lý giải hợp lý cho những trường hợp như thế khi
thể xác không bị thối rửa mặc dù tất cả mọi chức năng của não bộ và thân
xác đã ngưng hoạt động.
Kinh sách cũng đã nêu ra những trường hợp
của các hành giả tu thiền đã học được cách khai mở những khả năng siêu
nhiên để có thể dùng tâm của mình tạo nên những vật thể hay những nguyên
tố của tứ đại như gió, lửa, không phải chỉ riêng mình họ mà các người khác
cũng có thể nhận biết được. Ngoài ra cũng có một số loại đối thể khác do
tâm tạo chỉ riêng hành giả mới nhận biết mà thôi. Như vậy, nếu đã có một
kết quả - vật thể do tâm tạo ra- tức là phải có nhân và duyên cùng chung
bản thể. Tôi cũng tự hỏi là phải chăng những đối thể này chỉ hiện hữu
trong khi hành giả đang thiền định, và chấm dứt ngay sau giai đoạn hành
thiền. Tôi cũng không thể biết được nguyên liệu vật chất của vật thể do
tâm tạo này thuộc loại gì. Ðó là một câu hỏi mà tôi xin được nêu lên cùng
cộng đồng tăng lữ: Có thể nào ý thức lại biến thành nguyên liệu vật chất
của các vật thể? Mật tông, cụ thể là phái Guyasamaja, có nói đến ảo thân
do nguyên liệu vật chất cấu thành, hàm ý rằng đó là khí lực thuộc dạng vi
tế mà họ xem như là một phần của thế giới vật chất. Có thể nói là tôi rất
hoang mang trước vấn nạn này.
Ảo giác đã được bắt đầu như thế nào?
Cũng giống như sự tương tục của tâm không
có điểm bắt đầu, thì vô minh cũng thế. Bởi vì nếu nó có điểm khởi đầu, ta
phải tìm ra được ngay từ bên trong một trạng thái của ý thức xảy ra trước
vô minh và khác với chính nó -trong một tâm thức giác ngộ- tức là một cái
nhân tạo nên cái quả là vô minh này. Ðiều đó không hợp lý một chút nào cả.
Thưa Ngài, có hay không một cái nhân đầu
tiên cho tất cả mọi nguyên nhân?
Tuyệt đối không. Một cách tổng quát, nhân
không có gốc nguồn và bởi lẽ đó, quả cũng thế. Tuy nhiên ta cũng có thể
nói rằng, trong một khung cảnh rất đặc biệt nào đó, một số trường hợp nhân
và quả có điểm khởi đầu. Khi ta thiết định rằng sự tương tục của tâm không
có điểm khởi đầu, lại muốn tìm cho ra một điểm khởi đầu của nhân thì hiển
nhiên là một chuyện rất mâu thuẩn! Như bạn biết, luận lý của Phật giáo khá
chặt chẽ. Ngay từ khi chấp nhận rằng tâm không có điểm khởi đầu, ta có thể
khẳng định một cách hợp lý và quả quyết rằng nhân và quả cũng thế.
Sự nhận thức của con người về thế giới bên
ngoài chắc chắn là khác xa với những tạo vật khác, như côn trùng chẳng
hạn. Như vậy có hay không một thế giới hiện hữu một cách độc lập đối với
những nhận thức khác biệt này? Còn một vị Phật thì nhận thức điều gì về
thế giới? Phải chăng thế giới được nhận biết hoàn toàn tùy thuộc vào các
dạng ý thức khác nhau, hay là nó chỉ được hiện hữu qua các kinh nghiệm cảm
thụ?
Ðây là một vấn đề khá phức tạp. Chúng tôi
sẽ cố gắng trả lời câu hỏi này trên quan điểm nhận thức của con người bằng
cách dùng thí dụ về một đối thể. Mỗi người đều có một nhận thức mà trong
thực tế cho thấy là không được hoàn chỉnh lắm, bởi vì đương sự không thể
nhìn thấy đối thể từ mọi góc cạnh; súc vật cũng gặp những hạn chế như vậy.
Thế nhưng ta vẫn có thể xác nhận là ta đã nhận thấy đối thể. Một điều khá
quan trọng cũng cần nên ghi nhớ là nhận thức của ta về thế giới hiện tượng
thường bị ảnh hưởng bởi kiến chấp sai lầm về thực tướng của hiện hữu.
Còn về nhận thức của một vị Phật thì quả
thật là không biết phải nói như thế nào. Tuy nhiên một điều chắc chắn là:
Nhận thức của một vị Phật về thế giới hoàn toàn không bị vướng mắc bởi bất
cứ phóng chiếu nào mà thế nhân mắc phải -không bị ràng buộc bởi tâm nắm
bắt về thế giới, về thể tướng, và tất cả mọi sự việc, bởi vì nó được hiện
hữu một cách độc lập và tự do đối với cái tâm đang nhận biết nó. Việc nghĩ
đến một đối thể của nhận thức độc lập đối với tâm đang nhận thức nó sẽ đưa
ta đến một vấn đề là chúng ta nên chấp nhận hay không một thực tại ngoại
giới tách biệt đối với tâm. Ðề tài này đã được đào sâu trong học thuyết
Phật giáo. Hình như không có chuyện sự hiện hữu của một đối thể đặc biệt
nào đó lại cần phải được đi kèm theo một nhận thức về nó. Lấy một thí dụ
cụ thể, ta hãy tưởng tượng rằng trong phòng này không có ai cả và cuốn
sách này đang nằm ở trên bàn. Như vậy cuốn sách này vẫn hiện hữu ở đây cho
dù không có ai nhìn thấy nó.
Dĩ nhiên chúng ta cũng có thể thảo luận về
rất nhiều hiện tượng mà ta khó có thể tìm hiểu ngọn ngành cũng như không
có được một hiểu biết rõ ràng về chúng. Tuy nhiên thật khó mà đi đến một
khẳng định chặt chẽ rằng một thể tướng lại có thể hiện hữu một cách hoàn
toàn độc lập, không lệ thuộc vào nhận thức và tâm. Một quan điểm như thế,
theo tôi, thật khó mà bảo vệ. Trên quan điểm Phật giáo, không có một thể
tướng nào hiện hữu mà không thể được nhận biết bởi tâm của một vị Phật.
Hãy để qua một bên cái tâm toàn tri toàn giác của Ðấng Giác Ngộ, một phạm
trù có thể nói là bấy khả tư nghị, ta hãy lấy một trường hợp cụ thể là
trước cùng một sự kiện hay hiện tượng, thế nhưng có người có thể hoàn toàn
không hiểu gì cả, người khác thì hiểu một cách lờ mờ, nhưng đối với người
thứ ba thì lại rất rõ ràng, hiển nhiên. Thí dụ này là một hình dung rõ nét
về ý tưởng cho rằng một thế giới ngoại tại hoàn toàn độc lập với nhận thức
hoặc tâm thức là điều không thể xảy ra.
Tôi xin được kể một câu chuyện về hai tăng
sinh đang sống tại Tây Tạng. Một người nói với người kia rằng y có một câu
hỏi liên quan đến bản chất triết học muốn nêu lên: “Phải chăng cái cột của
ngôi chùa này là một cấu trúc của tâm? Nếu không có ai ở trong phòng này,
cái cột có tiếp tục còn là một sự gán đặt của ý thức? Tôi luôn luôn hoài
nghi về đề mục này.” Người tăng sinh thứ hai trả lời rằng anh ta đã nêu
lên một vấn đề tương đối khó khăn, thế nhưng ta có thể suy nghĩ rằng nếu
cái cột là một cấu trúc do tâm tạo, cái ý thức định danh không nhất thiết
là phải luôn gắn liền với vật được định danh, bởi vì cái cột vẫn luôn luôn
là cái cột. Cũng tương tự như thế, những ai đang nghiên cứu, học tập những
kinh sách đó đều được gọi là tăng sinh. Tuy nhiên họ không cần thiết phải
tối ngày ngồi kế bên những cuốn kinh này để tiếp tục được gọi bằng danh
hiệu như thế; cho dù là họ đang ngủ, đang ăn, đang thiền hành, nhãn hiệu
“tăng sinh” vẫn gắn chặt với họ.
Nếu ta kiến tánh, ta có còn nhận thức về
nhị nguyên tính? Nói một cách khác, làm thế nào mà một cái tâm bất nhị
nhận thức được sự hiện hữu của nhị nguyên đối đải, cụ thể là giữa những
người đang mang gánh nặng khổ đau?
Nhị nguyên tính có thể được hiểu qua nhiều
mức độ khác nhau: Nhị nguyên tính về chủ thể và đối thể, nhị nguyên tính
về phân biệt, và nhị nguyên tính về các sắc tướng ước lệ, tức là về thế
giới tương đối. Tâm của một vị Phật đã hoàn toàn không còn vướng mắc vào
các nhận thức hình tượng, thế nên cũng không còn bị ràng buộc vào các
phóng chiếu nhị nguyên. Mặc dù nó cũng không còn bị vướng mắc bởi ý thức
phân biệt giữa chủ thể và đối thể, nhận thức của một vị Phật về thế giới
ước lệ này không phải là hoàn toàn biến mất. Bao lâu mà một vị Phật còn an
trú trong mức độ nhị nguyên, tách biệt thế giới hiện tượng của sắc tướng
với tánh không chân thật của nó, ngài vẫn sẽ có những nhận thức và kinh
nghiệm của thế giới tương đối. Tuy nhiên vì đây là tuệ giác của Phật nên
nó vẫn hoàn toàn khác biệt với nhận thức thông thường của con người chúng
ta. Nhận thức thông thường của chúng ta về các thể tướng và sự kiện như
là những hữu thể độc lập, xem chúng như đang sở hữu một chân thân và tự
tánh. Mặc dù một vị Phật đã không còn vướng mắc vào sự vô minh cơ bản này,
tâm toàn tri toàn giác của Ngài dĩ nhiên vẫn hiểu được tâm của một con
người bình thường vốn bị che lấp bởi các ảo ảnh, xem thể tướng của hiện
tượng cùng các sắc tướng mà họ nhận thức đều là thực tại.
Thế giới ước lệ có thể được phân ra làm hai
loại -nhiễm và bất nhiễm- và có thể được lý giải bởi nhiều cách khác nhau.
Chúng ta có thể khẳng định rằng bất cứ loại hình kinh nghiệm nào bị tập
nhiễm bởi tập quán bản năng của vô minh và bởi sự nắm bắt thực tại như là
một thực thể tự thân và độc lập đều được coi như là bị tập nhiễm, hay ô
nhiễm. Ðây là cách thức thông thường mà con người nhận thức hầu hết các
thể tướng của thế giới ước lệ. Trái lại, những nét đặc biệt của một vị
Phật, cụ thể như tám mươi tướng chính và phụ của Ngài, được gọi là thể
tướng bất nhiễm bởi vì đây là những đặc tính thuần khiết của tâm giác ngộ,
nhất tri kiến. Chúng được xem là thuần khiết bởi vì ngay từ căn nguyên
chúng cũng đã không hề bị tập nhiễm. Khi một thân tướng biểu kiến của một
vị Phật xuất hiện trong cõi người, ta không thể tìm ra ở Ngài một dấu vết
bất tịnh nào mà ta thường thấy do nhận thức thông thường của con người,
ảnh hưởng bởi kiến chấp vô minh về sự hiện hữu tự thân và độc lập của sự
vật, sự kiện, sẽ tiếp tục phóng chiếu kiến chấp sai lầm này lên những phẩm
chất thực sự của một vị Phật.
Về vấn đề những tri kiến của con người thế
gian, những sản phẩm đơn thuần của một cái tâm bị che mờ, có thể xuất hiện
ở chư Phật hay không, tôi xin trả lời ngay là không: một Ðấng Giác Ngộ
biết rằng con người bị ảnh hưởng bởi tà kiến, tuy nhiên bản thân Ngài
không bao giờ mang những nhận thức lầm lạc đó. Ðối với câu hỏi, “Một vị
Phật có thể còn thể nghiệm khổ đau hay không?”, tôi xin được trả lời thêm
một lần nữa là không, bởi vì đạt thành Phật quả tức là giải phóng ra khỏi
mọi khổ đau, chấm dứt mọi khổ đau; tuy nhiên điều này không có nghĩa là
một vị Phật không có khả năng nhận thức khổ đau. Ngài đã thực chứng được
tâm đại từ bi và luôn luôn thương xót cho nỗi khổ đau của mọi loài chúng
sinh. Ðể kết luận, chúng ta cần phải biết phân biệt giữa tri kiến về tri
kiến của một vị Phật và kinh nghiệm cá nhân của chúng ta.
Bằng cách nào chư Phật có thể hiện hữu khi
họ đã loại bỏ hoàn toàn mọi nhân duyên dẫn đến luân hồi sinh tử và niết
bàn? Có thể nào tất cả họ đều là một và hoàn toàn giống nhau?
Trường phái triết học Kỳ-Na giáo cho rằng
những ô nhiễm tâm linh chiếm lĩnh bản tánh của tâm và cho đến khi nào sự
tương tục của tâm chưa chấm dứt, những dấu ấn này vẫn tiếp tục tồn tại.
Phật giáo đã đưa ra một giải đáp cho vấn đề này, cho rằng bản tánh chân
thật của tâm không hề mang vết nhơ, thói xấu; những loạn động liên quan
đến những tập nhiễm do hoàn cảnh ngoại lai có thể tạo nên những đau buồn,
phiền não. Một khi đã thực chứng Phật quả, cá thể của một con người vẫn
tiếp tục hiện hữu; trong trường hợp này ta gọi là cá thể đồng nhất tính
của một vị Phật.
Tuy nhiên Kinh điển Phật giáo nhấn mạnh một
sự kiện rằng tất cả chư Phật đều “đồng vị cảnh” trong cảnh giới của tánh
không. Ðiều này có thể được hiểu qua ý niệm về sự bình đẳng, chẳng hạn như
bình đẳng trong phẩm chất của tâm, bình đẳng tánh trí, v.v... Tất cả chư
Phật đều ngang hàng và tương đương trong tận hư không biến pháp giới.
Trong phối cảnh chung của chư Phật, tất cả đều có cùng những năng lực giúp
đỡ mọi loài chúng sinh. Tuy nhiên đối với hai vị Phật lịch sử, Ca Diếp và
Thích Ca Mâu Ni, trong phối cảnh của con người bình thường với những
nghiệp lực khác nhau, chúng ta có những mối liên hệ nghiệp quả gần gũi với
Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni hơn là Phật Ca Diếp, sống xa cách chúng ta hằng
bao nhiêu kỷ nguyên.
Nhĩ thức có chú ý đến khoảng im lặng giữa
nhận thức về hai âm thanh?
Có thể. Bởi vì ta có thể nhận ra được sự
vắng mặt của âm thanh. Tuy nhiên cái gì là tánh nghe thực sự? Phải chăng
có một nhĩ thức thực sự nhận biết sự im lặng?
Ngài có thể cho chúng tôi biết sự khác nhau
giữa thực chứng tánh không và bản lai diện mục?
Tánh không được mô tả trong Hiển giáo và
Mật giáo hoàn toàn không giống với bản tánh của tâm. Trong bối cảnh của
mật tông, bản tánh của tâm có vẻ như hoàn toàn khác xa với tánh không của
tâm. Các học giả Tây Tạng đã bất đồng ý kiến trên hai quan điểm khác biệt.
Về tánh không, một trường phái cho rằng cả Hiễn giáo lẫn Mật giáo đều có
quan điểm giống nhau. Lập trường này phát xuất từ sự đánh giá cao về tánh
không khách quan, tức là tánh không của một đối thể. Trường phái thứ hai
xác minh sự hiện hữu của những khác biệt trong kinh nghiệm chủ quan về
tánh không. Một sự thật cho thấy là từ quan điểm của nhận thức chủ quan về
tánh không, khi ta đối đầu với sự nhận biết về bản tánh của tâm, Mật giáo
khác biệt sâu xa với truyền thống của Hiễn giáo.
Có thể nào cho rằng Phật an trụ trong trạng
thái thường hằng bất biến của Phật quả trong khi mọi sự đều luôn luôn biến
chuyển, đổi thay?
Một cách tổng quát, khi nói đến Phật quả,
ta nói đến Pháp thân, tức là thân uyên nguyên của một vị Phật. Một trong
vô số những khía cạnh khác là thân tướng biểu kiến của ngài, tức là Hóa
thân. Phật quả mang cả hai tính chất thường và vô thường; nó là những hệ
quả của một sự gắn bó với con đường tâm linh, tương quan với một tiến
trình của tịnh hoá và viên mãn. Bạn quan niệm như thế nào về “thường?” Ðôi
khi người ta dùng sự bất tử đánh giá Phật quả. Ta cũng gọi đó là thường.
Hãy để ý đến những tác hành của một vị Phật: không ngưng nghỉ và có mặt
khắp nơi. Một vị Phật hành động một cách tự phát, không một mảy may gián
đoạn hay ngừng nghỉ. Trên bình diện này ta có thể xem Phật quả là thường
hằng. Nguồn linh quang trong suốt của tâm, hay ý thức uyên nguyên (Tạng
ngữ: rigpa), đôi khi cũng còn được gọi là nguồn thanh quang tự phát
(lhundrup). Sự biểu thị này mô tả Phật quả mang tính chất không
cỗi nguồn, vô thủy. Mặc dù tập nhiễm và loạn động có thể tác động lên tâm,
thế nhưng yếu tánh của tâm vẫn luôn luôn thuần khiết. Ðiều này cũng bao
hàm rằng đã không có một sự khác biệt rốt ráo nào giữa luân hồi sinh tử và
niết bàn.
Ðạo sư Jigmed Tenpe Nyima cho rằng Phật quả
-trong tình trạng vô thuỷ- nên nó làvô sinh và vô cấu. Tuy nhiên nói như
vậy không có nghĩa rằng nó không phải là sản phẩm của nhân duyên; chỉ nhấn
mạnh cho ta thấy tính chất tương tục của nó là bất biến và vô sinh. Từ
quan điểm này, ta có thể nói rằng nó thường hằng và không bao giờ bị gián
đoạn, cho dù ở trong bất cứ trạng thái nào.
Ngài vừa cho rằng chân lý rốt ráo vượt ra
ngoài tầm tri thức. Nếu tri thức không thể nắm bắt được nó thì cái gì có
thể làm được việc này? Làm thế nào để có thể nhận ra nó?
Ðiều trước tiên, chúng ta hãy làm sáng tỏ ý
nghĩa của hai tiếng “tri thức”. Ngài Tịch Thiên trong Nhập Bồ Ðề Hành Kinh
cho rằng chân lý rốt ráo không hề là đối tượng của tri thức. “Chân lý rốt
ráo” ở đây có nghĩa là tánh không, và “tri thức” tức là nhị nguyên đối
đải. Một số đoạn trong tác phẩm Nhập Trung Luận (Madhyamakavatara) của
ngài Nguyệt Xứng (Chandrakirti), khi nói về sự đình chỉ của ý thức trong
trạng thái Phật quả, cũng có những luận điểm tương tự với sự khẳng định
này. Thế nên chúng ta phải biết phân biệt giữa tri thức như là một tình
trạng thô lậu của ý thức và một thể dạng vi tế hơn. Tri thức, tiếng Tây
Tạng là lo, chủ yếu nhằm liên hệ đến một số loại ý thức. Lời khẳng
định còn mang một ý nghĩa rộng hơn; khi nói rằng chân lý rốt ráo không
phải là một đối thể của tri thức, chúng ta không nên tưởng tượng rằng chân
lý rốt ráo không thể bị nắm bắt bởi một thể dạng nào đó của tri thức, mà
muốn liên hệ đến ý thức nhị nguyên đối đãi-tức ý thức phân biệt. Một cách
chính xác hơn, tôi muốn nói thêm rằng, chân lý rốt ráo không thể được nhận
thức một cách trực tiếp bởi ý thức nhị nguyên, bởi lẽ ý thức phân biệt vốn
hoạt động trên căn bản của hình ảnh và khái niệm.
Sau đây là một thí dụ khác có thể giúp qúy
vị hiểu thêm về lời phát biểu của Ngài Tịch Thiên: Lạt ma Kunu Rinpoche
thường có thói quen trích dẫn những câu nói của Ðại sư Pandit Rong Zompa
thuộc Ninh Mã phái, khẳng định rằng trong trạng thái Phật quả không hề có
sự hiện hữu của ý thức, trí tuệ, cũng như kiến thức siêu việt. Thế nhưng
cũng một vị Ðại sư khác của Ninh Mã Phái, ngài Longchenpa lại có một quan
điểm hoàn toàn trái ngược. Thế nên trường phái này đã chia rẽ nhau trên
hai quan điểm bất đồng liên hệ đến sự hiện hữu của ý thức và trí tuệ trong
Phật quả. Trong một tác phẩm của mình, Ðạo sư Jigmed Tenpe Nyima đã trích
dẫn một câu nói của Terton Kepo thuộc truyền thống Ðại Du Già, cho rằng
tâm (Tạng ngữ: sem) hiệnhữu ngay cả trong trạng thái Phật quả. Như
vậy tâm, từ quan điểm cho rằng nó tách biệt với ý thức uyên nguyên (Tạng
ngữ: rigpa), có hiện hữu trong trạng thái giác ngộ hay không? Ðây
là một vấn nạn mà chúng ta hiện nay cần nên lưu tâm đến. Mặt khác, tâm
-được hiểu theo khái niệm thông thường như là sự bao gồm tất cả các loại ý
thức và tri thức- chắc chắn hiện hữu trong trạng thái Phật quả. Thế nên
điều quan trọng là ta cần phải lưu ý về ý nghĩa của những từ được dùng tùy
thuộc vào ngữ cảnh của nó.
Hãy lấy thí dụ về từ rigpa chẳng
hạn, Phạn ngữ gọi là vidya, tức là minh, nhưng đồng thời nó cũng có thể có
những ý nghĩa khác nhau, đôi khi được hiểu một cách tổng quát như là ý
thức, một từ ngữ bao gồm chung các trạng thái của ý thức, biểu kiến cũng
như không biểu kiến; có lúc ý nghĩa của nó chân xác và chuyên biệt hơn khi
chỉ về tình trạng uyên nguyên của ý thức. Trong câu hỏi của qúy vị,
rigpa được hiểu như là tri giác hay là minh, được dùng trong ý nghĩa
của tuệ giác vốn đối nghịch với trạng thái vô minh của tâm. Và bởi vì vô
minh, trong một khía cạnh nào đó, cũng là một khía cạnh của ý thức -một
cách nhìn, cách hiểu vấn đề- thế nên ta dễ dàng khẳng định rằng nó cũng là
một thể dạng của rigpa, hãy lưu ý đến sự tương phản đối nghịch giữa
tuệ giác của ý thức uyên nguyên với tâm vô minh.
Những điều trong Trung Quán nói về ý nghĩa
của ngôn từ thật chính xác biết bao! Họ khẳng định rằng ta phải cảnh giác
không nên lúc nào cũng bám víu vào ý nghĩa của văn tự, bởi vì nó luôn luôn
liên hệ chặt chẽ với ý hướng của người sử dụng, ý hướng này hoàn toàn tùy
thuộc vào vị thế và khung cảnh mà nó muốn liên hệ. Ðó là lý do tại sao
rigpa không nhất thiết luôn luôn phải mang cùng một ý nghĩa, nhưng tùy
thuộc vào người sử dụng, ngữ cảnh và thời điểm mà nó được dùng. Chúng ta
không nên quá mù quáng chú trọng vào văn mà quên nghĩa!
Trở lại câu hỏi của qúy vị, một điều quan
trọng khác là ta cũng cần nên hiểu rõ ý nghĩa của từ “rốt ráo”. Trong tác
phẩm “Nhận thức rõ về Trung Ðạo từ Biên Kiến” (Uta Namche) Ngài Di Lặc sử
dụng từ này theo ba cách khác nhau: ý nghĩa rốt ráo nhằm liên hệ đến tánh
không; mục tiêu rốt ráo tức là niết bàn, và những phương tiện rốt ráo tức
là Ðạo. Trong một bối cảnh khác, nó có thể được hiểu theo một cách khác.
Rốt ráo, trong câu hỏi của quý vị, liên hệ đến những gì cần phải được loại
trừ. Khi ta khẳng định rằng mọi hiện tượng đều không có hiện hữu rốt ráo,
ta đang nghĩ đến tính cách chủ quan, tình trạng độc lập của chúng do sự
nắm bắt bởi vô minh. Rốt ráo cũng có thể được dùng trong khung cảnh làm
thế nào để ta có thể nắm bắt trí tuệ, tức là tuệ giác thực chứng tánh
không. Chúng ta cũng thỉnh thoảng cho rằng đạt đến tri kiến không tánh tức
là đạt đến tâm rốt ráo.
Thưa Ngài, ý niệm về tánh không có thể đưa
con người đến tâm trạng sợ hãi bị rơi vào nỗi cô đơn, một cảm giác hoàn
toàn bị cô lập. Chẳng còn gì nữa cả -không còn đối thể, không có ai để bám
víu, không có ai để yêu thương. Làm thế nào để ta có thể loại trừ được nỗi
sợ hãi này và đi đến sự thực chứng về tánh không?
Tôi nghĩ là bạn còn đang mơ hồ chưa phân
biệt được giữa tánh không với hư không và hư vô. Tôi khuyên bạn nên tìm
hiểu ý nghĩa của tánh không trong khung cảnh duyên sinh của mọi hiện
tượng. Thông thường ta nương tựa nặng nề vào nguyên lý duyên sinh để hiểu
biết về tánh không. Tại sao ta lại không thể đảo ngược thủ tục này? Bởi vì
nếu các hiện tượng, sự kiện không có sự hiện hữu tự thân, ta gọi chúng là
rỗng không. Nếu như sự hiện hữu của chúng hình thành do các điều kiện nhân
duyên, ta gọi chúng là duyên sinh. Mặc dù thực chứng tánh không trong
khung cảnh duyên sinh được biết là rất khó khăn, chắc chắn là bạn sẽ phải
tìm cách vượt qua nỗi sợ hãi bằng cách đặc biệt chú ý đến khía cạnh này.
Lấy trường hợp những người tu tập thiền
định theo lối linh ảnh du già (hay bổn tôn du già); một trong những nét
đặc biệt của phái này là đạt đến sự tan biến của mọi thể tướng vào tánh
không, và một điều xảy ra là, ở mức độ đại định này chúng ta có thể cảm
thấy bị cô lập bởi vì lúc đó mọi sắc tướng đã biến mất hoàn toàn, thể nhập
vào tình trạng hư không, rất gần giống với hư vô. Tôi không biết chắc là
nỗi sợ hãi mà bạn vừa đề cập đến đã xuất hiện như là kết quả của những
quán tưởng của linh ảnh du già, khi mọi sắc tướng đã tan biến vào thể
không, hay là cảm thức cô lập này bắt nguồn từ những thiền quán về tánh
không, sự trống rỗng của hiện hữu tự thân. Hiểu rõ sự khác biệt giữa hai
vấn đề này là một điều cực kỳ quan trọng, từ đó mới có thể xác định được
một cách rõ ràng nguồn gốc nỗi sợ hãi của bạn. Nếu nỗi sợ hãi này xuất
hiện trong khi bạn đang thiền quán về tánh không, có thể bạn sẽ rơi vào
một trong hai loại sau đây: thứ nhất, bạn cảm thấy như bị kích động, giống
như trải qua một đột biến bất ngờ. Nỗi hoảng kinh này là hoàn toàn tự
nhiên và dễ hiểu, nếu không nói là đúng như ta mong đợi. Tại sao? Bởi lẽ
trước đó, khi kinh nghiệm này chưa xảy ra, tất cả những khái niệm của bạn
về mọi thể tướng hiện hữu đều vững chắc, cứng rắn; xem chúng như là những
hiện hữu độc lập, tự thân. Một nhận thức đúng đắn về tánh không sẽ giúp
bạn loại bỏ được nỗi sợ hãi này một cách tự nhiên. Nếu như trường hợp vừa
nói không xảy ra, bạn sẽ rơi vào loại sợ hãi thứ hai liên hệ tới tà kiến
sai lầm của chủ nghĩa hư vô, của cảm giác cho rằng không có gì hiện hữu,
không có gì đáng phải quan tâm.
Làm thế nào và tại sao chúng ta lại có thể
tiếp tục sống ngày này qua ngày khác trong một thế giới không có gì hiện
hữu thực sự, ngay cả mục tiêu mà ta vươn tới là Phật quả cũng không hiện
hữu? Tại sao chúng ta lại phải bận tâm đến chuyện đi theo con đường tu
tập, và nói cho cùng, cuộc sống có ý nghĩa gì?
Trong chuyến thăm viếng Anh Quốc vừa rồi,
sau những buổi nói chuyện và thuyết pháp tại đây, một số người cũng đã nêu
lên một câu hỏi tương tự: “Nếu như mọi thể tướng và sự kiện đều không hiện
hữu hoặc không có bản sắc tự tánh, một điều hiễn nhiên là ta không có lý
do gì để bàn về bản sắc cả. Như vậy vấn đề đặt ra là ta phải làm gì để tạo
nó ra một cách chắc chắn?” Nghe qua điều này tôi nhận ra rằng vị này chắc
đã suy nghĩ về vấn nạn này rất sâu sắc, bởi vì nó phản ánh điểm then chốt
nhất trong triết học Trung Quán. Khi trường phái này dùng cụm từ như “cái
tên đơn giản” hay là “sự định danh đơn giản,” từ “đơn giản” được dùng ở
đây không mang ý nghĩa chối từ thực tại của thể tướng hay sự hiện hữu của
nó bị tách ra khỏi cái tên gọi. Ðồng thời nó cũng không hề mang ý nghĩa
rằng chẳng có gì hiện hữu ngoài cái tên gọi hay là sự định danh. Khi ta
nói đến một cái tên đơn giản, một sự gán đặt đơn giản hay là một sự định
danh đơn giản không có nghĩa là ta phủ nhận những đối thể ngoại giới. Bởi
vì một thể tướng là một sản phẩm của nhân duyên, nó phải hiện hữu. Khi nói
đến tánh không của một thể tướng tức là ta hình dung ra cái bản tánh rốt
ráo của nó; bởi thế nó cũng phải hiện hữu nếu như ta có được những tri
kiến về thực tại rốt ráo của thể tướng này. Ngược lại nếu ta chỉ chạy đi
tìm cái vật ám chỉ thực sự ẩn dấu đằng sau từ ngữ, tức là cái khái niệm,
ta sẽ chẳng tìm thấy được gì cả. Sẽ chẳng bao giờ tìm ra được đối thể mà
bạn tìm kiếm. Thế cho nên, sự hiện hữu của nó chỉ có thể được hình dung ra
ở mức độ hiện tượng, tương đối và ước lệ; không bao giờ ở tình trạng rốt
ráo hay tuyệt đối.
Nếu chúng ta khẳng định rằng mọi thể tướng
đều chẳng có gì khác hơn là những cấu trúc do tâm tạo, dưới dạng của những
định danh đơn giản -những giả danh-, điều này không bao hàm ý nghĩa rằng
mọi vật mà tâm có thể tạo ra đều biến thành thực tại, bởi vì nói như thế
tức là ta lại rơi vào kiến chấp của chủ nghĩa tương đối cực đoan, khác
biệt khá xa với triết học Trung Quán. Ta phải loại bỏ bất cứ sự xác nhận
cực đoan nào cho rằng mọi thứ do tâm tạo đều có một thực tại khách quan.
Ðồng thời cũng không nên đi đến kết luận rằng tâm không tạo ra gì cả. Dĩ
nhiên có một mối quan hệ nào đó giữa thể tướng và tâm, thế nhưng do sản
phẩm của tâm không tương ứng với thực tại đúng đắn của thể tướng, điều này
đã tạo nên những ảo giác và sắc tướng sai lầm. Và rồi đến lượt tâm -hay
nói rõ hơn, ý thức- khi tạo ra những phóng chiếu sai lầm như thế cũng đi
vào con đường sai lầm nốt, vì đã không phù hợp với thực tại.
Bây giờ ta hãy lấy một thí dụ cụ thể. Hãy
nhìn cuốn sách trước mặt tôi. Ðây là nước Pháp vốn có một loại bánh mì nổi
tiếng gọi là baguette; nếu bạn đứng từ xa nhìn vào cuốn sách này và
tưởng tượng rằng đó là một cái bánh mì baguette, cho dù lòng tin
của bạn có mạnh mẽ đến cách mấy đi nữa cũng chẳng làm thay đổi được gì
-bạn không thể biến bản thể của cuốn sách thành bánh mì. Bạn không bao giờ
có thể thay đổi được thực tại của cuốn sách. Nếu bạn cứ khăng khăng cho
rằng bạn chỉ thấy cái bánh mì baguette, điều này được gọi là ảo ảnh
của một tiến trình hình tượng hoá, một hình ảnh giả tưởng do tâm tạo chẳng
có mảy may dính líu gì với cơ sở thực tế. Tuy nhiên trong trường hợp này,
nhận thức của người trông thấy cuốn sách là có cơ sở vững chắc, bởi vì nó
tương ứng với thực tại. Có một sự tương ứng giữa đối thể trước mặt tôi và
cái tánh biết do ý thức tạo nên. Bây giờ chúng ta đang đối diện với hai
loại nhận thức, tất cả đều thuộc phạm trù sắc tướng. Cái thứ nhất nắm bắt
sắc tướng của cái bánh mì baguette, cái kia là cuốn sách. Một cái
đã bị biến đổi, sai lạc, cái kia thì có giá trị, đúng đắn. Tuy nhiên nếu
ta hỏi đến một người thứ ba để nhờ họ xác minh vật thể đang nằm trên bàn
là cái gì, người này có thể dẹp bỏ tất cả mối nghi hoặc và loại trừ sự
hiểu lầm, vô hiệu hóa cái nhận thức cho rằng đó là bánh mì nhằm khẳng định
cái nhận thức sách, bằng cách đi thẳng đến cái bàn, sờ vào đối thể và
tuyên bố rằng: “Ðây không phải là bánh mì, đây là cuốn sách.” Nhận thức
này không thể bị vô hiệu hoá, nó vẫn luôn có giá trị trong khung cảnh của
sự thật ước lệ: tâm nhận biết có sự hiện diện của cuốn sách ở đằng kia,
trên cái bàn. Một sự nhận thức như thế dĩ nhiên không phải là hệ quả của
một cung cách suy nghĩ triết học rốt ráo và đó là lý do tại sao ta không
thể vô hiệu hoá thực tại tương đối của nó thông qua sự phân tích rốt ráo.
Tuy nhiên cái nhận thức cho rằng đó là bánh mì thì rất dễ dàng bị phủ nhận
và vô hiệu hoá bởi nhận thức đúng đắn về cuốn sách.
Ðây là một thí dụ khác: Trường phái Duy
Thức học xác định rằng sự hiện hữu cơ bản của tàng thức là nền tảng của
tất cả mọi tri kiến của con người. Bởi vì nó không phải là một bản thể ước
lệ, một sự phân tích rốt ráo về cái thức này có thể vô hiệu hoá sự khẳng
định đó. Như thế, một quan điểm triết học rốt ráo về thực tại có thể bị
bác bỏ bằng một sự phân tích mang tính triết học về bản tánh uyên nguyên
của thực tại đó.
Trở lại vấn đề cuốn sách trên cái bàn,
người ta có thể xác minh sự hiện hữu của nó bằng một tiêu chuẩn khách quan
có giá trị một cách ước lệ, một nhận thức mà không thể nào bị vô hiệu hoá
bởi một kinh nghiệm có giá trị ước lệ khác hay là bằng sự phân tích rốt
ráo. Tuy nhiên nếu ta muốn tìm hiểu một cách chính xác cuốn sách là cái gì
-phải chăng đó là tập hợp của những trang sách, phải chăng mỗi trang sách
cũng là cuốn sách, v.v...- ta sẽ đi đến kết luận là cuối cùng cái khái
niệm nguyên thủy về cuốn sách cũng biến mất. Nếu cứ tiếp tục phân tích mổ
xẻ cuốn sách ra thành từng phần, từng trang, hình dáng, màu sắc, cho đến
các thành tố cơ bản nhất của nó -nguyên tử và phân tử, v.v...- khái niệm
ban đầu của một cuốn sách bằng xương bằng thịt sẽ không còn hiện hữu. Ta
sẽ đi đến một điểm là tạo ra thêm một từ ngữ mới, có thể tạm gọi là “bất
khả tầm” về một cuốn sách như ta đã từng được biết. Thế nhưng một điều
chắc chắn là cuốn sách đã hiện hữu. Chúng ta không thể phủ nhận thực tại
này cho dù sự phân tích rốt ráo về những gì cấu thành sự vật trung thực
được ám chỉ, núp bóng đằng sau danh từ “cuốn sách” không mang lại một cái
gì cả, và do đó ta không thể định vị hoá được nó. Như thế, kết luận được
rút ra từ những dẫn giải vừa rồi là, cuốn sách hiện hữu -cho dù ngay cả
việc ta chứng minh là không thể tìm ra một cuốn sách như thế ngay từ khi
bắt đầu một cuộc tìm kiếm rốt ráo- tuy nhiên hiện hữu này chỉ là giả danh,
ước lệ, và tương đối.
Ta chỉ có thể phân biệt được sự hiện hữu và
hiện hữu tự thân qua từng mức độ thực chứng, và tuệ giác của chúng ta về
tánh không tăng trưởng với thời gian. Càng tiến bộ bao nhiêu về tuệ giác
và sự thực chứng trực tiếp, chúng ta càng có khả năng hơn để phân biệt
giữa cái gì là hiện hữu tự thân và cái gì không phải. Ðó là cốt tuỷ của
vấn đề. Ở một thời điểm, hiện tượng có thể xuất hiện trước mắt ta có vẻ
như vững chãi, rắn chắc, như là chúng đã mang sắc tướng của một thực tại
khách quan; thế nhưng điều này lại mâu thuẫn trực tiếp với một thực tại
khác, đó là sự vắng mặt của một hiện hữu độc lập. Tuệ giác về tánh không
của ta càng viên mãn, ta sẽ càng có khả năng đạt đến việc phủ nhận sự hiện
hữu tự thân, mà những hệ quả của sự phủ định này sẽ đưa ta đến một tình
trạng được gọi là điều kiện hoá giản đơn, và ở mức độ tri kiến này, chỉ
qua sắc tướng đơn thuần của một vật thể là một điều kiện đủ để ta nhận ra
ngay tánh không của bản thể của sự vật, sự trực nhận tánh không này mang
theo cùng với nó niềm tin vững chãi hơn vào sự hiện hữu hiển nhiên của đối
thể.
Tôi quan niệm rằng mức độ của thực tại này
chỉ có thể được xác định bằng thực chứng, sau khi ta đã thành công bác bỏ
sự hiện hữu độc lập, tự thân của mọi thể tướng. Tôi chưa chứng đắc đến
trình độ này nên rất khó để nói về nó. Không có một phương pháp nào khác
hơn là quán chiếu và thiền định về tánh không sẽ đưa ta đến sự thực chứng
này, trình độ thực chứng nhìn thấy thực tại đúng như là thực tại. Bằng con
đường này mà thực tại được tri kiến: ở mức độ của cái tên đơn giản, sự
định danh đơn giản, và sự vắng mặt của một hiện hữu tự thân, độc lập, hoàn
toàn tự do. Ðây là tất cả những gì được triết thuyết Phật giáo Trung Quán
chấp nhận.
Ðể kết luận, khi ta phân biệt giữa ta và
người khác, giữa sinh tử luân hồi và niết bàn, giữa những phân cực mà ta
thiết định nên, ta đang nhận thức chúng y như là chúng đã thuộc về một
loại hiện hữu khách quan, độc lập có thể được mô tả như là sự ám chỉ trung
thực của những danh từ “ngã” “tha nhân”, “luân hồi”, “niết bàn,” v.v...
Tính cách nhị nguyên của những phân cực này cho thấy một điều là chúng ta
đã gán cho hiện tượng một sự hiện hữu độc lập và tự thân, sự hiện hữu mà
ngay chính bản thân nó cũng đã là đối tượng đầu tiên bị bác bỏ khi ta
thiền định về tánh không.
Ngài vừa phát biểu rằng tâm của con người
không thể tự khảo sát chính nó, giống như một lưỡi gươm không thể tự cắt
mình. Thế nhưng kinh nghiệm cho thấy tâm có thể khảo sát một đối thể ngoại
giới dễ dàng cũng như nó có thể nắm bắt chính nó. Tâm có thể tìm cách để
hiểu chính mình, hiểu phẩm chất và bản tánh của mình. Chẳng hạn như tâm
của ta quán sát được rằng nó không phải là vật chất, nó được phú cho có ý
thức và mục đích của nó là mưu cầu nhận thức vàhiểu biết cũng giống như
mắt để nhìn và tay để sờ mó. Ðem so sánh sự tương đồng giữa tâm và lưỡi
gươm là không đúng đắn vì lưỡi gươm là một vật thể khái niệm, tự nó không
có chức năng. Thế nhưng, tay có thể sờ chính nó và như thế có thể tự nắm
bắt sắc tướng của chính nó. Ngài quan niệm như thế nào về vấn đề này?
Dĩ nhiên chúng ta có thể thiền định về tâm
tịch tĩnh bằng cách dùng tâm như là một đối thể của chỉ quán. Tâm cũng
nhận ra được bản thể của chính mình. Thế nhưng chúng ta hiện đang đối diện
với nhiều loại tâm khác nhau. Tính năng tự tri của tâm là một chuyện khác
nữa, tuy nhiên một sự phân loại ý thức hầu như đã được các trường phái
triết học Phật giáo nghiên cứu một cách thấu đáo. Khi đại sư Yeshe Nyingpo
đưa ra lời bình phẩm về chương chín của tác phẩm Nhập Bồ Ðề Hành Kinh, đã
hoàn toàn bác bỏ khái niệm về tính năng tự tri, svasamvedana, yếu
tính khác biệt đã trở nên rõ ràng. Những người ủng hộ sự hiện hữu của
svasamvedana chia tâm ra thành hai phạm trù chính; một cái tâm chỉ
nhắm vào các đối thể ngoại giới, còn cái kia có tính năng tự tri mang tính
chất tổng giác và bất nhị, không có khả năng nhận biết bất cứ thực tại
ngoại giới nào. Tác phẩm của ngài Thánh Thiên (Shantideva) cũng phủ nhận
tính năng này tuy nhiên không loại trừ khả năng là tâm có thể nhận biết
cái tâm khác hoặc chính bản tánh của nó. Như vậy, qua những điều đã được
trình bày, nếu bạn chấp nhận có một cái tính năng tổng giác của tâm, sau
khi quán sát kỹ lưỡng vấn đề bạn sẽ thấy đây chỉ là một loại tâm đặc biệt
có khả năng nhận biết chính nó. Ðó là lý do tại sao chúng ta không thể
chứng minh một cách chặt chẽ rằng một cái tâm như thế có một chức năng nào
đó.
Phải chăng tâm là một bộ phận nội quan của
cơ thể? Như thế phải chăng nó cần phải có thể xác để hiện hữu? Các ý niệm
về hư không tạng và phổ thân có thể được xem tương tự như một cái thân thứ
ba của Phật, Pháp thân?
Theo tôi nghĩ trước tiên chúng ta cần phải
biết phân biệt giữa các mức độ thô thiển và vi tế của thân. Cái phần vi
tế nhất của thân không bao giờ có thể được tách rời ra khỏi tâm. Cũng
giống như tâm, nó là vô thủy và vô chung. Chính cái thân này sẽ đạt thành
Phật quả. Những ý thức thô thiển chỉ liên hệ với mức độ thô thiển của thể
xác và chúng sẽ không còn hiện hữu khi thể xác bị hoại diệt; đó là điều mà
ta nói rằng tâm của con người ngưng hiện hữu cùng với thể xác con người mà
nó nương trú. Chúng tùy thuộc vào nhau. Tuy nhiên, tâm thức con người chỉ
có thể hiện hữu nhờ nương tựa vào một cái gì đó có cùng thể tánh với nó;
điểm nương tựa này chính là nguồn linh quang trong suốt cơ bản của tâm.
Cái tâm cực vi tế này không cần phải tùy thuộc vào các điều kiện nhân
duyên sinh lý của thể xác để hiện hữu. Ðây là lý do giải thích tại sao ta
có thể hình dung ra một trạng thái mà tâm vi tế có thể hiện hữu tách biệt
với thể xác thô lậu của con người chúng ta. Cái ý thức vi tế này bao gồm
một phần không thể tách rời, đó là khí lực vi tế, mà chính nó là một thể
dạng của thân vi tế.
Ngài vừa cho rằng một cá nhân phải thanh
lọc hết tất cả các uẩn cấu tạo nên thân, và tâm mới có thể loại trừ được
khổ đau. Phải chăng điều này có nghĩa là ta cũng phải làm tan biến đi khái
niệm về sắc thân của chúng ta và của người khác?
Trên quan điểm cá nhân, sự thanh lọc năm
uẩn đưa đến sự chấm dứt vòng luân hồi sinh tử. Tuy nhiên trên quan điểm
tổng quát, vòng luân hồi sinh tử không có điểm kết thúc. Mười sáu hạng
mục của tánh không chỉ rõ rằng tánh không của vòng luân hồi là vô thủy lẫn
vô chung. Trên phương diện này có lẽ ta không cần phải lo lắng là thế
giới này có đi đến ngày tận thế hay không. Tất cả mọi người đều có Phật
tánh, tức là nguồn linh quang trong suốt của tâm. Vấn đề đặt ra là với
tiềm năng như thế, mỗi chúng ta có thể thực chứng được sự giác ngộ hoàn
toàn hay không. Tất cả chúng ta đều có tiềm năng này, thế nhưng chúng sanh
thì vô biên, vô số lượng, ta không thể nào quan niệm được một thời điểm
kết thúc dứt khoát của vòng luân hồi sinh tử cho toàn bộ chúng sanh.
Ngài cũng vừa cho biết rằng bản tánh uyên
nguyên của tâm là ánh sáng và thuần khiết. Tại sao trong suốt cuộc đời
mình, không lúc nào ta có thể tự động nhận biết được nó?
Ðồng thời chúng ta cũng không thể thực
chứng được nó, phải không? Theo sự lý giải cuả Tân Trường Phái Truyền
Thừa, cho rằng bản tánh của tâm, nguồn linh quang trong suốt vi tế, sẽ
không xuất hiện và thực hiện chức năng ở những mức độ thô lậu của tâm như
cảm thụ và tiến trình của ý thức phân biệt đang còn hoạt động. Nó có đó
nhưng trong trạng thái tiềm ẩn. Trong Ðại Viên Mãn (Dzogchen), có một kỹ
thuật đặc biệt có thể giúp ta nhận ra được rigpa, ý thức uyên
nguyên, mà không cần phải làm tan biến đi những trạng thái thô lậu của
tâm. Giống như dầu có thể xuyên suốt qua toàn thể hột mè, yếu tánh của
nguồn linh quang trong suốt có thể xuyên suốt từng sự thực chứng của tâm.
Ðó là lý do tại sao ta có thể thực chứng về tri kiến của ý thức uyên
nguyên này -nguồn linh quang trong suốt, yếu tánh của tâm- cho dù các cảm
thụ và tiến trình tâm thức chưa hoàn toàn ngưng nghỉ. Tuy nhiên cho dù bất
cứ trường hợp nào đi nữa, ta chỉ có thể nhận ra nó qua trình độ tu chứng
của một kinh nghiệm tâm linh. Ta không thể nhận ra nó bằng mắt thường hay
đưa ra một lời giải thích, một sự miêu tả chính xác bằng ngôn ngữ thế tục.
Tại sao chúng ta lại không thể nhận ra bản
tánh một cách tự động? Một lý do giản dị là vì nó cực kỳ vi tế. Bạn đã
biết rằng tánh không là bản tánh rốt ráo của tâm, tuy nhiên chỉ qua thiền
quán và thực chứng bạn mới có thể có khả năng nhận biết nó. Còn nếu chúng
ta đi xa hơn nữa và nêu lên nghi vấn rằng tại sao ta lại không thể nhận ra
những điểm vi tế này một cách tự động, tôi chỉ có thể trả lời rằng đây là
điều hoàn toàn tự nhiên, sự việc là như thế.
Phải chăng luật tiến hoá đã bị phủ nhận khi
cho rằng sau kiếp người ta có thể tái sanh thành súc vật?
Luật tiến hoá phải được hiểu trong khung
cảnh của sự tiến hoá vật lý. Khi ám chỉ rằng con người có thể trở thành
súc vật trong những kiếp kế tiếp, điều này không hề liên quan gì đến sự
tiến hoá vật lý nhưng mà liên hệ đến một khía cạnh khác biệt, tức là vấn
đề ý thức và khả năng của nó có thể xuất hiện dưới những dạng thức khác
của đời sống.
Nếu có những người bị đầu thai vào một loài
thấp kém hơn, chúngï có thể tác tạo nên đủ nghiệp tốt để có thể tái sanh
trở lại làm người?
Tổng quát mà nói, điều đó rất khó, tuy
nhiên trong một số tình huống nào đó có thể là các nghiệp lực tiềm ẩn tích
lũy từ những kiếp trước lại tác động tạo điều kiện thuận lợi cho một kiếp
tái sanh tốt lành hơn. Ðể cho điều này có thể xảy ra dĩ nhiên chúng ta
phải gieo trồng nghiệp tốt vào dòng sinh thức của chúng ta trước khi bị
rơi vào một cảnh giới thấp hơn lúc tái sanh.
Sự may rủi có chiếm một vị trí nào không
trong bối cảnh Phật giáo, hay tất cả mọi việc đều hoàn toàn tùy thuộc vào
luật duyên sinh của hiện tượng và ý niệm về nghiệp lực?
Câu trả lời tổng quát của tôi cho vấn đề
này là tất cả đều tùy thuộc vào nghiệp lực. Hãy nhìn vào kinh nghiệm sống
hàng ngày của chúng ta và để ý đến những lúc chúng ta buột miệng thốt lên:
“Ồ, hôm nay tôi thật là may mắn!” hoặc “Thật là cái ngày xui xẻo!” Tuy
dùng những câu nói như thế nhưng tôi nghĩ rằng chúng ta đã liên hệ những
kinh nghiệm trải qua trong đời sống hàng ngày này với ý niệm về nghiệp
lực. Có rất nhiều yếu tố khác nhau tạo thành nhân duyên của một tác hành
mà ta phải lưu tâm đến, đồng thời ta cũng phải biết phân biệt giữa nhân và
những duyên sinh. Dĩ nhiên đây không phải là điều dễ dàng đối với chúng ta
cho dù là ở mức độ hời hợt nhất. Có không biết bao nhiêu yếu tố cấu thành
sự kiện được gọi là những điều kiện gián tiếp. Khi ta nói một cách mơ hồ
rằng sự việc xảy ra do may rủi là bởi vì ta không thấy rõ nguyên do. Vấn
nạn là ở chỗ đó: những nguyên do thường là không rõ ràng một chút nào cả.
Nếu chúng ta đặt mình trong khung cảnh của
định luật nghiệp quả, tôi xin được lý giải như sau: Khi những sự kiện xảy
ra đến một mức độ gây cho ta cảm giác khoan khoái hay khó chịu, đó chính
là lúc mà nghiệp lực biểu hiện một cách rõ ràng. Nếu bạn phủ nhận sự can
dự của nghiệp lực, bạn có thể thiết định rằng sự tương tục của thân xác
bạn -thông qua sự tiếp nối dòng dõi của cha mẹ, ông bà, và tất cả tổ tiên
cuả mình- cuối cùng đưa bạn trở về lại nguồn gốc của vũ trụ này. Thế nhưng
hệ thống Mật thừa Thời Luân (Kalachakra) mô tả thể nền ban sơ của thế giới
vật chất của vũ trụ này là một khoảng chân không của những phân tử còn sót
lại của một vũ trụ đã bị hoại diệt trước đó trước khi một vũ trụ khác được
cấu thành. Tất cả mọi vật thể đều được cô đặc lại thành những phân tử này
và đó là yếu tố vật chất cấu thành mọi thể hình biểu kiến trong vũ trụ. Sự
tiếp diễn của tiến trình này không thể gán cho nghiệp lực; đó chỉ là một
sự tiến hoá tự nhiên. Mặc dù tất cả phân tử chân không đều có cùng một bản
thể giống nhau, những phản ứng đa dạng xảy ra giữa chúng đã tạo nên những
vật hữu tình cụ thể như thể xác con người và những vật vô tình như đá sỏi
chẳng hạn.
Cũng đừng nên quên rằng mọi loài chúng sanh
và môi trường đều gắn bó chặt chẽ với nhau. Mối quan hệ này mang bản chất
nghiệp quả. Tuy nhiên tôi không nghĩ rằng chúng ta có thể lý giải sự tiếp
diễn của tiến trình tiến hoá cấu thành vũ trụ là do tác động của nghiệp
lực. Chúng ta không thể cho rằng chính nghiệp lực đã hoạt hóa tiến trình
này cũng như không thể gán cho đó là quyền năng của chư Phật. Hơn thế nữa,
ta phải nói như thế nào trước sự kiện tất cả mọi thể tướng đã không có sự
hiện hữu tự thân? Tánh không này dĩ nhiên không phải là một sản phẩm của
nghiệp quả và ngay cả những cảm thức vui mừng, buồn phiền của con người
cũng thế. Ngoài ra vô số những khả năng và tiềm năng khác của các cấu trúc
hoá học cũng không thể gán cho là do ảnh hưởng của nghiệp lực, mà thật ra
chỉ là những định luật tự nhiên. Như vậy thì ở cấp độ nào nghiệp lực bắt
đầu đóng một vai trò tích cực, và ở mức nào ta xem đó chỉ là định luật tự
nhiên? Có thể nói đây là một phạm trù khá thích thú cho công cuộc khảo cứu
nhằm tìm hiểu ngay ở điểm nào thì luật tự nhiên nhường chỗ cho ảnh hưởng
của nghiệp quả xen vào. Hãy nhìn vào cánh hoa uất kim hương trước mặt
tôi: sự kiện mà nó hiện hữu ở đây ngay tại phút giây này, không nghi ngờ
gì nữa, tôi cho rằng có quan hệ tới ảnh hưởng của nghiệp lực. Tuy nhiên
nghiệp lực không dính dấp gì tới số lượng nước cần phải tưới và ánh mặt
trời cần thiết để cho cánh hoa tăng trưởng; tất cả những điều này được xem
như thuộc về cơ cấu hóa học của cành hoa, không liên hệ gì đến nghiệp
lực.
Và như thế, ta có thể lý giải sự may mắn
hay may rủi ở những mức độ khác nhau.
Ngài vừa đưa ra thí dụ về cánh hoa, cho
rằng những phản ứng hoá học của chúng chẳng liên hệ gì tới nghiệp lực, thế
nhưng sự hiện hữu của cánh hoa uất kim hương này có thể là một hệ quả của
nghiệp lực. Xin Ngài vui lòng giải thích rõ về điểm này.
Một cánh hoa có thể được tăng trưởng do kết
quả của những phản ứng hóa học; đây là định luật tự nhiên. Tại sao quả lại
do nhân tác thành? Mối liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả như thế nào?
Ðây là một nguyên lý tự nhiên mà nghiệp lực không đóng một vai trò gì cả.
Chỉ là luật nhân quả. Ðịnh nghiệp chỉ có thể phát huy tác dụng trong phạm
trù của luật nhân quả, hay nói khác hơn, nó chỉ là một phần của luật nhân
quả. Luật nhân quả bao trùm một phạm vi rộng lớn hơn là định nghiệp, vốn
nằm trong luật nhân quả. Thế nên ta không thể gán toàn bộ luật nhân quả
cho định nghiệp.
Cụ thể hơn ta hãy nhìn một cái cây với hàng
ngàn ngọn lá có sắc thái màu vàng khác nhau. Khi mùa thu đến, chúng được
chuyển qua những sắc thái màu đỏ. Cái gì đã làm cho những ngọn lá này có
màu vàng đậm hơn là những ngọn lá khác? Tại sao có những ngọn lá lại mang
màu đỏ thẩm hơn? Rồi đến khi lá rơi, tại sao có lá lại bay đi khá xa, có
lá lại rơi ngay ở kế thân cây, và tất cả đã không rời khỏi thân cây cùng
một lúc? Tôi đã không thấy được bằng cách nào nghiệp lực có thể tạo nên
những điều kiện tác hành đặc biệt liên hệ đến tiến trình tự nhiên này.
Bằng cách nào nghiệp lực lại có thể làm cho vài ngọn lá rơi vương vải về
phía đông, trong khi những ngọn lá khác lại rơi về phía nam? Thế nhưng
những vi sinh vật sống trên những ngọn lá này và rơi cùng với chúng đều là
những đối tượng của định nghiệp; một cách cụ thể, tôi cho rằng nghiệp quả
đã dự phần vào sự kiện là chúng đang mất chỗ trú ẩn. Tuy nhiên thành thật
mà nói tôi đã không có một ý niệm dứt khoát nào về chủ đề này. Nhưng cho
dù bất cứ trường hợp nào đi nữa, một điều cho ta thấy rõ ràng rằng luật
nhân quả là một định luật tự nhiên , không phải là sản phẩm của một ông
Phật nào hay là do cầu nguyện, kể cả do nghiệp lực. Chỉ đơn thuần là một
định luật tự nhiên.
Tất cả những định luật khác, như tiến trình
nghiệp quả chẳng hạn, đều có thể hoạt động trên cơ sở này. Mối tác động hổ
tương giữa nhân và quả chỉ có thể xảy ra khi luật tự nhiên của nhân quả là
nền tảng cho sự tác động hổ tương này; và như thế, những sự kiện này làm
sản sinh ra những sự kiện khác, rồi đến lượt chúng lại làm sản sinh ra
những sự kiện khác nữa, và cứ tiếp tục như thế mãi. Sự tác động hổ tương
giữa những thực thể khác biệt đồng thời cũng có thể làm phát sinh ra những
tiến trình mới, thiên hình vạn trạng. Một sự hiểu biết sâu sắc, chi tiết
về các định luật khác nhau đang chi phối thế giới hiện tượng có thể giúp
ta nhận thức rằng gieo một cái nhân nào đó thì gặt một kết quả tương ứng,
rằng cái này sẽ dẫn đến cái kia. Ta không thể nào lý giải
định nghiệp mà không chấp nhận rằng có một định luật tự nhiên chi phối lên
các định luật khác. Nếu có người hỏi tôi rằng tại sao thiện hành dẫn đến
thiện quả và ác nhân sinh ác báo, tôi chỉ có thể trả lời rằng: “Chuyện nó
phải xảy ra như thế. Ðó là điều hoàn toàn tự nhiên.” Ta không có một giải
thích thuần lý cho vấn đề này./.
---o0o---
Mục lục
| Phần thứ 01 |
Phần thứ 02 |
| Phần thứ 03 |
Phần thứ 04 |
Phần thứ 05 |
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---