Vượt Khỏi Giáo Điều
(
Beyond Dogma)
Nguyên
tác: His Holiness Dalai Lama
Việt dịch Tâm Hà Lê Công Đa
---o0o---
PHẦN THỨ BA
BẤT BẠO ÐỘNG:
MỘT TẤM GƯƠNG ÐỂ NOI THEO
Tôi chỉ là một tăng sĩ Phật giáo bình
thường, và nếu như có thể được quyền sống theo những sở thích của mình có
lẽ tôi đã lựa chọn cuộc đời ẩn cư tại một vùng núi non cô tịch nào đó như
một con nai bị trọng thương. Thế nhưng, như một an bài, tôi được phong
tước hiệu Ðạt Lai Lạt Ma cùng với những bổn phận phải làm, và rồi nhân dân
Tây Tạng đã đặt tất cả niềm hy vọng lớn lao của họ vào tôi. Phải chăng đây
là nghiệp lực hay là kết quả của những nguyện cầu của tôi trong quá khứ?
Dù trường hợp nào đi nữa, là một người dân
Tây Tạng, lẽ tự nhiên tôi cảm thấy quan tâm đối với tất cả mọi chuyện có
liên quan đến quê hương mình, một đất nước hiện đang trải qua một giai
đoạn cực kỳ khó khăn trong lịch sử. Trên bốn mươi năm qua, Tây Tạng đã
phải gánh chịu những đau thương cùng cực. Bạn là người đang có diễm phúc
được biểu lộ mối quan tâm của mình đối với lịch sử, văn hoá của quốc gia
mình cũng như có thể thụ hưởng chúng trong một bầu khí hoàn toàn tự do.
Không có chuyện như vậy ở Tây Tạng. Thế cho nên hiện nay tôi đang phải
gánh vác một trách nhiệm tinh thần lớn lao, không phải chỉ đối với nhân
dân Tây Tạng, mà đồng thời còn là nghĩa vụ giải bày một cách sáng tỏ cho
những ai quan tâm đến vấn đề Tây Tạng, bất cứ lúc nào tôi có dịp gặp gỡ họ,
về thực trạng hiện tại cũng như nêu bật những hoạt động mà chúng tôi đang
thực hiện nhằm giải quyết vấn nạn này.
Xã hội cổ của Tây Tạng không hẵn là một xã
hội hoàn chỉnh. Ðó là một xã hội nông nghiệp và chăn nuôi dựa trên căn bản
của chế độ nông nô. Tuy nhiên nếu ta so sánh với các xã hội đương thời như
tại Trung Quốc và Ấn Ðộ, nó không đến nổi quá khắc nghiệt mà ngược lại có
phần từ ái hơn. Tôi tin rằng một số các nền văn minh tối cổ, như người da
đỏ bản xứ tại Mỹ chẳng hạn, cũng bày tỏ lòng tôn kính đối với đất đai,
thiên nhiên, cây cối. Trong văn hóa Tây Tạng, mối liên hệ giữa chúng tôi
với thiên nhiên, kể cả loài vật rất là an lạc. Chúng tôi sống rất hòa điệu
với thiên nhiên. Khi Tây Tạng tiếp xúc với Phật giáo, xã hội này nói chung
đã được thẩm thấu thêm tinh thần từ bi và cởi mở hơn. Ðó là một xã hội
trong đó con người cảm thấy mình được sống một cách thoải mái, một xã hội
mà cho mãi tận đến hôm nay vẫn còn nuôi dưỡng được những nguồn mạch truyền
thống phong phú có khả năng xoa dịu những nỗi thống khổ tinh thần của số
đông người. Hơn thế nữa, xã hội này chắc chắn là có đủ tư cách để phát
biểu về những vấn nạn hiện nay, đặc biệt là trên các lãnh vực môi sinh và
bạo động. Ðể kết luận, xin được nói rằng việc bảo tồn nền văn hóa và
truyền thống Tây Tạng không chỉ đơn thuần là trách nhiệm của thiểu số một
vài ngàn người Tây Tạng mà đó là mốiquan tâm chung của cả toàn thế giới.
TAÂY TẠNG GIỮA HAI GIÒNG NƯỚC:
KHÁNG CHIẾN VÀ BẤT BẠO ÐỘNG
Thưa Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, đa phần
người Tây phương thường hiểu về Phật giáo qua nguyên lý của sự tái sanh,
tuy nhiên chúng tôi không phải lúc nào là cũng rành rẽ về vấn đề này. Xin
Ngài vui lòng giải thích thêm cho chúng tôi biết tái sanh gồm những yếu tố
gì?
Có rất nhiều tôn giáo và truyền thống tâm
linh trên thế giới này mà tạm thời ta có thể phân chia thành hai nhóm
chính: một số thì tin vào chuyện tái sanh, tức là tin có những đời sống
được kế tiếp nhau; số còn lại thì không. Ðối với nhóm thứ nhất, người ta
tin chắc rằng sắc uẩn -tức là toàn thể xác thân con người- chỉ hạn định
trong một kiếp sống và là chủ nhân của kiếp sống đó. Còn cái cá thể, cái
ngã hay là giòng sinh thức thì được luân lưu từ đời sống này qua đời sống
khác.
Khi chúng ta nói đến giòng sinh thức, một
câu hỏi đặt ra, như vậy thức là cái gì? Thức không phải là một thực thể
đơn giản và thống nhất. Thức có nhiều mức độ khác nhau: thô thiển, vi tế
và cực kỳ vi tế. Dạng thô thiển của thức liên hệ với những sinh hoạt của
thể xác, sắc uẩn, của đời sống hàng ngày; cũng giống như sự phân nhiệm
trong não bộ đảm bảo rằng mọi bộ phận đều hoạt động theo đúng chức năng
của mình. Có thể nói đây là dạng dễ thấy và dễ hiểu nhất, nó đồng thời
cũng tan biến cùng với xác thân khi ta chết.
Tuy nhiên còn có một dạng thức vi tế hơn
không cần đến sự trợ lực của vật chất hay bất kỳ mối liên hệ vật chất nào
với thể xác con người. Ðây là dạng thức mà chúng tôi tin rằng vẫn còn
tiếp tục hiện hữu sau khi thể xác ngưng hoạt động, nghĩa là sau khi ta
chết. Nếu chúng ta cố gắng tìm hiểu nguồn gốc của dạng thức vi tế này, bởi
vì dĩ nhiên nó không thể tự dưng xuất hiện, mà phải có nguyên nhân mang
cùng bản chất như chính nó- tức là cái khoảnh khắc trước khi dạng thức này
xuất hiện. Nếu chúng ta muốn đi trở ngược lại để tìm tận cỗi nguồn nguyên
uỷ của cái khoảnh khắc của dạng thức này, tôi e rằng chúng ta không thể
làm được, vì như vậy chúng ta đã dựa trên tiền đề rằng cái thức này đã
được sinh ra ở một thời điểm nhất định hoặc là sản phẩm cuả một cái gì đó
thuộc loại vô tình. Thế cho nên khi nói về thức, chúng ta cho rằng nó
không có điểm khởi đầu. Một khoảnh khắc của ý thức được sinh ra không bởi
một nguyên nhân nào khác hơn giống như chính nó: tức là một khoảnh khắc ý
thức khác, mà không thể là từ loài vô tình nào. Ðiều này cắt nghĩa cho
chúng ta hiểu về nguyên lý tái sanh trong Phật giáo.
Một vị Ðạt Lai Lạt Ma theo
truyền thống được coi như là sự tái sanh của vị tiền nhiệm đã mất. Nếu
theo đúng nguyên tắc này, có thể nào trong tương lai chúng ta có một vị
Ðạt Lai Lạt Ma thay vì nam giới mà là một phụ nữ hoặc không phải là người
Tây Tạng?
Vâng, đây là điều mà ta có thể hình dung
được; cả hai đều có thể xảy ra. Vị Ðạt Lai Lạt Ma thứ tư, Yonten Gyatso,
là một người Mông Cổ. Lần đầu tiên trong lịch sử Tây Tạng, đã có một nghi
thức, nếu không nói là nghi lễ công quyền, công nhận sự tái sanh của một
vị lạt ma quá cố là ngài Ðệ Nhất Karmapa Rinpoche, một vị lạt ma vĩ đại
của Tây Tạng. Cũng cùng một thời gian đó, một giòng tái sanh truyền thừa
của một bậc thánh lưu vĩ đại cũng được bắt đầu, mà một người phụ nữ có
tên là Samding Dorje Pamo, đã được liên tục tái sanh suốt qua lịch sử Tây
Tạng. Bà được công nhận là người đã đạt đến một trình độ tu chứng tâm linh
vượt bực, và đồng thời cũng là người chiếm một ngôi vị quan trọng trong hệ
thống đẳng cấp tinh thần của Phật giáo Tây Tạng.
Thế nên, nếu phong trào nữ quyền tiếp tục
được phát triển, một ngày nào đó ta sẽ có một vị Ðạt Lai Lạt Ma phụ nữ!
Không có trở ngại nào trên mặt lý thuyết.
Ngài đã từng công khai tuyên bố
là sẽ từ bỏ phương thức chỉ định người thừa kế. Tại sao, và ngài sẽ thay
thế nó bằng cái gì ?
Kể từ lúc bắt đầu cuộc đấu tranh giải phóng
Tây Tạng, đã có một vài nguồn tin cố gắng tung ra để xuyên tạc việc làm
của chúng tôi. Những nguồn tin này đã nỗ lực phổ biến cho mọi người tin
rằng cuộc tranh đấu của chúng tôi không có mục đích nào khác hơn là phục
hồi lại một hệ thống quyền lực lỗi thời. Ðây là điều không đúng sự thực.
Dù chỉ mới bỏ xứ đi tỵ nạn từ năm 1959, nhưng đến năm 1962 chúng tôi đã
bắt đầu cho tiến hành thủ tục dân chủ hóa xã hội Tây Tạng. Một uỷ ban soạn
thảo hiến pháp cho Tây Tạng tương lai đã được thành lập và tôi đã cho thêm
vào bản Hiến pháp này một điều khoản nói rõ rằng, với sự chấp thuận của đa
số hai phần ba, quốc hội có quyền dẹp bỏ văn phòng Ðạt Lai Lạt Ma. Năm
1969 tôi đã ra một tuyên bố chính thức nêu rõ văn phòng Ðạt Lai Lạt Ma và
sự tồn tại của nó hoàn toàn tùy thuộc vào ý nguyện của nhân dân Tây Tạng.
Trong một bản dự thảo liên quan đến tương lai của Tây Tạng, tôi cũng đã
bày tỏ một cách rõ rằng tôi sẽ không đảm nhiệm một vai trò chính trị nào
trong quốc gia Tây Tạng tương lai mà nó sẽ là một chính phủ dân chủ do dân
chúng bầu lên. Nếu thể chế Ðạt Lai Lạt Ma không còn phù hợp trong tương
lai, nó sẽ không có lý do để hiện hữu.
Ngài thường hay tuyên bố rằng
Phật giáo, giống như Cơ Ðốc, Do thái giáo, Hồi giáo là một trong những tôn
giáo lớn của thế giới. Nhưng có lúc Ngài lại cho rằng Phật giáo không phải
là một tôn giáo. Xin Ngài vui lòng làm sáng tỏ điều mâu thuẫn này.
Trước tiên, nếu chúng ta y cứ vào những
định nghĩa trong một số từ điển nói rằng tôn giáo chủ yếu bao hàm niềm tin
vào một đấng Thượng Ðế Sáng Tạo, và như vậy ta có thể kết luận rằng Phật
giáo không phải là một tôn giáo. Ðây là lý do tại sao mà một số các học
giả, nhà khoa học đồng thời cũng coi Phật giáo như là một khoa học về tâm
trí.
Tuy nhiên nếu chúng ta định nghĩa tôn giáo
như là một phương thức tu tập tâm linh thông qua cầu nguyện và thiền định
tìm kiếm một hệ quả cho đời sau, cái mà chúng tôi gọi là niết bàn chẳng
hạn, thì trong trường hợp này ta có thể xem Phật giáo là một tôn giáo. Hơn
thế nữa, nó đồng thời vừa là một tôn giáo, một triết học, và là một khoa
học.
Tôi cũng xin được thêm rằng mối liên hệ
giữa những tôn giáo này đặt căn bản hầu như hoàn toàn vào đức tin, dành ít
chỗ đứng cho lý trí; trong khi đó những người theo chủ nghĩa duy vật thực
tiễn nhất thì lại rất giáo điều khó khăn. Phật giáo, tôi nghĩ rằng, đứng
đâu đó giữa hai thái cực này. Từ quan điểm của những người duy vật bảo thủ,
Phật giáo là một tôn giáo thế nên không có chỗ đứng trong hệ thống tư
tưởng của họ. Từ quan điểm của những tôn giáo đặt nền tảng căn bản thuần
vào đức tin, Phật giáo không được coi là một tôn giáo mà là một loại chủ
nghĩa phiếm thần, hay là một khoa học tâm trí. Vì những lý do này mà Phật
giáo có cơ hội đứng ra một bên, đâu đó ở quảng giữa và có thể nhờ đó mà
trở thành một chiếc cầu nối liền giữa hai khuynh hướng cực đoan.
Mặc dù có sự cách biệt văn hoá
lớn lao, càng ngày càng có nhiều người Tây phương khao khát đời sống tâm
linh đã quay tìm về với Phật giáo thay vì Cơ Ðốc giáo. Ngài có thể giải
thích hiện tượng này không?
Tôi không nghĩ là chúng ta không nên đi đến
một kết luận quá nhanh chóng như thế bởi vì các quốc gia Tây phương chủ
yếu vẫn ở trong vòng ảnh hưởng của Cơ Ðốc giáo và sẽ tiếp tục như thế. Hãy
nhìn vào Tây Tạng, tuy là một quốc gia Phật giáo, tuy nhiên hàng thế kỷ
qua các tôn giáo ngoài Phật giáo cũng đồng thời có mặt, Hồi giáo chẳng hạn,
và kể từ đầu thế kỷ này cũng bắt đầu có một số Cơ Ðốc giáo. Thế nên tôi
nghĩ là trong số hàng triệu người Tây phương, nếu có một số ít người bị
thu hút bởi tư tưởng Phật giáo thì cũng là chuyện rất bình thường.
Ngược lại, người Tây Tạng có thể
có được những lợi lạc nào mang lại từ phía Cơ Ðốc?
Dĩ nhiên! Qua những điều mà tôi hiểu biết
về Cơ Ðốc, thì đã có một số lượng rất phong phú của những truyền thống
tuyệt vời trong tôn giáo này. Tôi cũng đã có dịp gặp gỡ rất nhiều vị tu sĩ,
nữ tu Cơ Ðốc giáo, những người đã gây một ấn tượng sâu xa đối với tôi qua
việc họ đã gánh vác những trách nhiệm lớn lao trên các lãnh vực giáo dục
và y tế -trong ý hướng phụng sự nhân loại trên khắp toàn thế giới. Một
khía cạnh tích cực khác của truyền thống Cơ Ðốc giáo đó là việc đào tạo
chủng sinh được kéo dài trong một thời gian khá lâu và rất nghiêm nhặt,
như vậy người chủng sinh đã có đủ thời gian để cần nhắc kỹ lưỡng trước khi
được thụ phong linh mục. Trong khi đó về phía Phật giáo, nhiều khi có rất
nhiều tăng sĩ được thụ giới đàn trước khi họ có những suy nghĩ về vấn đề
này.
Giáo hội Thiên chúa giáo La Mã,
thông qua Ðức Giáo hoàng, đã phát biểu một quan điểm khá bảo thủ về một số
vấn đề xã hội, đặc biệt là lãnh vực tính dục. Thí dụ như Giáo hội lên án
phá thai hoặc sử dụng “áo mưa“ để ngăn ngừa bệnh AIDS. Quan điểm của Ngài
như thế nào về những vấn đề này ?
Về vấn đề phá thai, Phật giáo quan niệm
rằng sinh mạng của tất cả mọi con người đều rất qúy giá. Trên quan điểm
này, Phật giáo không tán thành việc hạn chế sinh sản. Tuy nhiên với đà gia
tăng dân số hiện nay và các nguồn tài nguyên thiên nhiên rất có giới hạn,
vấn đề đặt ra hiện nay là: năm tỷ người đang sống trên trái đất này có
hoàn toàn được hạnh phúc hay không? Hố sâu ngăn cách về mức sống giữa các
quốc gia miền Bắc và miền Nam không những mang tính cách bất công trên mặt
đạo đức mà đồng thời cả trên mặt thực tiễn. Ðây chính là nguồn gốc của các
vấn nạn và những khổ đau triền miên mà ta không thể không nghĩ tới một
cách nghiêm chỉnh. Thế nhưng, theo các chuyên gia, nếu mức sống của các
quốc gia phía Nam được nâng lên ngang tầm với các quốc gia phía Bắc, những
tài nguyên của thế giới sẽ bị cạn nguồn. Sự khảo sát này đã được dựa trên
những dữ kiện khoa học. Thế nên ta đi đến một kết luận khá hiển nhiên là
phải giới hạn bớt những người sắp sinh ra đời.
Trở lại vấn đề phá thai: Một cách tổng quát,
phá thai có nghĩa là giết người, cho nên đây là một hành động tiêu cực.
Tuy nhiên không phải là không có những trường hợp ngoại lệ, thí dụ như đó
là một quái thai hay sinh mạng của người mẹ ở trong tình trạng hiểm nguy -nhưng
xin nhớ cho rằng đây chỉ là những biệt lệ. Thế nên quan điểm chung của
Phật giáo và ngay cả chính bản thân tôi cũng luôn cổ võ cho những biện
pháp bất bạo động trong việc kiểm soát sinh sản. Tôi cũng từng khuyến
khích rằng, những phương cách tốt nhất của lối kiểm soát sinh sản bất bạo
động là nên có thêm nhiều tu sĩ và nữ tu!
Một trong những vấn đề tranh
luận chính đang chia rẽ Giáo hội Thiên chúa giáo là vấn đề đời sống độc
thân của tu sĩ, nhưng các tăng sĩ của truyền thống Phật giáo Tây Tạng cũng
sống độc thân. Theo ý kiến của Ngài, phải chăng độc thân là điều cần yếu
cho cuộc sống tu sĩ?
Trong rất nhiều tôn giáo và truyền thống
tâm linh, độc thân được coi như là một yếu tố khá quan trọng. Nhưng dĩ
nhiên đây hoàn toàn chỉ là vấn đề chọn lựa của cá nhân và mọi người đều có
quyền tự do tuân theo hay không.
Phật giáo nhận thức rằng nguyên nhân chính
gây nên khổ đau là lòng tham ái, mê đắm, những yếu tố tinh thần luôn quấy
nhiễu và làm rối rắm tâm ta. Trong số những yếu tố tinh thần tiêu cực này,
những cái được coi như năng động và độc hại nhất là thù ghét và chấp trước.
Hậu quả độc hại của lòng oán ghét và hận thù là điều quá hiển nhiên đối
với mọi người. Thế nhưng chấp trước và tham ái thường được phát triển cùng
với sự phản ứng của lòng thù ghét. Một trong những mục tiêu chính của việc
tu dưỡng tâm linh là tìm ra những phương thuốc nhằm chế ngự những yếu tố
quấy nhiễu tâm hồn, tức là thù ghét và chấp trước. Có rất nhiều hình thức
chấp trước, trong đó những loại liên hệ với những kinh nghiệm của ngũ quan
thường là nguyên nhân gây nên những khổ đau lớn lao nhất cho con người mà
hiển nhiên nhất là chấp trước vào khoái lạc tình dục. Ðó là lý do tại sao
Phật giáo ca ngợi những đức hạnh của trinh tiết và sự tiết dục, cũng như
không chấp nhận bất cứ hình thức liên hệ tình dục không đúng đắn nào.
ÐANG VÀ SẼ MÃI MÃI
LÀ NGƯỜI TAÂY TẠNG
Thưa Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, Ngài đã
từng lên án Trung Cộng tìm đủ mọi cách để huỷ diệt nền văn hoá Tây Tạng.
Họ đã thực hiện điều đó như thế nào và theo ý kiến của Ngài liệu họ có đạt
được mục tiêu đó hay không?
Kể từ khi xâm chiếm Tây Tạng, bốn mươi năm
trước đây, cho đến nay Trung Cộng đã sử dụng đủ mọi phương thức ở trong
nhiều thời điểm khác nhau. Trong những năm giữa thập niên năm mươi, họ đã
cho hủy diệt hầu hết các tu viện chùa chiền, loại trừ các thành phần trí
thức, cư sĩ trung kiên, cũng như tăng sĩ bằng cách bỏ tù, tập trung lao
động cải tạo kể cả hành quyết họ trước công chúng. Rồi đến thời Cách Mạng
Văn Hóa; mà tôi nghĩ là mọi người đều biết rõ những việc mà họ đã làm.
Cuối cùng là cả một chiến dịch tuyên truyền bôi nhọ cho rằng văn hóa của
Tây Tạng là lạc hậu, đen tối, ác độc và vô giá trị, tất cả những gì thuộc
về Tây Tạng đều là thứ vô dụng, chẳng có gì để phải quan tâm. Tôi nghĩ là
bây giờ họ không còn sử dụng các phương sách này nữa.
Kể từ giữa thập niên tám mươi, Trung Cộngï
đã bắt đầu đổi giọng và chính thức tuyên bố rằng văn hóa Tây Tạng là một
nền văn hoá cổ truyền, có giá trị lớn, cần phải được bảo tồn, đó là phương
thức mà họ đang sử dụng hiện nay. Họ cũng đã cho dựng lên những bảng khẩu
hiệu bằng tiếng Tây Tạng dọc theo đường phố và ngay cả ra lệnh cho người
Trung quốc sinh sống tại đây học tập ngôn ngữ Tây Tạng. Tuy nhiên đây chỉ
là bề mặt, trong thực tế họ ra sức tăng cường ảnh hưởng của Trung quốc cụ
thể qua học vấn và thi cử, những kiến thức liên quan đến Trung quốc mới
là trọng tâm. Cũng xin được lưu ý rằng giảng khoá liên quan đến truyền
thống Tây Tạng rất là nghiêm túc và đòi hỏi thời gian học tập, có khi kéo
dài cả hai, ba chục năm để hoàn tất. Bây giờ ở Tây Tạng hầu như không còn
nơi nào người ta có thể theo đuổi những lớp học như thế từ lúc khởi đầu
cho đến khi hoàn tất. May ra chỉ còn ở những vùng thật xa xôi hẻo lánh,
nơi mà nhà cầm quyền Trung Cộng chưa với tay đến được. Kết quả là, trình
độ học vấn truyền thống tại Tây Tạng đang xuống đến mức thấp nhất, đó là
lý do khiến hàng ngàn người trẻ Tây Tạng đã không còn một chọn lựa nào
khác hơn là tìm đến Ấn Ðộ để theo đuổi việc học tập nghiên cứu tại các tu
viện lưu vong.
Như vậy, mặc cho những tuyên truyền mà mọi
người đều biết, thực tế là đang có một nỗ lực đầy tính toán nhằm thủ tiêu
nền văn hoá của chúng tôi. Cho dù có chủ mưu hay không, sự xâm lăng của
thực dân Trung Cộng là nguyên nhân chính gây nên nạn diệt chủng nền văn
hoá Tây Tạng.
Tôi xin nêu ra một dẫn chứng cụ thể. Một
người Tây Tạng đang sống tại Ấn Ðộ, gần đây đã có dịp trở về Tây Tạng để
thăm viếng cha mẹ. Khi dạo quanh khu phố cổ của thủ đô Lhasa, khu vực
chung quanh ngôi tự viện trung ương, nơi sinh sống của đa số người Tây
Tạng, điều làm cho anh ta ngạc nhiên nhất là hầu như mọi người ở đây đều
ăn mặc giống như người Trung Quốc và đều nói tiếng Trung quốc. Bất chợt
anh ta cố ý la lớn lên bằng tiếng Tây Tạng và khi thấy mọi người có vẻ chú
ý, anh ta tiến đến họ và hỏi lý do tại sao họ lại nói tiếng Trung quốc.
Mọi người đều cho biết rằng nếu không sử dụng ngôn ngữ Trung quốc, họ sẽ
bị trừng phạt,và hơn thế nữa việc nói tiếng Trung quốc làm cho họ cảm thấy
được bình đẳng ngang với kẻ thống trị.
Thưa Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, Ngài có
cảm tưởng thế nào đối với những kẻ đang gây ra thống khổ cho nhân dân Tây
Tạng?
Dĩ nhiên đôi lúc tôi cũng cảm thấy khó
chịu, tuy nhiên là một người đang thực hành giáo lý nhà Phật, do quán
chiếu, mình có thể có nhiều lý do để nhìn một cách sâu sắc hơn đối với
những kẻ đang gây nên những vấn nạn, khổ đau cho kẻ khác. Chúng ta có
nhiều lý do để quan tâm đến những kẻ đang xâm lăng gây hấn hơn là nạn
nhân của họ. Tại sao như thế ? Bởi vì người đang gây ra những vấn nạn
hiện nay tức là đang tạo tác ra một tiến trình nghiệp lực mà rồi chắc chắn
họ sẽ thọ lãnh quả báo xấu ác trong tương lai; trong khi đó nạn nhân chỉ
là người đang nhận chịu khổ đau do hậu quả của những hành động tiêu cực
trong quá khứ. Thế cho nên đối với nạn nhân, qủa báo nay đã chấm dứt. Nếu
suy nghĩ theo cách này, tôi có thể phát triển được lòng từ của mình đối
với những người này.
Thưa Ngài, sự khác nhau trong
lối sống của người Tây Tạng lưu vong và những người còn ở lại trong nước
phải chăng là một nguy cơ khi đã tạo ra một khoảng cách văn hoá giữa hai
nhóm người này?
Không, Tôi không nghĩ rằng đó là một vấn
nạn. Ngay cả những người Tây Tạng tại Ấn Ðộ cũng đã có những đời sống khác
nhau, những kiến thức khác nhau do việc tiếp thu những thông tin từ thế
giới bên ngoài. Sự khác biệt là điều rất hiển nhiên. Mặc dù sống đời tỵ
nạn, nói chung là chúng tôi hoàn toàn thụ hưởng một cuộc sống tự do. Tuy
nhiên chúng tôi chỉ có 130,000 người, trong khi trong nước có đến 6 triệu
người. Ðó là lý do mà tôi luôn nói rằng họ mới là những người lãnh đạo,
những người chủ của tôi. Họ là một tập thể đông đảo, trong khi chúng tôi
chỉ là một bộ phận nhỏ của cái phương trình này. Một cách tóm tắt, tôi
không thấy bất cứ vấn nạn nào trong tương lai. Dĩ nhiên có thể là một
ngày nào đó được trở về Tây Tạng, một số người sẽ cảm thấy khó khăn trong
việc thích nghi vời đời sống ở đây và thích sống ở ngoại quốc, tuy nhiên
đó không phải là một vấn nạn.
Trên bình diện cá nhân, Ngài cảm
thấy liên hệ chặt chẽ với những gì được mang lại từ thế giới Tây phương?
Ngay từ thuở thiếu thời tôi đã luôn bị
quyến rũ bởi những tiến bộ vật chất và thành tựu của nền khoa học kỹ thuật
phương Tây. Ðiều đập vào mắt tôi trước tiên là tinh thần ham học hỏi của
người Tây phương. Chẳng hạn như bất cứ lúc nào tôi nói chuyện về Phật giáo,
tất cả quý vị đều đem giấy bút ra để ghi chép hoặc mở máy thu băng. Người
Tây Tạng, Trung Hoa và Ấn Ðộ thì không như thế, tôi để ý rằng họ có thể
lắng nghe tôi một cách thành kính, nhưng chẳng có ai bận tâm ghi chép. Họ
ngồi đó một cách yên lặng, có vẻ như đã biết hết tất cả những điều tôi nói!
Tôi cũng luôn luôn thán phục thái độ làm
việc khoa học trung thực trên lãnh vực nghiên cứu trong đó tinh thần vô tư,
đầu óc rộng mở, kể cả hoài nghi đã đóng một vai trò rất quan trọng. Phật
giáo cũng có một đường lối tiếp cận như thế, đặc biệt là trong truyền
thống Ðại Thừa, mà nguyên tắc căn bản là không chấp nhận bất cứ tín điều
nào một cách mù quáng. Mọi việc phải được kinh qua kinh nghiệm và thực
chứng. Cho đến khi nào mọi việc sáng tỏ và có tính thuyết phục ta mới nên
chấp nhận chúng. Ðây là những gì mà tôi nghĩ là mặt tích cực của phương
Tây.
Thế nhưng nếu qúy vị hỏi tôi thế còn mặt
tiêu cực là gì... Ðiều tôi nói ra có thể là không hoàn toàn đúng hẵn đối
với các người bạn Tây phương, nhưng thỉnh thoảng tôi để ý là qúy vị thiếu
tinh thần kiên nhẫn. Tất cả quý vị đều quen với đời sống máy móc tự động
và thường là hoàn tất mọi việc một các dễ dàng. Thế nên qúy vị dễ sinh ra
tật hư là vậy. Tuy nhiên điều này cũng đã không hề ngăn cản được rằng kiên
nhẫn vẫn là một cái gì đó rất hữu ích cho đời sống con người. Trong xã hội
Tây phương người ta thường có thói quen khi phê phán một cái gì đó thường
hay quên đi tính cách tương đối của sự việc. Bạn không thể kết luận một
vật là hoàn toàn một trăm phần trăm đen hay một trăm phần trăm trắng, một
trăm phần trăm tốt hay một trăm phần trăm xấu. Mọi việc không bao giờ giản
đơn như thế: chúng có mặt tích cực đồng thời cũng có mặt tiêu cực. Thế nên
theo tôi một thái độ được coi là thực tế và hợp lý khi nhìn sự việc là,
nếu mặt tích cực trội hơn ta xem chúng là tốt và ngược lại.
Rút tỉa kinh nghiệm, từ chỗ đứng
hôm nay, Ngài nhìn về Tây Tạng trước năm 1950 như thế nào?
Dĩ nhiên là có một số mặt hạn chế và lạc
hậu nhưng không phải là không có những khía cạnh tích cực. Một số người có
thói quen mô tả xã hội cổ của Tây Tạng như là một thứ Shangri-la, tức là
thiên đường hạ giới, dĩ nhiên đây là chuyện phóng đại. Một số khác thì xem
đó chẳng khác gì địa ngục trần gian, cũng là chuyện phóng đại nốt.
Càng có dịp gặp gỡ những con người và những
nền văn hoá khác biệt trên thế giới tôi lại càng nhận ra Tây Tạng có một
nền văn minh tối cổ, phong phú và gạn lọc biết chừng nào, nền văn hoá đó
đã góp phần vào việc bảo tồn sự an bình tâm hồn của con người, và như thế
đó là khía cạnh khá tích cực. Có thể là vì nền văn hoá Tây Tạng được xây
dựng trên căn bản những giáo lý của Ðức Phật, vốn trưởng dưỡng mối liên hệ
hòa điệu và an bình giữa con người và môi trường sống. Mặc dù người Tây
Tạng không hoàn toàn ăn chay trường, nhưng họ đã làm đủ mọi cách để bảo vệ
muông thú , chim chóc, cá tôm. Thời xưa luật lệ của chính phủ còn cấm cả
việc săn bắn, đánh cá, bẩy chim. Chỉ có một số người Gurkhas, gốc Népal là
được miễn trừ không bị chi phối bởi luật lệ Tây Tạng, có nghĩa là họ có
thể đánh cá và săn bắn, còn người Tây Tạng , đặc biệt là vùng trung du, đã
bị cấm chỉ, và tôi cho rằng đó là một biện pháp rất tốt. Ở vào thời điểm
mà chúng tôi chưa hề bao giờ biết đến những khái niệm về “môi sinh”, “sinh
thái”, nhưng chúng tôi đã cho áp dụng những biện pháp này một cách tự động.
Ngay cả nhìn về mặt hệ thống xã hội, tuy
lỗi thời và phong kiến, nhưng nếu ta so sánh với Ấn Ðộ và Trung Quốc cùng
trong thời điểm này, nó không những ít khắc nghiệt mà lại có phần nhân ái
hơn. Cụ thể như Trung Quốc trong thời gian này tục lệ bó chân phụ nữ hoặc
thiến một số người thành hoạn quan rất khá phổ biến, trong khi đó những
việc như thế không hề được diễn ra tại Tây Tạng.
VỀ TƯƠNG LAI
CỦA MỘT ÐẤT NƯỚC TAÂY TẠNG TỰ DO
Thưa Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, trong
một bài diễn văn vào năm 1988, Ngài đã lên tiếng từ bỏ yêu sách đòi hỏi
độc lập cho Tây Tạng nhằm mục đích mở rộng cánh cửa đối thoại với Trung
Cộng. Có phải theo đường lối suy nghĩ của Ngài, đây là một sự từ bỏ hoàn
toàn?
Như tôi đã từng phát biểu trước đây, Tây
Tạng đang đối diện với hiểm họa bị diệt chủng. Thế nên chúng tôi phải làm
bất cứ điều gì có thể được để cứu vớt đất nước được kế thừa một nền văn
hoá thuần nhất này. Thực tế chính trị là sẽ không ai trở về để đuổi kẻ
xâm lăng Trung quốc ra khỏi nước. Thái độ thực tiễn duy nhất là tìm cách
giải quyết trực tiếp vấn đề với chính quyền Trung quốc. Sức mạnh của chúng
tôi là công lý và sự thật. Chúng tôi không có gì để phải che dấu; chúng
tôi có mọi quyền, và đủ sức chịu đựng ngoan cường để có thể gặp gỡ người
anh em, chị em Trung Quốc và nói chuyện thẳng với họ.
Cuối năm 1978, nhà nước Trung Quốc ngõ ý
rằng họ muốn thiết lập mối dây liên lạc với tôi. Tôi đã đáp ứng lập tức và
gởi ngay một phái viên cá nhân, một người em của tôi có khả năng nói tiếng
Trung Hoa lưu loát, đến gặp họ. Ông ta đã được Ðặng Tiểu Bình tiếp kiến.
Cuộc gặp gỡ đã kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ và Ðặng Tiểu Bình cho hay
là hai bên có thể thảo luận mọi vấn đề ngoại trừ chuyện độc lập hoàn toàn
cho Tây Tạng, tuy nhiên đây cũng là một đề nghị rất đáng được quan tâm.
Từ đó cho đến nay, trong vòng mười bốn năm
qua, toàn bộ những tiếp cận của chúng tôi đã được dựa trên căn bản của
điều kiện này. Ðó là lý do tại sao tôi đã không đòi hỏi sự độc lập toàn
vẹn của Tây Tạng. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng tôi không có
quyền đòi hỏi độc lập. Thế giới đều biết rằng Tây Tạng là một quốc gia
đang bị xâm chiếm. Tôi thường cho rằng đường lối mà tôi đang theo đuổi là
con đường Trung Ðạo. Tuy nhiên tôi cũng đã tuyên bố rất rõ ràng trong một
dự thảo được công bố tại Strasbourg rằng quyền quyết định tối hậu thuộc về
nhân dân Tây Tạng. Một số người Tây Tạng đã chỉ trích kịch liệt dự thảo
này, thậm chí có người đã bảo thẳng vào mặt tôi : “Ông, vị Ðạt Lai Lạt Ma
đời thứ mười bốn, đã bán rẽ quyền sống của nhân dân Tây Tạng!” Thế nhưng,
tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải đối diện vấn đề một cách thẳng thắn. Tây
Tạng là một quốc gia bị bao quanh bởi đất liền, muốn đến được biển phải
trông cậy vào quốc gia láng giềng. Với tình huống như hiện nay, tốt hơn,
và thực tế hơn là ta nên cố gắng đi đến một giải pháp như thế nào đó với
Trung Quốc.
Một phần của lãnh thổ Tây Tạng
đã được tái phân bố vào một số tỉnh của Trung Quốc. Ngài nghĩ như thế nào
về vấn đề biên giới của một Tây Tạng tự trị?
Biên giới giữa Tây Tạng và Trung Quốc đã
được vẽ ra một cách rõ ràng vào thế kỷ thứ bảy. Bây giờ thì Trung Quốc
đang cố gắng sử dụng đủ mọi luận chứng lịch sử liên hệ đến thế kỷ thứ mười
ba, thế kỷ thứ bảy... để biện minh cho việc làm của họ. Giả dụ như nếu tôi
chấp nhận điều kiện tiên quyết mà ông Ðặng Tiểu Bình nêu ra, tôi nghĩ là
tôi có đủ mọi quyền để thảo luận tiếp những vấn đề còn lại. Thế nên tôi đã
bảo họ rằng nếu chính phủ Trung Quốc đã công nhận sự hiệ n hữu của đủ mọi
loại mệnh danh là khu vực, vùng và ngay cả quận huyện mà Trung Quốc đã
từng gọi đó là các khu vực, vùng, quận huyện của sắc tộc thiểu số Tây Tạng,
thì tại sao không gộp chung chúng lại với nhau thành một thực thể duy nhất?
Như vậy có phải là đơn giản và dễ dàng cho việc gìn giữ, bảo tồn nền văn
hóa và bản sắc của Tây Tạng hay không? Vào thế kỷ thứ tám, dưới triều đại
của quốc vương Trisong Detsen và quốc vương Tri Ralpachen, biên giới giữa
Trung Quốc và Tây Tạng đã được phân ranh ghi dấu rõ ràng từ tỉnh Vân Nam
của Trung Quốc cho đến tỉnh Amdo của Tây Tạng ở phía Bắc. Có những ghi dấu
được khắc trên các trụ bia, trên đá. Cụ thể ở tỉnh Vân Nam thì được khắc
trên đá. Những ghi dấu này đã xác định biên giới thực sự giữa Trung Quốc
và Tây Tạng, và đó không phải là điều chúng tôi dựng đứng lên mà là thực
tế lịch sử.
Những chế độ độc tài chuyên chế nói chung,
và Cộng sản nói riêng, bất hạnh thay, thường có khuynh hướng xuyên tạc
lịch sử bằng cách viết lại lịch sử. Tôi đã nhận thấy điều này rất rõ trong
thời gian lưu trú khoảng sáu tháng tại Trung Quốc từ năm 1954 đến 1955.
Trong dịp này, tôi đã có cơ hội thăm viếng Mãn Châu, mà Trung Quốc gọi là
Tumbe, và các khu vực trong vùng Hreang và Hắc Long Giang. Tại đây, trong
một viện bảo tàng kỷ niệm vụ tàn sát của Nhật Bản, tôi đã thấy họ giải
thích rằng Nhật Bản chỉ đầu hàng sau khi quân đội Sô Viết đánh tan lực
lượng chủ lực của Nhật Bản, quân đội Quang -tuong, tại Mãn Châu. Thời gian
này tôi đang ở thủ đô Lhasa và hầu như đã biết hết tất cả mọi chuyện thực
sự xảy ra lúc đó -mà thực tế là, Nhật Bản chỉ đầu hàng sau khi hai quả bom
nguyên tử rơi xuống Trường Kỳ và Quảng Ðảo, sau đó thì Nga Sô mới tuyên
chiến với Nhật Bản. Trung Cộng đã vẽ ra chuyện là Nhật Bản chỉ đầu hàng
sau khi lực lượng chủ lực tinh nhuệ của họ hoàn toàn bị Hồng quân tiêu
diệt tại Mãn Châu. Ðó là một thí dụ cụ thể về chuyện xuyên tạc lịch sử.
Ngài cũng thường tuyên bố rằng
có ý muốn đạt đến một sự tổng hợp giữa Phật giáo và Mác-xít. Thưa Ngài,
chủ nghĩa Mác-xít có gì hấp dẫn đối với Ngài?
Trong số các lý thuyết kinh tế hiện đại, hệ
thống kinh tế Mác-xít được xây dựng trên căn bản của những nguyên tắc đạo
đức, trong khi chủ nghĩa tư bản chỉ thuần tuý quan tâm đến vấn đề lợi
nhuận. Chủ nghĩa Mác-xít đặt trọng tâm vào việc phân bố tài sản một cách
đồng đều và bình đẳng trong việc sử dụng các phương tiện sản xuất. Ðồng
thời chủ nghĩa này cũng lưu tâm đến số phận của giới lao động -tức là đại
đa số quần chúng- cũng như của những người thuộc đáy tầng xã hội, đang cần
được giúp đỡ, chủ nghĩa Mác-xít cũng chú ý đến những nạn nhân của thiểu số
bị bóc lột. Bỡi những lý do trên, hệ thống kinh tế này có vẻ như công bằng
và có sức thu hút đối với tôi. Gần đây tôi cũng đã được đọc một bài viết
trên báo chí trong đó Ðức Giáo Hoàng cũng đã vạch ra một vài khía cạnh
tích cực của chủ nghĩa Mác-xít.
Qua sự sụp đổ của một số chế độ cộng sản,
trước tiên tôi cho rằng các quốc gia như Liên Bang Sô Viết cũ, hoặc Trung
Hoa, thậm chí cả Việt Nam không phải là những quốc gia theo chủ nghĩa Mác
thật sự, bởi lẽ họ chỉ quan tâm đến quyền lợi hẹp hòi của quốc gia mình
hơn là quyền lợi của Lao Ðộng Quốc Tế; đó là lý do tại sao luôn luôn có
những tranh chấp giữa họ với nhau, cụ thể như giữa Trung Quốc và Nga Sô
hoặc giữa Trung Quốc và Việt Nam. Nếu những chế độ này thật sự được xây
dựng trên căn bản những nguyên lý của chủ nghĩa Mác, những sự xung đột đó
sẽ chẳng bao giờ xảy ra.
Tôi nghĩ rằng điểm sai lầm chủ yếu của các
chế độ cộng sản là họ quá đặt nặng vào việc thủ tiêu giai cấp chủ nhân,
chủ trương đấu tranh giai cấp, và điều này đã khuyến khích con người giảm
thiểu lòng từ, tăng trưởng thù hận. Cho dù mục tiêu cơ bản của họ có thể
là lý tưởng phục vụ đa số quần chúng, thế nhưng khi họ cố gắng thực hiện
điều đó, tất cả mọi năng lực của họ đã bị chệch hướng và biến thành những
hoạt động phá hoại. Một khi cuộc cách mạng đã hoàn tất, giai cấp chủ nhân
đã bị tiêu diệt thì rồi cũng chẳng còn gì sót lại cho dân chúng; đến lúc
này cả nước trở nên nghèo đói và bất hạnh thay điều này làm người ta
tưởng rằng mục tiêu cơ bản của người cộng sản là bần cùng hoá nhân dân.
Một cách tóm tắt, điểm tiêu cực chính của các chế độ này là được xây dựng
trên căn bản hận thù, không có chút gì từ ái.
Sự sụp đổ của chế độ này tại Sô Viết cũ
theo tôi không phải là sự thất bại của chủ nghĩa Mác mà là sự thất bại của
chế độ độc tài toàn trị. Bởi lẽ này, tôi vẫn tự xem mình như là một người
nửa Phật giáo, nửa Mác-xít.
Ngài đã lên tiếng kêu gọi cho
hồi hương tất cả những người Trung quốc đang sinh sống tại Tây Tạng. Như
thế, một nước Tây Tạng dân chủ, cởi mở trong tương lai có chỗ đứng nào cho
những người này không?
Tôi nghĩ là chúng ta cần nên phân biệt
những nhóm người Trung Quốc khác nhau hiện đang sinh sống tại Tây Tạng. Có
những người đã đến định cư tại đây từ năm 1949; tiếp theo là những người
tự động hoặc được đưa đến theo kế hoạch của nhà nước Trung Quốc; và cuối
cùng là những người tìm đến Tây Tạng, thường là do ý nguyện cá nhân của họ,
kể từ khi cái được gọi là “chính sách kinh tế tự do” ra đời. Chúng ta cũng
cần nên phân biệt những người Trung Quốc biết nói tiếng Tây Tạng và kính
trọng nền văn hoá Tây Tạng -bởi vì nói cho cùng, tín ngưỡng Phật giáo
không xa lạ gì đối với họ- và những người chạy đến Tây Tạng với mục đích
chính là làm giàu chứ không phải tìm kiếm nguồn mạch tâm linh phong phú
tại đây. Như thế, đối với những người kính ngưỡng đời sống tinh thần của
Tây Tạng, sự hiện diện của họ là điều hữu ích. Nếu thành phần này không
đông đảo tôi nghĩ là không có lý do gì để không thể làm việc với nhau và
tìm ra một giải pháp cho họ tiếp tục sinh sống tại Tây Tạng. Thế nhưng đối
với tất cả những người cho rằng người Tây Tạng là lạc hậu, dã man, dơ dáy
và hôi hám (người Tây Tạng chúng tôi cũng cho là người Tàu hôi hám như vậy,
vì họ ăn quá nhiều tỏi), thì tốt hơn hết là họ nên hồi hương. Tại sao họ
phải sống ở những nơi dơ dáy làm gì?
CUỘC ÐẤU TRANH
CHO TỰ DO
Thưa Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, trong
cuộc đấu tranh nhằm giải phóng Tây Tạng, có phải là Ngài tuyệt đối chống
lại phương thức bạo động, hoặc ít ra theo Ngài bất bạo động là con đường
tốt nhất để đạt đến mục tiêu tối hậu?
Vâng, tôi tuyệt đối chống lại phương thức
bạo động. Những năm trở lại đây, trong nhiều dịp người ta hỏi tôi rằng tôi
sẽ làm gì nếu một số người Tây Tạng vì tuyệt vọng có thể trở thành bạo
động, tôi luôn luôn trả lời rằng nếu trường hợp như vậy xảy ra, tôi sẽ
không còn một lựa chọn nào khác hơn là từ chức và đứng qua một bên. Tôi có
lý do để tin tưởng vào đường lối bất bạo động; và đó không phải là một
niềm tin mù quáng. Trước tiên tôi tin rằng bản tánh của con người là thiện
lương và từ ái. Thế nên vì lợi ích của chính chúng ta, phải khuyến khích
bản tánh này, và tạo cơ hội cho nó phát triển, nẩy nở trong mỗi con người.
Ngược lại, nếu chúng ta đi vào con đường bạo động thì chẳng khác gì chúng
ta đã làm che lấp mặt tích cực của bản tánh con người, ngăn cản không cho
nó phát triển.
Ðệ Nhất Thế Chiến chấm dứt với sự thảm bại
của Ðức Quốc, sự thảm bại này đã gây nên những hội chứng bi thảm cho người
dân Ðức, và đó chính là những hạt giống ươm mầm cho trận Ðệ Nhị Thế Chiến.
Trong bất cứ tình huống nào, một khi bạo động thắng thế, người ta sẽ không
còn kiểm soát được tình cảm. Ðây là một điều rất nguy hiểm và chắc chắn là
nó sẽ dẫn đến những thảm kịch. Ðó chính là những gì đang xảy ra tại
Bosnia hiện nay. Phương thức bạo động chỉ tạo ra thêm những vấn nạn mới.
Trong trường hợp của chúng tôi, điều quan
trọng nhất là những người Tây Tạng và những anh chị em Trung Quốc trên
thực tế luôn luôn vẫn là những người láng giềng thân hữu và tình cảm đó
cần phải được duy trì. Thế cho nên giải pháp duy nhất cho Tây Tạng tương
lai là học cách sống hoà thuận với những người láng giềng của mình. Giải
pháp đó phải được xây dựng trên căn bản quyền lợi hổ tương của hai nước.
Do lựa chọn con đường bất bạo động, những người Trung Quốc trong cũng như
ngoài nước đã tỏ ra thiện cảm và quan tâm đến lý tưởng đấu tranh của chúng
tôi; nhiều người đã thẳng thắn phát biểu rằng họ rất tán trợ đường lối
tranh đấu đó.
Như vậy thì Ngài cũng không chấp
nhận cả việc cầm vũ khí chống lại Hitler?
Tôi không chắc. Chúng ta cần phải đi vào
chi tiết. Vào thời điểm mà chủ nghĩa Quốc xã bám rễ và bắt đầu phát huy
sức mạnh, uy thế, nếu tôi ở vào thời điểm bấy giờ tôi sẽ vận dụng mọi nỗ
lực cá nhân của mình để tìm cách ngăn chặn.
Cách đây không bao lâu, lúc còn ở Ba Lan
tôi có dịp thăm viếng trại tập trung Auschwitz, nơi mà hàng ngàn người dân
vô tội đã bị Ðức quốc xã thủ tiêu. Tôi dừng lại trong giây lát trước phòng
hơi ngạt và khi nhìn thấy cái lò thiêu xác, tôi đã không dấu được nỗi ngậm
ngùi. Càng đau buồn hơn khi tôi đứng trước cả một núi giày và tóc của nạn
nhân. Trong cái đống giày đó tôi nhìn thấy một đôi giày nhỏ, một đôi giày
đã bị thủng được vá lại, chắc là của một đứa bé nghèo. Tôi tự hỏi mình tại
sao họ lại nỡ tâm tàn sát những người dân vô tội này? Tại sao? Hãy tưởng
tượng rằng trong thời điểm này, một bên là một nhúm nhỏ lính mật vụ xung
phong SS Ðức canh gác, còn một bên là một khối lượng đông đảo những người
Do Thái, Pháp, Ba Lan đang bị cầm tù. Giả dụ rằng nếu lúc đó ta có đủ điều
kiện trong tay, chỉ cần loại trừ vài người lính SS này, thì hàng ngàn
người sẽ được giải phóng, tự do, phải không? Nếu lúc đó tôi có vũ khí
trên tay, và tôi biết chắc chuyện như vậy sẽ xảy ra... Tôi phải làm sao
đây, thật là khó nói. Mà thôi, đó chỉ là chuyện giả tưởng, cũng chẳng có
ích lợi gì để nhắc lại. Tuy nhiên tôi tin rằng nếu bạn ở trong hoàn cảnh
đó, chắc là bạn cũng sẽ đứng về phía với tôi.
Thưa Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, có thể
có nguy cơ những thông điệp mà Ngài muốn rao truyền đến chúng tôi đã bị
làm sai lạc đi bởi các hệ thống truyền thông bao quanh Ngài?
Tôi không nghĩ thế. Dĩ nhiên cũng có lúc
một số câu, lời nói của tôi đã bị xuyên tạc, thế nhưng nói chung phía
truyền thông đã dành cho tôi mọi sự thiện cảm và những đáp ứng của họ rất
tích cực.
Tôi rất ngưỡng mộ tinh thần nghề nghiệp của
giới báo chí và tôn trọng quyền được chỏ mũi của họ vào công việc của
người khác, bởi vì tôi nghĩ rằng họ làm như thế không ngoài mục đích phơi
bày ra những vụ xấu xa tai tiếng và ngăn ngừa sự nhũng nhiễu lạm quyền. Có
nhiều người rất thông minh và sở trường trong nghệ thuật dấu diếm các việc
làm bất chính. Bạn có thể tìm thấy điều này trong giới chính khách cũng
như thương gia và thỉnh thoảng ngay cả trong địa hạt tôn giáo, hoặc trong
giới giáo sư đại học không chừng, ai mà biết được! Ðây là kết quả của sự
thiếu vắng ý thức kỹ luật, đạo đức của một số người có một vị trí quan
trọng trong xã hội. Giới truyền thông báo chí rất tinh tường nhạy bén, có
nghĩa là họ có khả năng khám phá ra những tình huống như vậy, và tôi nghĩ
đây là một khía cạnh khá tích cực, bởi vì nếu một người được coi là lương
thiện, tất cả mọi biểu hiện của họ cần phải nên trung thực. Nếu có sự sai
khác nào giữa hai khía cạnh này, cá nhân đó không thể là người đáng tin
cậy, họ chỉ tìm đủ mọi cách để dối gạt kẻ khác. Thế nên tôi tin rằng giới
báo chí truyền thông đã hoạt động rất tích cực trên mặt phơi bày sự thực
này.
Ngài có nghĩ rằng chính phủ Pháp
rất đạo đức giả khi đã không tiếp đón Ngài một cách chính thức, cũng như
đã không đối đầu một cách thẳng thắn rõ ràng với Trung Cộng về vấn đề Tây
Tạng?
Tôi không nghĩ là người ta nên lên án một
chính phủ vì những việc như thế. Hãy lấy người Tây Tạng của chúng tôi làm
một thí dụ: Họ muốn rất nhiều, thế nhưng một số người khác đang gánh vác
trách nhiệm như chúng tôi, phải dựa vào rất nhiều yếu tố để xem xét cân
nhắc một vấn đề. Một chính phủ cũng thế, những hành động của họ đều phải
dựa trên tình huống thực tại. Tôi không thể cáo buộc một quốc gia trên căn
bản cá nhân, thế nhưng tôi lên án nền chính trị quốc tế một cách tổng quát:
Có một cái gì đó rất trục trặc trong đường lối, chính sách toàn cầu.
Những người mang tinh thần thực tiễn chính
trị luôn luôn cho rằng không có chỗ đứng cho yếu tố đạo đức trong chính
trị. Ðây là một quan niệm hoàn toàn sai lầm, bởi vì như một hệ quả, một số
các quốc gia nhược tiểu sẽ phải gánh chịu những khổ nạn mà trong đó, những
thành phần yếu kém, bất hạnh nhất sẽ gánh chịu nhiều đau khổ nhất. Cuối
cùng với những chính sách như thế, các đại cường về lâu về dài cũng không
tránh khỏi bị công kích từ mọi phía.
Tôi xin được cống hiến cùng qúy vị một kinh
nghiệm cá nhân. Vài năm trước đây tôi có dịp viếng thăm Mạc Tư Khoa, ngay
sau cuộc cách mạng Tháng Tám. Sau đó khi rời AÂu Châu trở lại Ấn Ðộ, tôi
gặp một viên chức người Phi Châu cùng đi chung một chuyến bay. Khi dừng
lại ở Tân Ðề Li, chúng tôi đã chuyện trò tán gẫu với nhau trong giây lát,
và tôi đã chia xẻ những cảm nghĩ của tôi với ông ta về những biến cố vừa
xảy ra tại Mạc Tư Khoa. Tôi cho biết rằng mình đã rất hài lòng khi chứng
kiến tình huống hiện nay giữa hai siêu cường nguyên tử đã thay đổi, ít
nhất là trong một thời gian tới con người sẽ không còn lo sợ bởi hiểm họa
của một cuộc chiến tranh nguyên tử. Tôi nghĩ là ông ta cùng chia xẻ những
cảm nghĩ như thế. Nhưng thực tế khác hẵn với điều tôi chờ đợi.
Vị quan chức Phi Châu này giải thích với
tôi rằng, trước và trong thời gian Chiến Tranh Lạnh, các quốc gia của Thế
Giới Thứ Ba còn có chỗ đứng để vận động, gây ảnh hưởng và có thể biết được
những cái mà họ trông chờ thu hoạch được. Nay thì những tụ điểm liên hệ
đã biến mất nhường chỗ cho một giai đoạn cực kỳ bất ổn mà họ phải đương
đầu. Tự nhiên tôi cảm thấy một mối thiện cảm sâu xa đối với ông ta. Tôi
luận ra rằng, tất cả đều giống nhau, khối độc tài Ðông AÂu tự gọi mình là
“những-người-yêu-hòa-bình” nhưng trong thực tế đã sử dụng phần lớn ngân
sách của họ cho việc chế tạo vũ khí, và khi làm như thế họ đã hy sinh phúc
lợi của dân tộc họ. Các quốc gia Tây phương, dĩ nhiên không phải là không
có sai lầm, nhưng may mắn được sống dưới chế độ dân chủ mà óc sáng tạo của
con người có cơ hội và điều kiện phát triển một cách toàn diện, đã đưa đến
những phát kiến quan trọng trong các lãnh vực kinh tế, giáo dục, khoa học.
Dĩ nhiên chúng ta cũng đã chứng kiến những tiến bộ khoa học lớn lao của
Liên Bang Sô Viết cũ, nhưng những thành tựu của họ thường liên hệ với
những hoạt động quân sự.
Thực tế cho thấy thế giới bây giờ đã trở
nên an toàn hơn. Tuy nhiên đối với các quốc gia Thế Giới Thứ Ba, có phải
hình ảnh của Tây phương, cụ thể là Mỹ là hình ảnh biểu trưng của những gì
được gọi là dân chủ, tự do, của phẩm giá con người? Không, không hoàn toàn
như thế. Tại sao? Tại vì họ bị chế ngự bởi tinh thần chính trị chỉ biết
phục vụ cho lợi ích của chính mình, nền chính trị của những nhà chính
khách chuyên nghiệp. Nếu những nguyên tắc đạo lý được tôn trọng trong
chính sách đối ngoại, sẽ không bao giờ có những vấn nạn như thế xảy ra.
Ðây là điều sai lầm lớn lao cần phải được sửa chữa. Tôi thường phát biểu
với các người bạn Hoa Kỳ rằng: Bây giờ thì quý vị đã là một siêu cường duy
nhất, sự thay đổi tùy thuộc ở qúy vị; qúy vị nên quay về với những nguyên
tắc của các nhà chính khách vĩ đại trong lịch sử Hoa Kỳ như Jefferson hoặc
Lincoln, những người biết tôn trọng những giá trị của tự do và dân chủ,
cũng như đã chiến đấu để bảo vệ những giá trị đó.
Ðể kết luận, một chính khách có
cần thiết được hướng dẫn bởi lòng từ bi?
Vâng. Tôi nghĩ như thế. Nhưng phải là lòng
từ bi thông minh, được soi sáng bởi trí tuệ.
CỘNG ÐỒNG THẾ GIỚI
Thưa Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, bằng
cách gì truyền thống của Phật giáo Tây Tạng có thể mang lại những lợi lạc
cho toàn thể nhân loại?
Trước tiên, từ cốt lõi của Phật giáo Tây
Tạng đã có một truyền thống đối thoại cởi mở giữa các tông phái khác nhau,
một truyền thống mà tôi nghĩ là có thể rất dễ dàng mở rộng đến các tôn
giáo khác. Thế nên những trao đổi hữu ích giữa các tôn giáo khác biệt trên
thế giới với Phật giáo là chuyện khả hữu. Thêm vào đó, ngay tự bản chất
Phật giáo Tây Tạng đã gắn mình vào với các nguyên lý căn bản quan trọng
của tình nhân ái và lòng từ bi. Những ý niệm này tự nhiên sẽ mang đến lợi
lạc cho tâm hồn của bất cứ những ai rộng mở đón nhận những giáo lý như thế.
Bất hạnh thay, trong lúc này người Tây Tạng
chúng tôi đang phải đối diện với một thực tế cực kỳ đen tối và nguy hiểm,
đó là khả năng một đất nước có thể bị xóa tên trên bản đồ thế giới cùng
với nền văn hóa nhất thống và có tính kế thừa của nó. Người Tây Tạng dĩ
nhiên là rất gắn bó với truyền thống văn hoá của mình, thế nhưng tại Tây
Tạng bây giờ họ đã không được cả quyền bày tỏ mối quan tâm của mình đối
với việc bảo tồn nền văn hoá này. Trong khi đó hiện nay tại Ấn Ðộ, mặc dầu
chỉ có khoảng hơn 100,000 dân Tây Tạng lưu vong, chúng tôi vẫn có những
phương pháp tiến bộ nhất để lưu giữ, bảo tồn toàn bộ di sản qúy báu đó.
Trong số dân tỵ nạn lưu vong, chúng tôi đã có đến khoảng 5,000 tăng sĩ và
học giả có khả năng gìn giữ và truyền đạt một cách rõ ràng chi tiết những
giáo lý thiết yếu của nền triết lý và Phật giáo Tây Tạng. Chúng tôi cũng
có một số lớn tu viện đặc biệt dành cho quý vị nữ giới muốn cống hiến đời
mình cho cuộc sống tu hành.
Ngoài ra phải kể đến hàng ngàn các trung
tâm Tây Tạng và đại học rải rác trên khắp thế giới chuyên nghiên cứu về
Phật giáo và Tây Tạng, đã góp phần quan trọng vào việc bảo tồn và phát huy
những kiến thức liên quan đến đất nước và truyền thống tâm linh của chúng
tôi. Khoảng 2,000 trung tâm như thế đã có mặt tại AÂu Châu, Nam và Bắc Mỹ,
Úc Châu, Tân Tây Lan và nhiều quốc gia khác. Tôi cũng nhận thấy là người
Pháp đã tỏ ra rất quan tâm đặc biệt đến nền văn hoá Tây Tạng. Chuyện này
đã gây ấn tượng sâu đậm đối với tôi ngay từ chuyến viếng thăm qúy quốc lần
đầu tiên và tôi không ngừng hy vọng rằng những mối dây thân ái này sẽ mãi
mãi nẩy nở,kể từ lần đầu gặp gỡ.
Những sự thực liên quan đến lịch sử Tây
Tạng thường hay bị xuyên tạc. Thế nên quả là điều cần thiết khi chúng ta
cho phổ biến các văn bản hàm chứa những sự kiện trung thực và thông báo
cho người Trung Quốc biết điều này. Nó sẽ giúp cho các sử gia và các học
giả có được một hình ảnh sáng tỏ về trạng huống hiện nay một khi thực tế
lịch sử được phơi bày ra ánh sáng. Những tinh thần cực đoan, sai lầm, bè
phái, và cái nhìn lệch lạc vì thế sẽ chẳng mang lại những sức mạnh tích
cực và dĩ nhiên không thể sử dụng chúng cho việc xây dựng tương lai. Chính
sức mạnh của sự thực -đặc biệt là trong thời đại mà số phận của phần lớn
các chế độ độc tài toàn trị lần lượt cáo chung- sẽ giúp chúng ta khả năng
một lần nữa cống hiến đời mình cho lý tưởng đấu tranh của nhân dân Tây
Tạng. Những kẻ chuyên tuyên truyền xuyên tạc, bóp méo sự thật rốt cùng nói
cũng chẳng ai nghe; đó là lý do tại sao tôi phải lập lại lời kêu gọi cái
được gọi là thế giới văn minh hãy sử dụng mọi biện pháp khả hữu để bảo tồn
những truyền thống qúy giá của Tây Tạng.
Thưa Ngài, gần đây một số lớn
các nhà khoa học đã gặp gỡ nhau tại Paris để bày tỏ mối quan tâm của họ về
tình trạng xuống cấp trong lãnh vực môi sinh tại Tây Tạng. Họ đã đề nghị
xếp quốc gia này -toàn bộ hay một vài phần- thuộc về di sản thiên nhiên và
văn hoá của nhân loại. Ngài có nghĩ rằng trong tình huống hiện nay đề nghị
này có thể được chấp nhận và nếu như chuyện đó xảy ra, việc này có thể
được đệ trình lên Trung Cộng để họ chấp thuận?
Vâng! Tôi nghĩ rằng đây là một ý kiến rất
hữu ích và hoàn toàn có thể thực hiện được, nhưng bên cạnh đó thực tế cho
thấy là có những công việc cần phải làm để biến việc này trở thành sự thực.
Tây Tạng là một quốc gia cổ kính lâu đời với rất nhiều di tích lịch sử
không những chỉ có giá trị đối với riêng người Tây Tạng mà cho cả toàn thế
giới. Ðã có rất nhiều tổ chức lên tiếng một cách nghiêm túc về việc bảo
tồn di tích Potala và những thánh tích khác. Nhiều người còn cho rằng ngôi
tự viện chính của thủ đô Lhasa -Tsuglakhang- cần phải được bảo vệ, cũng
như toàn cả khu vực thành phố. Tại sao không? Thủ đô này đã gắn bó chặt
chẽ với cuộc sống chuyển lưu chung quanh Potala. Một điều khá bất hạnh là
gần đây những kiến trúc mới xây dựng đang làm thay đổi dần khu vực gia cư
truyền thống, và khuôn mặt của thủ đô Lhasa đã hoàn toàn bị biến dạng, nếu
không nói là đang ở trong mối hiểm nguy bị xóa sổ. Ðây thêm một lý do nữa
để thủ đô Tây Tạng được đưa vào danh sách các thành phố cần được bảo tồn.
Sự xâm lăng của Trung Cộng đã
gây nên những bất quân bình nào về mặt sinh thái của Tây Tạng, từ rừng rú,
thổ nhưỡng, sông ngòi, v.v...? Tình huống hiện nay ở Tây Tạng như thế nào?
Ðây làmột trong những mối ưu tư lớn nhất
đang đè nặng lên chúng tôi. Nạn phá rừng trong một vài khu vực đã làm cho
đất đai bị xói mòn, chưa kể là việc tập trung khai thác một cách bừa bải
các mỏ khoáng chất vốn rất phong phú ở xứ chúng tôi đã làm cho tình trạng
này càng thêm nghiêm trọng; theo tài liệu của nhà cầm quyền Trung Cộng,
Tây Tạng có đến 167 loại khoáng chất khác nhau, nhiều loại rất qúy hiếm.
Nhưng tệ hại nhất là việc Trung Cộng đã sử
dụng toàn bộ đất nước chúng tôi làm bải rác chứa các chất thải nguyên tử
của họ. Một điều chắc chắn là khu vực cạnh hồ Kokonor nay đã trở thành kho
chứa toàn bộ vũ khí nguyên tử của Trung Quốc cũng như một trung tâm nghiên
cứu nguyên tử đã được xây dựng trong lòng đất tại đây mà họ gọi là “Học
Viện Thứ Chín”.
Chưa hết, tất cả những yếu tố góp phần vào
việc làm xuống cấp môi sinh tại Tây Tạng, cần phải được kể thêm một sự
kiện hiện đang là mối quan tâm sâu xa của các nhà khoa học tại Ấn Ðộ cũng
như trên toàn thế giới: đó là vấn đề ô nhiễm các giòng sông lớn tại Á Châu
do tình trạng nhiễm độc tại đầu nguồn, nói rõ ra là tại Tây Tạng do Trung
Cộng gây ra. Tình huống này đã gây ra một mối hiểm họa lớn lao cho toàn
khu vực và các quốc gia sống dọc theo những dòng sông này, kể cả Trung
Quốc, Việt Nam, Lào, Ấn Ðộ, Bangladesh, và Hồi Quốc.
Ngài có nghĩ rằng bản sắc văn
hoá của Tây Tạng vẫn còn có thể được duy trì trong một thời gian lâu hơn
trước sự gia tăng quyền lực của Trung Cộng?
Trong hơn bốn mươi năm bị Trung Cộng xâm
chiếm, mặc cho bao nghịch cảnh, tai ương, người Tây Tạng vẫn không ngừng
cố gắng bảo tồn nền văn hoá đã gắn bó mật thiết lâu đời với họ. Cho dù
những tàn phá và hủy hoại gây ra, vấn đề cũng chưa đến nỗi quá muộn. Niềm
hy vọng vẫn không bao giờ tàn lụi, nền văn hoá của chúng tôi không những
có thể được bảo tồn mà còn được phục sinh. Tuy nhiên mối nguy cơ hàng đầu
đối với chúng tôi vẫn là chính sách chuyển dân chiếm đất của Trung Cộng.
Một sự kiện bi thảm là người Tây Tạng bây giờ đã trở thành kẻ thiểu số
ngay chính trên quê hương đất nước của mình. Trong tất cả những thành phố
lớn tại Tây Tạng -Lhasa, Chamdo, Shigatse, Gyangtse- người Trung Quốc nay
chiếm hai phần ba dân số, người Tây Tạng chỉ còn một phần ba. Dĩ nhiên tại
những vùng quê xa xôi hẻo lánh, người ta có thể chỉ thấy toàn là người
Tây Tạng. Thế nhưng tại những vùng đất đai màu mỡ, hoặc cao độ thấp -điều
kiện sống tương đối dễ thở hơn- người Trung Quốc nay đã chiếm một số lượng
rất lớn.
Trong số các tài liệu mà chúng
tôi nhận được, có một bản đề ngày tháng Năm, 1992 đề cập đến một cuộc họp
mật của nhà cầm quyền Trung cộng thảo luận về nội dung liên quan đến việc
gia tăng chính sách chuyển dân Trung Quốc vào Tây Tạng. Thưa Ngài, Ngài
có biết đến nội dung của bản tài liệu mật này không, cũng như những hậu
quả trước mắt của nó là gì ?
Ðúng vậy. Chúng tôi cũng có trong tay bản
tài liệu này với đầy đủ mọi chi tiết khiến chúng tôi tin chắc rằng đây là
bản tài liệu thực, có giá trị.
Lúc tôi còn ở Bắc Kinh năm 1954 và đầu năm
1955, trước khi rời khỏi nơi này, tôi đã đến chào xả giao Chủ tịch Mao
Trạch Ðông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu AÂn Lai và các quan chức cao cấp khác trong
chính quyền Trung Cộng. Lưu Thiếu Kỳ lúc đó được coi như là người lãnh đạo
trực tiếp của tôi, bởi vì trong thời gian này tôi đang là Phó Chủ Tịch Hội
Ðồng Thường Trực của Quốc Hội Nhân Dân Trung Quốc mà ông ta là Chủ tịch.
Trong cuộc đàm luận này, ông ta bảo rằng: “Tây Tạng của qúy vị có một lãnh
thổ rộng lớn, trong khi Trung Quốc của chúng tôi thì dân số lại đông đảo,
chúng ta cần nên thúc đẩymột sự trao đổi hữu ích giữa đôi bên.” Ðó là một
bằng chứng hiển nhiên cho thấyrằng họ đã có tham vọng từ hồi đó, muốn tiến
hành một chính sách chuyển dân lớn lao vào Tây Tạng.
Kể từ khi đất nước của chúng tôi bị sát
nhập vào lãnh thổ Trung Quốc, dân số Trung Quốc tại Tây Tạng đã không
ngừng gia tăng năm này qua năm khác, đặc biệt là trong những năm gần đây,
được núp bóng dưới chiêu bài mệnh danh là chính sách “mở cửa” kinh tế. Bất
cứ lúc nào mà người Trung Quốc nghe được nơi nào dễ sống, họ lại lũ lượt
kéo đến với đông đủ gia đình. Hãy lấy thủ đô Lhasa, một thành phố lớn của
Tây Tạng, nơi mà cuộc sống không đến nỗi khó khăn như những nơi khác, làm
một thí dụ cụ thể: Người Trung Quốc ở đây hiện nay đã chiếm một tỷ lệ đông
đảo hơn người Tây Tạng, đó là một sự thực mà chính quyền Trung Cộng luôn
lên tiếng phủ nhận. Họ chính thức công bố là chỉ có khoảng 10,000 người
Trung Quốc tại Lhasa. Thế nhưng thực tế lại hoàn toàn khác biệt. Không
phải là 10,000 mà có đến hơn 100,000 người Trung Quốc hiện đang sinh sống
tại Lhasa, trong khi dân số Tây Tạng tại đây không quá 50,000 người. Thực
trạng là như thế. Ở một vài khu vực hẻo lánh thuộc lãnh thổ Tây Tạng, dân
Trung Quốc còn đông gấp bội dân bản xứ. Tình huống này đã gây nên những
bức xúc lo âu cho số người Tây Tạng ít ỏi còn sót lại trong khu vực, khi
mà đồng bào của họ đã bỏ đi đến những vùng có đông đảo người Tây Tạng sinh
sống. Dù trường hợp nào đi nữa thì bây giờ tại Tây Tạng cũng đã có đến hơn
7 triệu dân Trung Quốc so với khoảng 6 triệu người bản xứ.
Bạn có biết là những nhà cầm quyền của chế
độ độc tài toàn trị thường sử dụng nhiều thủ thuật, chẳng hạn như trên mặt
công luận thì họ cho công bố những chính sách đẹp đẽ nhưng chẳng bao giờ
áp dụng, trong khi đó những chính sách mà họ đem ra thực hiện một cách
mạnh mẽ thì chẳng bao giờ công bố trước công luận? Ðó là trường hợp dân số
Trung Quốc tại Tây Tạng tăng vọt hằng ngày, trong khi chính quyền thì cứ
một mực phủ nhận; đó cũng là trường hợp người dân bản xứ Tây Tạng bắt buộc
phải có giấy đi đường mới được quyền di chuyển trong đất nước của mình và
thường là có nguy cơ bị trục xuất ra khỏi Lhasa, không cho đăng ký hộ khẩu
cư trú tại đây. Nếu nhà cầm quyền Trung Cộng không có ý đồ trong việc cho
chuyển dân vào Tây Tạng, tại sao họ lại không chấm dứt thảm kịch này? Thế
nên ta có đủ lý lẽ để tin chắc rằng nhà nước Trung Cộng đang âm mưu tổ
chức việc tái định cư dân của họ đang ngày càng gia tăng ngay tại chính
quốc.
Tôi xin được nói thêm đôi điều. Là một con
người, tôi nhận thức rằng nhân loại nhìn chung như là một thực thể thống
nhất. Thế cho nên đối với vấn đề chuyển dân này, ở một mức độ nào đó,
người Tây Tạng có thể chấp nhận được nếu Trung Quốc thực hiện trong tinh
thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau. Trong trường hợp như thế, chúng tôi
sẵn sàng chia xẻ cái lãnh thổ rộng lớn này với người Trung Quốc, hiện
đang gặp khó khăn trướ c tình trạng mật độ dân cư đông đúc và yếu kém về
mức sống kinh tế. Tuy nhiên kể từ lúc xâm lăng Tây Tạng, đến nay đã hơn
bốn mươi năm, chính sách xâm lăng dân số này luôn đi đôi với sự tàn phá
rất nhiều khu vực và như thế nó chẳng bù đắp được chút nào cho việc gọi là
phát triển đất nước chúng tôi. Ngài Ban Thiền Lạt Ma, người bị tất cả mọi
người cho là thân Trung Cộng nhưng thực tế không phải vậy, đã công khai
tuyên bố hai ngày trước khi Ngài viên tịch, rằng sự phát triển kinh tế
khiêm tốn do Trung Quốc mang lại không thể nào đền bù được những phá hoại
lớn lao mà họ đã gây ra. Trong hơn bốn mươi năm qua nhân dân Tây Tạng đã
gánh chịu những thống khổ vô bờ. Dĩ nhiên, trên văn kiện chính thức của
Trung Quốc, họ vẫn gọi chúng tôi là những người thiểu số Trung quốc, là
những “anh em chị em” thân thiết của họ! Họ vẫn thường liên hệ hình ảnh
Trung Quốc như là một đại gia đình gồm có năm anh em. Nhưng trong trường
hợp này, đáng buồn thay người anh cả đã không ngớt hành hạ, đày ải người
em nhỏ của mình! Tôi đang đề cập đến những sự kiện lịch sử có thực.
Sự gia tăng dân số Trung Quốc tại Tây Tạng
hiển nhiên đã gây nên một tình trạng cực kỳ căng thẳng. Khi một số lượng
lớn dân Trung Quốc tăng lên ở một vùng nào đó, sự căng thẳng phát khởi
không phải chỉ thuần túy vì vấn nạn công ăn việc làm mà ngay cả trên các
địa hạt khác chẳng hạn như giáo dục hay y tế, những lãnh vực mà sức ép của
dân Trung quốc vốn chiếm đa số đã gây nên những hệ quả nhức nhối. Bên cạnh
đó, những ngân khoản trên nguyên tắc được sử dụng vào việc phát triển Tây
Tạng về các mặt phục vụ công cộng, giáo dục, y tế, trong thực tế đa phần
đều rơi vào túi của người Trung Quốc.
Trong số những vấn đề căng thẳng khác phải
kể đến lãnh vực môi sinh. Như qúy vị đã biết, theo truyền thống Tây Tạng
cấm săn bắn chim chóc, tôm cá. Người Tây Tạng trong bất cứ hoàn cảnh nào
cũng đều cố gắng tránh không dự phần vào những hoạt động này. Sự đi nhiễu
chung quanh những khu vực thánh địa chẳng hạn như Potala hay ngôi đại tự
tại Lhasa cũng đã tạo nên căng thẳng. Phong tục của người Tây Tạng là đi
theo chiều kim đồng hồ trong khi đó người Trung Quốc lại cố tình đi theo
hướng ngược lại. Những hình thức hạ nhục kiểu này chỉ làm tăng thêm mối
căng thẳng và bất mãn trong lòng dân chúng Tây Tạng. Nhà cầm quyền Trung
Cộng thường tỏ ra chẳng hề đếm xỉa đến những vụ sát nhân nếu do người Tây
Tạng tự giết lẫn nhau, trong khi đó nếu chẳng may họ đụng đến người Trung
Quốc dù chỉ là một vụ ẩu đả thường cũng vẫn bị coi là phạm một đại trọng
tội và bị nghiêm trị. Ðấy là chưa kể đến không biết bao nhiêu những vụ vi
phạm nhân quyền đã diễn ra trên đất nước Tây Tạng.
Sự gia tăng không ngừng những vụ việc như
thế -dù vô tình hay cố ý- là một bằng chứng hiển nhiên của sự diệt chủng
văn hoá. Tôi đã cáo giác việc này và không ngừng lập đi lập lại bất cứ lúc
nào có cơ hội. Ngay khi chúng tôi thiết lập được sự liên lạc với nhà nước
Trung Cộng, trong bản Kế Hoạch Hoà Bình Năm-Ðiểm gởi đến họ, tôi đã chính
thức yêu cầu phải đình chỉ ngay việc di dân Trung Quốc vào Tây Tạng. Thế
nhưng chính quyền Trung Cộng đã có vẻ như không có ý định từ bỏ chính sách
này, sự hiện hữu của một kế hoạch mà họ luôn phủ nhận. Họ luôn tuyên bố
trước dư luận rằng Tây Tạng rất thoả mãn được là vùng tự trị của Trung
Quốc. Và như quý vị đã thấy, “vùng tự trị” mà họ nói tới đã không còn mang
một ý nghĩa nào cả.
Thưa Ngài, công việc sửa soạn để
bắt đầu thảo luận với nhà nước Trung Cộng về vấn đề độc lập Tây Tạng nay
đã đi đến đâu?
Trong hoàn cảnh hiện nay, tôi tự thấy có
bổn phận phải làm tất cả những gì có thể làm được để bảo vệ nền độc lập
của quê hương đất nước tôi. Trong chiều hướng đó, tôi nghĩ rằng phương
cách tốt nhất để đạt đến mục tiêu này là trực tiếp thương thuyết với Trung
Quốc. Tuy nhiên, mười bốn năm trước đây khi chúng tôi thành công trong
việc tạo được mối liên lạc với họ, qua trung gian của phái đoàn của tôi;
Ðặng Tiểu Bình đã đặt ra một điều kiện quan trọng làm nền tảng cho những
cuộc thương thuyết, đó là có thể thảo luận tất cả mọi vấn đề ngoại trừ sự
độc lập của Tây Tạng, cho dù mọi người đều thấy rằng đứng ở trên bất cứ
quan điểm nào, Tây Tạng vẫn là một quốc gia độc lập như đã được minh chứng
qua văn hóa, ngôn ngữ, lịch sử của nó, và thực tế là quốc gia đó hiện nay
đang nằm dưới ách xâm lược của ngoại quốc.
Trên căn bản những lời tuyên bố của Ðặng
Tiểu Bình và để phù hợp với những điều kiện thực tiễn, tôi đã tạm thời cố
gắng thực hiện những cuộc thương thuyết với họ trên quan điểm xem Tây Tạng
như là một lãnh thổ tự trị của Trung Quốc. Tôi đã không đòi hỏi một sự
chia cắt hoàn toàn nào giữa hai quốc gia. Tôi đã tuyên bố với nhà nước
Trung Cộng rằng những gì của quá khứ nay hãy cho vào quá khứ, kể từ bây
giờ tôi đang hướng vọng về tương lai. Chúng tôi hiện vẫn lưu giữ toàn bộ
các tài liệu, văn bản liên quan đến các cuộc thảo luận đó, mà nội dung cho
thấy là về phía chúng tôi, tôi đã cố gắng đến mức nào khi phải chấp nhận
những nhượng bộ tối đa. Căn cứ vào những thực trạng và bối cảnh chính trị
hiện tại, tôi nghĩ rằng cách thức tiếp cận của mình là thực tiễn nhất, nếu
không nói là duy nhất có thể chấp nhận được. Ðó là lý do tại sao mà tôi
thường gọi đó là đường lối thương thuyết Trung Ðạo. Ngoài ra đối với bất
cứ những mục tiêu tương lai nào khác, tôi vẫn luôn nhấn mạnh rằng chúng
hoàn toàn tùy thuộc vào sự quyết định của nhân dân Tây Tạng, và kết quả dĩ
nhiên cũng sẽ tùy thuộc rất lớn vào thái độ của Trung Quốc.
Ðể trả lời cho Kế Hoạch Hoà Bình Năm-Ðiểm
của tôi, nhà cầm quyền Trung Cộng trong những năm đầu của thập niên tám
mươi đã nêu đề nghị rằng tôi nên hồi hương về Tây Tạng. Tôi đã trả lời với
họ rằng vấn đề hồi hương đâu có phải là vấn đề quan trọng thực sự, mục
tiêu chính yếu nhằm đạt đến chính là sự bảo vệ và gìn giữ các quyền căn
bản và nền văn hóa của sáu triệu dân Tây Tạng. Bao lâu mà Trung Quốc không
hề làm bất cứ điều gì để giải quyết vấn nạn này thì họ đừng bao giờ nói
đến chuyện hồi hương của tôi. Còn nếu họ muốn nói chuyện với Ðạt Lai Lạt
Ma chỉ vì vấn đề hồi hương không mà thôi, tất cả mọi nỗ lực sẽ chẳng đi
đến đâu cả. Còn mặt khác, nếu họ muốn thật tình thảo luận nghiêm chỉnh về
những vấn đề then chốt của Tây Tạng, phần tôi, tôi sẽ luôn sẵn sàng đặt
mình dưới sự sắp xếp của họ, bất cứ thời điểm nào, ở nơi đâu mà họ chọn
lựa để gặp gỡ. Ngoài ra, chính tôi cũng đã công khai đưa ra hai giải pháp
liên quan đến vấn đề này, mà trong đó một giải pháp nêu đề nghị cần vận
động sức mạnh của áp lực quốc tế ngay lập tức đối với nhà nước Trung Cộng,
mà mục tiêu là thúc đẩy họ bắt đầu thực hiện những cuộc thương thuyết có ý
nghĩa càng sớm càng tốt. Công việc trước mắt của tôi hiện nay là dồn mọi
nỗ lực cho giải pháp này.
Chúng ta cũng đừng nên quên rằng nhà nước
Trung Cộng luôn luôn quan niệm rằng Tây Tạng là một phần lãnh thổ không
thể tách rời của họ; thế nên họ đã dành cho mình cái quyền tự do làm bất
cứ điều gì mà họ muốn đối với Tây Tạng. Thế nhưng đứng trên quan điểm lịch
sử, đây là một sai lầm nghiêm trọng. Năm 1914, khi thỏa ước Simla được ký
kết, thiết tưởng tôi không cần phải nêu rõ chi tiết ở đây, chính phủ Anh
đã công nhận Tây Tạng là một quốc gia tự trị -điều này đã làm cho Trung
Quốc từ chối phê chuẩn. Chính phủ Anh chỉ chấp nhận quyền bảo hộ của Trung
Quốc đối với Tây Tạng với điều kiện Trung Quốc tôn trọng quyền tự trị của
Tây Tạng. Chính phủ Ấn Ðộ cũng đã công nhận Tây Tạng như là một vùng tự
trị chứ không phải là một phần lãnh thổ của Trung Quốc. Theo các chuyên
gia Anh, tự trị là ngôn ngữ để chỉ một thực-tế độc lập. Năm 1954, trong
chuyến thăm viếng Bắc Kinh, chính Mao Chủ tịch đã đích thân bảo tôi rằng
đã có một thời TâyTạng là một quốc gia hùng mạnh từng xâm chiếm Trung Quốc,
và bây giờ khi Tây Tạng trở nên yếu kém hơn, Trung quốc thấy có nghĩa vụ
phải giúp đỡ chúng tôi. Ông ta còn hứa hẹn rằng Trung Quốc sẽ triệt thoái
khỏi Tây Tạng sau khi giúp đất nước này đạt đến một mức độ phát triển nào
đó. Năm 1956, khi tôi còn ở Ấn Ðộ, đồng thời với cuộc thăm viếng của Chu
AÂn Lai, ông ta đã tuyên bố với Thủ tướng Ấn Ðộ, Jawaharlal Nehru, rằng
nhà nước Trung Cộng không xem Tây Tạng như là một tỉnh của Trung Quốc, mà
là một “trường hợp cá biệt”. Người ta thấy không bao giờ Trung Quốc đi xâm
chiếm các lãnh thổ khác lại tuyên bố như thế.
Mặc dù được soạn thảo dưới sức ép nặng nề,
một thỏa ước mười-bảy-điểm cũng đã được ký kết giữa chúng tôi và Trung
Quốc. Với tất cả những sự kiện lịch sử đã được minh chứng, quả là điều
hoàn toàn sai lầm khi xem Tây Tạng là một phần lãnh thổ của Trung Quốc kể
từ thế kỷ thứ 13 như họ đã từng khẳng định. Ðó là lý do khiến tôi nghĩ
rằng kể từ khi chính Trung Quốc tự mình tuyên bố rằng Tây Tạng là một
“trường hợp cá biệt”, cộng đồng quốc tế cần phải có những hành động khả dĩ
làm sáng tỏ vị trí lịch sử của Tây Tạng trong quá khứ, nghiên cứu vấn đề
dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế cũng như lưu ý đến những khía cạnh
khác biệt sâu xa giữa hai nền văn hóa Trung Quốc và Tây Tạng. Không có ai
khẳng định được rằng ngôn ngữ Tây Tạng là tiếng Trung Hoa. Cũng thế, khi
người ta nói đến Phật giáo Trung Quốc, Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Tây
Tạng là bao hàm ý nghĩa phân biệt đó. Thế nhưng mặc cho những sự kiện này,
Trung Quốc luôn luôn muốn biến ngôn ngữ Tây Tạng thành ngôn ngữ Trung Quốc,
đồng hoá tôn giáo của chúng tôi thành tôn giáo của họ. Dĩ nhiên, điều này
không thể nào phù hợp được với thực tế. Trong một hội nghị về Tây Tạng
nhóm họp hồi gần đây, các chuyên gia quốc tế đã tuyên bố rằng, trên căn
bản của quyền tự quyết, Tây Tạng có đầy đủ thẩm quyền để quyết định tương
lai vận mệnh của mình. Ðây là vấn đề hoàn toàn sáng tỏ đối với tất cả mọi
người.
Ngài là một vị lãnh đạo tinh
thần và đồng thời cũng là lãnh tụ của một quốc gia hiện đang gánh chịu đau
thương dưới ách xâm lược hơn bốn mươi năm qua. Là một người đã từng có cơ
hội gặp gỡ khá nhiều những khuôn mặt chính trị trên khắp thế giới, có khi
nào Ngài cảm thấy oán giận khi thấy chỉ có một số rất ít người lên tiếng
ủng hộ chính nghĩa của Tây Tạng? Ngài có nghĩ rằng các nhà lãnh đạo các
quốc gia Tây phương hiện nay có thể đang có khuynh hướng giúp đỡ Tây Tạng
để quốc gia này khỏi bị xóa bỏ hoàn toàn bởi một lân bang hùng mạnh?
Tây Tạng hiện nay đang phải đương đầu với
rất nhiều nỗi khó khăn, thế nhưng ta phải nhận thấy một điều là trong thời
đại ngày nay các quốc gia sống cô lập như trước đây là một hiện tượng rất
hiếm hoi. Chính vì tình trạng sống cô lập của chúng tôi mà khi những vấn
nạn xảy ra do việc Trung Cộng xâm lăng Tây Tạng đã không được mấy ai để ý
tới. Quốc gia của chúng tôi là nạn nhân của sự xâm lược, và từ quan điểm
này, vấn đề Tây Tạng trên một phương diện nào đó có thể xem như là một vấn
đề cổ điển. Những vấn nạn có tính cách khẩn thiết đang xảy ra hàng ngày
trên mặt địa cầu này. Hơn thế nữa, dưới lăng kính kinh tế, Tây Tạng thoạt
trông có vẻ không có gì quan trọng đáng chú ý cả.
Tuy nhiên nếu bạn nhìn vấn đề một cách tổng
quát trên quan điểm toàn cầu, sự bày tỏ mối quan tâm của nhân dân trên thế
giới đối với chính nghĩa Tây Tạng ngày càng có dấu hiệu rất khích lệ. Từ
năm 1959 cho đến những năm của thập niên 60, đã có rất nhiều quốc gia lên
tiếng ủng hộ chính nghĩa của Tây Tạng trên diễn đàn Liên Hiệp Quốc. Trong
thời điểm đó, sự ủng hộ của phần lớn các quốc gia này như là một sự bày tỏ
thế đứng đối nghịch của mình đối với khối cộng sản. Tuy nhiên kể từ những
năm gần đây cho đến bây giờ, tôi nghĩ rằng nhiều quốc gia đã bày tỏ sự ủng
hộ của mình được phát xuất từ mối thiện cảm nhiều hơn, cũng như dựa trên
căn bản của những sự thật không thể phủ nhận được, một tình huống tuy khá
phức tạp nhưng hoàn toàn trung thực.
Những hoạt động trên lãnh vực
vận động quốc tế của Ngài thường nhắm đến giới truyền thông, các nhân vật
nổi tiếng, những lãnh tụ các quốc gia trên khắp thế giới. Những nỗ lực đó
có tạo nên những kết qủa cụ thể nào đối với Trung Quốc, và đưa đến sự cải
thiện tình huống tại Tây Tạng hay không?
Tôi rất hoan hỷ trước sự quan tâm của giới
truyền thông mà thông qua họ, đã tạo được mối cảm thông của nhân dân trên
thế giới đối với chính nghĩa của Tây Tạng, và tôi cho rằng sự chiếu cố của
họ là điều rất quan trọng. Sự kiện chính nghĩa của chúng tôi ngày càng
được nhìn nhận sẽ làm cho nhà nước Trung Cộng phải tỏ ra biết điều hơn
trong việc đối xử với nhân dân Tây Tạng cũng như quan tâm hơn đến các nhu
cầu của họ. Có ý kiến cho rằng thái độ kiến hiệu nhất là cứ việc chống đối
hoặc công kích Trung Quốc một cách thả dàn. Rất tiếc đây không phải là
thái độ của chúng tôi. Chỉ mới hai năm trước đây, nhà cầm quyền Trung Quốc
từ chối không công nhận kể cả phản bác lại bất cứ những lời tuyên bố nào
liên quan đến vấn đề nhân quyền tại Trung Quốc, cho rằng đó là chuyện nội
bộ của họ. Thế nhưng dần dần họ cũng đã phải tuân thủ và cho công bố một
tập tài liệu được gọi là “Bạch Thư “ về tình trạng nhân quyền ở trong
nước, và dưới sức ép của quốc tế họ đã phải đồng ý cho phép một vài phái
đoàn hiện diện tại Trung Quốc và Tây Tạng để theo dỏi vấn đề nhân quyền có
được tôn trọng hay không.
Tôi đã làm tất cả mọi chuyện trong phạm vi
quyền hạn của mình, cố gắng tạo điều kiện để mở ra những cuộc thương thảo
hợp tình hợp lý giữa đôi bên, nhưng phía Trung Quốc cứ luôn tìm cách từ
chối. Thế nhưng, áp lực bền bỉ của quốc tế đã buộc họ, ít nhất là không
còn dấu diếm được với thế giới bên ngoài rằng những cánh cửa đã mở rộng
cho những cuộc thương thuyết với Ðạt Lai Lạt Ma. Tuy nhiên mặc dù đã có
những nỗ lực như thế, tình hình tại Tây Tạng cho đến nay cũng không cải
thiện được bao nhiêu.
Ngài đề cao đường lối bất bạo
động và là một khuôn mặt quen thuộc tại phương Tây, thế nhưng Ngài có
nghĩ rằng những gì thực sự đang xảy ra đã quá đủ? Mọi người đều có ấn
tượng rằng những cố gắng đó chẳng mang lại đổi thay gì tại Tây Tạng và mối
nguy cơ diệt chủng đã gần kề. Thưa Ngài, Ngài chủ trương một hành động
chính trị quốc tế như thế nào trước tình huống này?
Nếu tình huống hiện tại đã được tiếp tục
kéo dài trong vòng mười hay mười lăm năm qua, ta có thể nói rằng mọi
chuyện nay đã muộn màng, thế nhưng ngay bây giờ ta vẫn thấy có những cơ
may là đường lối đó sẽ thành công. Ðó là lý do mà tôi đã không ngừng kêu
gọi tất cả các quốc gia, chính phủ trên thế giới hãy bày tỏ những thái độ
tích cực hơn. Là một Phật tử, chúng tôi thường có thói quen nói rằng mình
nương tựa vào ba ngôi Tam Bảo: Phật, Pháp-tức giáo lý Phật dạy, và Tăng
-tức cộng đồng tăng sĩ. Chúng tôi nay có thể thêm vào một ngôi thứ tư:
Cộng đồng quốc tế. Phật, Pháp, và Tăng có thể là những danh từ đầy bí ẩn
đối với qúy vị, nhưng khi nói đến mức độ giúp đỡ một cách tích cực, cộng
đồng quốc tế có thể trở thành chỗ nương tựa thứ tư mà mọi người đều hết
sức cần đến.
Những áp lực tinh thần tác động lên nhà
nước Trung Quốc đang mở ra một vết nứt rạn mà từ đó người ta có thể nghe
được tiếng vọng lại, bày tỏ nỗi khát vọng được đối thoại với Ðạt Lai Lạt
Ma. Những áp lực tinh thần này sẽ càng được củng cố thêm bởi những áp lực
về kinh tế.
Ngài có nghĩ rằng việc Ủy Hội
Thế Vận Quốc Tế bác khước đơn xin tổ chức Thế Vận Hội năm 2000 tại Bắc
Kinh có tạo nên những ảnh hưởng về chính sách đối nội của Trung Quốc, có
nghĩa là dân Trung Quố csẽ được tự do hơn?
Theo thiển ý của tôi, có hai cách để nhìn
vấn đề. Thứ nhất, sự phát triển những quan hệ hữu nghị với Trung Quốc cùng
việc gia tăng trợ giúp kinh tế sẽ khuyến khích tiến trình dân chủ hóa tại
quốc gia này. Trung Quốc là một quốc gia tối cổ và họ rất muốn được đăng
cai tổ chức Thế Vận Hội. Ðây là một quan điểm hoàn toàn được biện minh,
thế nhưng nên hiểu rằng bên cạnh đó nguyên nhân chính vẫn là vấn đề kinh
tế. Quan điểm thứ hai cho rằng quả là điều đáng thương cho những người
đang đấu tranh cho dân chủ tại Trung Quốc, và đang chống lại việc tổ chức
Thế Vận Hội Bắc Kinh, nếu Trung Quốc được chấp thuận, họ sẽ mất tin tưởng
và xuống tinh thần. Thế nên trách nhiệm của cộng đồng quốc tế muốn khích
lệ họ, cần phải đáp ứng bằng những tín hiệu tương xứng. Sau khi cân nhắc
giữa hai biện pháp ủng hộ lẫn chống đối, tôi đi đến kết luận rằng trong
những điều kiện hiện tại, tốt hơn hết là nên dời lại ý định cho tổ chức
Thế Vận tại Trung Quốc vào một dịp khác. Tuy nhiên, dù ở trường hợp nào đi
nữa thì mọi chuyện nay cũng đã được quyết định rồi.
Ngài có nghĩ rằng phép lạ kinh
tế đang xảy ra tại Trung Quốc sẽ làm cho Tây Tạng ít còn có cơ hội dành
lại độc lập? Theo Ngài thì tiến trình dân chủ hóa tại Trung Quốc đến mức
độ nào có thể được coi như mang lại những thuận lợi cho Tây Phương?
Sự phát triển kinh tế của Trung Quốc về lâu
về dài có thể mang lại một vài khía cạnh tích cực cho Tây Tạng, bởi vì sự
cải thiện những điều kiện sinh sống vẫn luôn được coi là một yếu tố đem
phúc lợi cho con người. Hơn thế nữa, đây là một điều rất quan trọng đối
với nhân dân Trung Quốc cũng như toàn thế giới vì nó thúc đẩy tiến trình
dân chủ hóa tại Trung Quốc, một quốc gia có dân số đông đảo nhất trên qủa
đất này. Chúng ta đã chứng kiến những biến cố bi thảm tại Thiên An Môn,
một bằng chứng cho thấy là nhân dân Trung Quốc không ngừng nuôi hy vọng
được sống dưới một thể chế dân chủ. Vấn đề là nền dân chủ này sẽ từ đâu
đến? Ai là người thổi lên ngọn lửa này?
Một cách tổng quát tôi nghĩ rằng dân chúng
Trung Quốc có thể được chia thành ba giai tầng khác nhau. Trước hết là
thành phần lãnh đạo và một số người trung thành với đảng Cộng sản, những
người luôn luôn muốn bám vào quyền lực bằng mọi giá. Thế nên một khi cảm
thấy quyền lực của mình bị hăm dọa, họ sẽ không ngần ngại nổ súng vào đám
đông. Kế đến là thành phần trí thức, sinh viên học sinh, những người đang
đứng đàng sau tạo tác động tinh thần lên các phong trào vận động dân chủ.
Sau rốt là đại bộ phận quần chúng Trung Quốc. Nếu như các chính phủ trên
thế giới chỉ biết nghĩ đến lợi nhuận cho riêng mình, mối nguy cơ lớn nhất
mà ta có thể thấy được là nhóm thiểu số cầm quyền hiện nay sẽ vẫn tiếp tục
ngự trị trên quyền lực, các lực lượng dân chủ sẽ mất niềm tin và xuống
tinh thần. Một quốc gia như Trung Quốc, vừa bị sức ép bởi nạn nhân mãn lại
được vũ trang bằng các vũ khí nguyên tử, bao lâu mà chế độ độc tài toàn
trị hiện nay vẫn còn nắm giữ quyền lực, tiếp tục sản xuất và chất chứa vũ
khí, họ sẽ còn gây nên mối quan tâm sâu xa đối với toàn thế giới. Ðó là lý
do tại sao đặt ra vấn đề trách nhiệm của toàn thế giới là phải giúp đỡ các
lực lượng dân chủ tại Trung Quốc cũng như ở các nơi khác.
Ngài đã đoạt giải thưởng Nobel
về Hoà Bình năm 1989. Ðiều này có giúp ích gì trong việc thực hiện lý
tưởng của Ngài không?
Sự kiện tôi đoạt giải thưởng Nobel về Hoà
Bình chắc chắn đã góp phần rất nhiều trong việc gây chú ý dư luận về chính
nghĩa đấu tranh của Tây Tạng. Người ta luôn luôn nói rằng vị Ðạt Lai Lạt
Ma của Tây Tạng đã nhận được vinh dự này, không ai nói đó là “ông lạt ma
Trung Quốc” cả!
Ngài đang lưu lại tại Pháp trong
suốt ba tuần lễ này, xứ sở mà bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền được soạn thảo.
Ngài nghĩ như thế nào về sự tiếp rước của chính phủ Pháp? Chắc là rất lạnh
nhạt?
Trước tiên xin được nói với qúy vị rằng,
tôi vô cùng hân hoan được tiếp xúc với nhân dân Pháp; đó là điều tối quan
trọng đối với tôi, bởi vì lý do chính cũng như bản chất cuộc viếng thăm xứ
sở này trước tiên là vấn đề tinh thần. Những cuộc thảo luận, trao đổi giữa
chúng tôi và nhân dân Pháp rất là phong phú và rất có giá trị đối với tôi.
Tôi cũng xin được giải thích thêm đôi chút về vị trí của mình, khi thăm
viếng bất cứ một quốc gia nào, nếu những nhà lãnh đạo bày tỏ ý hướng muốn
gặp gỡ, tôi rất hân hoan được tiếp xúc, trao đổi ý kiến, thảo luận với họ.
Tuy nhiên trong trường hợp những cuộc tiếp xúc như vậy có thể gây nên
những vấn đề khó xử cho họ, tôi không bao giờ muốn gặp họ ngõ hầu tránh
được những phiền toái có thể gây ra cho chính quốc gia đó.
Việc thành lập một nhóm nghiên cứu về Tây
Tạng trong Quốc Hội Pháp là một chỉ dấu rất khích lệ, cho thấy đã có sự
gia tăng mối quan tâm của họ đối với chính nghĩa đấu tranh của chúng tôi.
Ngoài ra gần đây cũng phải kể đến một thông điệp lên tiếng ủng hộ mạnh mẽ
chính nghĩa của Tây Tạng qua một bản tuyên ngôn mang chữ ký của hàng trăm
khuôn mặt nổi tiếng trong giới nghệ thuật và khoa học Pháp. Tuy nhiên
chúng tôi cần được ủng hộ nhiều hơn nữa.
Ngài luôn luôn tin tưởng vào bản
tánh thiện lương, nhân hậu của con người. Trên một phương diện nào đó,
phải chăng niềm tin này đã trở nên lỗi thời trong thời đại của chúng ta?
Tôn giáo của Ngài đặt căn bản trên chủ trương bất bạo động, Ngài có nghĩ
rằng một ngày nào đó người ta cần phải đoạn tuyệt với truyền thống bất bạo
động này?
Không, không, và tuyệt đối không! Tôi tin
tưởng hoàn toàn vào những giá trị của bất bạo động. Những biến cố gần đây
chẳng hạn như sự cáo chung của các chế độ độc tài Marcos của Phi Luật Tân,
Pinochet của Chí Lợi, cũng như những thay đổi lớn lao tại Mạc Tư Khoa và
các quốc gia khác đã cho thấy một điều rất rõ ràng rằng, cốt lõi những
cuộc nổi dậy của quần chúng này không phải là kết qủa của bạo động, không
hề phải dùng đến vũ khí, mà là kết quả của hành động bất bạo động. Gần đây
hơn chúng ta thấy hai phe Palestine và Do Thái đã chịu gặp gỡ nhau trong
tinh thần hoà giải sau những năm tháng chất chứa hận thù được thể hiện qua
những hành động cực kỳ bạo động nhắm vào nhau, và họ có khả năng chấm dứt
những điều oan trái đó. Ðối với tôi, tất cả những điều này là những chỉ
dấu tích cực của chủ trương bất bạo động.
Người ta cũng nhận ra rằng bất bạo động là
phương thức kiến hiệu và đúng đắn nhất để giải quyết các mối xung đột.
Dùng bạo động để trả lời bạo động thường dẫn đến những vấn nạn chẳng hạn
như những sự kiện đã xảy ra tại Bosnia, và những nỗi khổ đau sẽ không bao
giờ chấm dứt. Nếu bạn có thể hỏi được tất cả những người trong cuộc của
tấn thảm kịch này, đâu là lý do gây nên những hành động đầy bạo động như
thế, tôi tin chắc là họ sẽ không tìm ra được một lời giải thích nào sáng
tỏ. Con người bị rơi vào những tình huống như vậy là do họ không còn kiểm
soát được tình cảm của mình hoặc trong tâm hồn họ không còn chỗ cho những
suy nghĩ hợp lý. Chắc qúy vị đã hiểu điều này? Ðối với tôi, những tình
huống như thế chỉ củng cố thêm lòng tin của tôi đối với chủ trương bất bạo
động.
Quốc gia của Ngài đã bị Trung
Cộng xâm chiếm hơn bốn mươi năm qua. Ngài có tin chắc rằng chỉ với đường
lối bất bạo động không thôi là đủ để cho Tây Tạng giành lại được độc lập?
Nếu đúng như thế, thì lúc nào?
Chúng ta đừng nên bao giờ quên rằng Tây
Tạng và Trung Quốc luôn luôn là lân bang với nhau và hiện trạng này cần
phải được duy trì mãi mãi. Ðể có thể đảm bảo cho mối giao hảo lân bang
được an bình và hòa điệu trong tương lai, điều cần thiết là những vấn nạn
chia cách chúng tôi trong hiện tại cần phải được giải quyết bằng đường lối
bất bạo động. Nếu chúng ta cố gắng giải quyết chúng bằng phương thức bạo
động, những cảm giác oán hờn sẽ tồn tại mãi giữa hai dân tộc, và như vậy
thật khó mà hòa hợp. Dĩ nhiên phải cần một thời gian lâu dài hơn người ta
mới có thể đạt đến mục tiêu bằng phương thức bất bạo động, thế nhưng tôi
tin rằng đường lối tiếp cận này sẽ mang lại những kết quả tích cực và ổn
định nhất.
Thế giới đang trên đường tiến hoá. Dân chủ
đã và đang được thiết định tại một số quốc gia -Phi Luật Tân, Chí Lợi,
khối Cộng sản cũ- tất cả đều không thông qua đường lối bạo động mà là do ý
nguyện của dân chúng được tác động bởi tinh thần bất bạo động. Trong
trường hợp của chúng tôi, do chọn lựa thái độ yêu chuộng hoà bình, rất
nhiều người Trung Quốc nay đã bày tỏ mối thiện cảm đối với chính nghĩa của
chúng tôi mà kết quả là họ đã công khai bày tỏ sự ủng hộ của mình đối với
cuộc đấu tranh vì độc lập của nhân dân Tây Tạng. Cũng vì lý do này mà bây
giờ rất nhiều quốc gia đã chính thức lên tiếng ủng hộ chúng tôi hơn lúc
trước. Tôi luôn luôn trình bày với dân chúng Tây Tạng rằng, bằng phương
thức thực hành bất bạo động để xây dựng nền móng dân chủ cho Tây Tạng
tương lai, chúng ta không những chỉ nhằm đạt đến mục đích cho riêng mình,
mà còn trở thành một tấm gương cho toàn thể thế giới noi theo. Tìm kiếm
hoà bình qua đường lối bất bạo động chính là sự kết hợp giữa trí tuệ và
các phương tiện thiện xảo.
Phải chăng thanh niên Tây Tạng
ngày càng có khuynh hướng chủ trương dùng bạo động để giải phóng Tây Tạng?
Ngài phải nói với họ như thế nào?
Vâng, mối hiểm nguy này hiện hữu cả trong
lẫn ngoài nước, không phải chỉ giới trẻ không thôi mà ngay cả những người
lớn tuổi hơn, bởi vì nhà nước Trung Cộng hình như đã không muốn hiểu ngôn
ngữ của sự thật và công lý. Dĩ nhiên khi có nhiều người nhắc nhở tôi rằng
tôi đã lãnh đạo một cuộc đấu tranh bất bạo động trong suốt bốn chục năm mà
không mang lại một kết quả cụ thể nào cả, tôi sẽ chẳng biết phải trả lời
như thế nào. Một sự thực mà tôi cũng nhìn nhận là đã có lúc chính tôi cũng
mất đi niềm hy vọng. Trong những lúc như thế, tôi nghĩ là hơn lúc nào hết,
chúng ta nên vận dụng đến trí tuệ của mình. Tôi vẫn có một niềm tin không
lay chuyển rằng bản tánh của con người là thiện lương, thế nên cho dù
trong thời gian qua đã không đạt được những kết quả mong muốn, tôi vẫn tin
rằng chúng ta sẽ chỉ đạt đến một giải pháp trong tương lai thông qua đường
lối hoà bình. Ðể cho mình bị cuốn hút vào một thái độ bạo động tức là làm
phát lộ ra những tình cảm, khát vọng hiện hữu trong tâm ta và cuối cùng ta
sẽ bị chúng ngự trị. Quá khứ đã hơn một lần cho ta thấy rằng nếu chúng ta
dùng phương thức bạo động để đạt đến mục đích thì luôn luôn sẽ tạo ra
những phản ứng kèm theo mang bản chất cực kỳ tiêu cực, và là nguyên nhân
gây nên những khó khăn lớn lao trong tương lai. Khi tham vọng không còn
kiểm soát được, bạn sẽ gặt hái những tình huống tương tự như những gì đã
xảy ra tại Bosnia. Ðó là lý do tại sao, khi nhận thức được những nguyên
nhân và hậu qủa của một thái độ, tôi lựa chọn giải pháp bất bạo động và sẽ
tiếp tục đi theo con đường đó.
Thưa Ngài, Ngài đã có lần tuyên
bố rằng mình là vị Ðạt Lai Lạt Ma cuối cùng. Lý do tại sao?
Chúng tôi đã đi đến kết luận rằng trong
tương lai, Tây Tạng sẽ là một quốc gia dân chủ. Thế nên tuỳ thuộc vào nhân
dân Tây Tạng quyết định về ý nghĩa và phạm vi quyền hạn của văn phòng Ðạt
Lai Lạt Ma. Tôi đã chính thức công bố rằng khi hồi hương về một đất nước
Tây Tạng hoàn toàn tự do, tôi sẽ thiết lập một chính phủ dân chủ và trao
tất cả mọi quyền lực của mình cho chính phủ này. Thế nên văn phòng của Ðạt
Lai Lạt Ma sẽ tiếp tục hiện hữu nếu toàn thể nhân dân Tây Tạng cho rằng nó
mang đến những lợi lạc cho đất nước và đáp ứng lòng mong muốn của mọi
người. Nó sẽ được dẹp bỏ nếu nhân dân Tây Tạng thấy rằng nó không còn cần
thiết nữa, và như vậy lúc đó, vị Ðạt Lai Lạt Ma Ðời Thứ Mười Bốn có thể
xem như là vị Ðạt Lai Lạt Ma cuối cùng. Cho dù chuyện như vậy xảy ra, tôi
vẫn thường nói đùa rằng, cũng không đến nỗi tệ lắm, bởi vì tên tuổi của vị
Ðạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn sẽ đi vào lịch sử như là người đã không phản
bội lại ý nguyện của dân tộc mình.
Mấy năm trước đây chúng tôi đã
may mắn có cơ hội thăm viếng thủ đô Lhasa, và năm rồi thì Labrang và
Kumbum. Chúng tôi đã sửng sốt và rất bất mãn khi thấy một số lượng khá
đông đảo dân Trung Quốc đang định cư tại đây trong một hay hai thế hệ vừa
qua. Việc gì sẽ xảy ra cho dân Trung Quốc đang sống ở Tây Tạng, mà nay số
lượng đã ngang bằng với dân bản xứ, một khi Tây Tạng được hoàn toàn tự do
và độc lập?
Trong số những người Trung Quốc sinh sống
tại Tây Tạng tôi nghĩ rằng ta có thể chia ra làm hai nhóm chính. Trước
tiên đối với những người tôn trọng văn hóa, truyền thống của Tây Tạng, tôi
nghĩ là họ có thể sống hoà đồng với dân chúng Tây Tạng, không có vấn đề!
Tuy nhiên một số lượng rất lớn di dân không làm việc gì khác hơn ngoài
việc lăng nhục những truyền thống của Tây Tạng và điều đó hiển nhiên là
tạo nên những xung đột văn hoá với dân bản xứ. Ðối với họ, việc sống chung
với chúng tôi sẽ chẳng thoải mái chút nào, và đối với chúng tôi cũng thế.
Làm thế nào để Ngài không thù
hận những kẻ chỉ muốn tìm cách tiêu diệt Ngài?
Trên quan điểm của một Phật tử, một điều
rất quan trọng là ta cần thấu hiểu được mối dây liên hệ hiện hữu giữa kẻ
gây nên tội ác và nạn nhân của y. Khi ta thấy một kẽ đầy ác tâm đang ra
tay hảm hại kẻ khác bằng những hành động tàn hại, tiêu cực thì thực sự ra,
y đang làm điều gì? Nếu nhìn sự việc theo nhãn quan Phật giáo, ta biết là
người đó đang sửa soạn để đón nhận một nỗi khổ đau lớn lao sẽ dày vò y
trong tương lai do quả báo gây ra bởi những hành động gian ác này. Thế
nhưng trong khi đó nạn nhân,tức là người đang gánh chịu những khổ đau bất
hạnh, chính là người đang thanh thỏa món nợ nghiệp báo do những hành động
tiêu cực mà họ đã gây ra trong quá khứ. Họ đang thanh lọc nghiệp qủa, và
trong tiến trình trả nghiệp bằng chính nỗi khổ đau của mình, người đó
không còn tích tụ bất cứ những tác hành tiêu cực mới nào. Thế cho nên khi
hiểu được những gì đang chờ đợi kẻ đang hảm hại ta trong tương lai, ta sẽ
không còn nhìn y như một kẻ thù, một đối tượng của lòng thù hận mà thay
vào đó là đối tượng đặc biệt của lòng từ bi. Thực tập suy nghĩ theo cách
này sẽ giúp đỡ ta rất nhiều.
Tôi xin được nêu ra một thí dụ cụ thể. Gần
đây tại Ấn Ðộ tôi gặp lại một người quen cũ, nguyên là viện chủ của một tu
viện Phật giáo, một người đã sống trọn hai mươi năm trong nhà tù và các
trại lao động khổ sai tại Tây Tạng. Khi chúng tôi nói chuyện cùng nhau,
ông ta đã tuyên bố với tôi rằng trong suốt thời gian bị Trung Cộng cầm tù,
mối hiểm nguy duy nhất mà ông ta phải đương đầu là nỗi lo sợ sẽ đánh mất
đi lòng từ đối với kẻ đang giam cầm đày ải ông. Tôi cho rằng đây là thái
độ phi thường nhất.
Nếu nhìn vào tình huống hiện nay tại Tây
Tạng cũng như mối quan hệ giữa người Tây Tạng và người Trung Quốc, ta có
thể nói thẳng rằng người Tây Tạng là những kẻ bị áp bức và người Trung
Quốc là những kẻ đàn áp. Cho đến bây giờ thì người Trung Quốc có vẻ như đã
thành công trong sự nghiệp đàn áp của họ, tham vọng chinh phục đất đai của
họ cũng đã được thỏa mãn; lẽ ra họ nên vui sướng về chuyện này. Thế nhưng
trong thực tế, người Tây Tạng phần lớn có vẻ hạnh phúc hơn là những kẻ
đang thống trị họ. Ðiều này đã cho thêm một lý do có tính thuyết phục để
ta phát khởi lòng từ đối với người Trung Quốc thay vì thù hận họ.
Một thể chế dân chủ, như là một
viễn kiến của Ngài về Tây Tạng tương lai, cần có quân đội cũng như một
hệ thống quốc phòng hay không?
Mối giao hảo tốt đẹp giữa Ấn Ðộ và Trung
Quốc -hai quốc gia đông dân nhất trên thế giới- là điều tối cần thiết, đảm
bảo nền hoà bình thế giới và đặc biệt là trong khu vực này. Tây Tạng bây
giờ không còn đóng vai trò truyền thống như là một trái độn giữa hai quốc
gia này nữa, mà quân lực của hai nước nay đang ghìm súng trong những chiến
hào đối diện nhau, tình huống như vậy đã thay đổi một cách sâu sắc và mối
căng thẳng ngày càng gia tăng. Thế cho nên, bất kỳ tình trạng tương lai
chính trị của Tây Tạng như thế nào, mục tiêu của tôi là biến Tây Tạng
thành một khu vực hoà bình, phi nguyên tử và phi quân sự, và như vậy một
lần nữa, do vị trí chiến lược hiển nhiên của nó, Tây Tạng sẽ lại trở
thành một vùng trái độn gìn giữ hoà bình cho toàn khu vực. Hai quốc gia
lân bang chắc chắn là đều sẽ hưởng được những lợi lạc do tình trạng này.
Dù gì đi nữa thì đây cũng không phải là một trường hợp điễn hình duy nhất
trên thế giới -Costa Rica đang là một quốc gia thịnh vượng trong suốt bốn
mươi năm qua, hoàn toàn phi quân sự, và mức sống dân chúng tại đây cao hơn
là các nước láng giềng bởi một lý do rất dễ hiểu là họ không tiêu phí bất
kỳ một ngân khoản lớn lao nào của ngân sách quốc gia cho lãnh vực quốc
phòng như các lân bang. Bất cứ nơi nào tôi đến tôi thường tuyên bố rằng
vấn đề giải trừ quân bị không phải là một vấn nạn độc quyền của Tây Tạng.
Ðây là một vấn nạn cần phải được nhìn một cách nghiêm túc trên mức độ toàn
cầu.
Thứ đến, nền văn hoá Tây Tạng cùng với tôn
giáo cá biệt của nó, cả hai đều được xây dựng trên căn bản của tinh thần
bất bạo động mà tôi gọi là nền văn hoá Phật giáo, đã mang lại sự thanh
thản và bình an tâm hồn đến tất cả những nơi mà nó truyền bá tới, từ phía
nam, vùng Hy Mã Lạp Sơn, phía bắc và đông bắc của Nội Mông và Ngoại Mông,
và kể cả những khu vực vốn thuộc về Liên Bang Sô Viết cũ trước đây. Hơn
thế nữa, ngay chính nhiều nơi tại Trung Quốc cũng không thiếu những chùa
chiền, tu viện Tây Tạng, điều này cho thấy là tầm ảnh hưởng của nền văn
hoá chúng tôi đã trải rộng ra toàn vùng Á Châu. Văn hoá Tây Tạng như thế
còn có thể giúp ích rất nhiều cho người Trung Hoa; hay nói một cách tổng
quát, Phật giáo không xa lạ gì với đời sống tâm linh của họ. Thế cho nên
sự tồn tại của nền văn hoá và dân tộc Tây Tạng trên phần đất của thế giới
này phải là một mối quan tâm đặc biệt đối với người Trung Quốc.
Với tất cả tính cách hữu ích, tầm quan
trọng, và hợp lý, hợp pháp của vấn đề, sự tồn tại của quốc gia Tây Tạng
như thế không phải chỉ được nhìn thuần túy trên quan điểm đạo đức mà còn
là một viễn tượng rất thực tế.
NHAÂN QUYỀN
CUỘC GẶP GỠ VỚI HỘI AÂN XÁ QUỐC TẾ
Tôi luôn luôn bày tỏ niềm thán phục lớn lao
đối với những người đang hoạt động trên lãnh vực nhân quyền. Tôi nghĩ rằng
những hoạt động của qúy vị không phải chỉ là thuần túy nhằm bảo vệ quyền
làm người của những cá nhân đơn lẻ, mà còn gián tiếp góp phần vào sự tiến
bộ của nhân loại nói chung. Thông thường, những người lên tiếng chỉ trích
những nhà nước, những chính khách lãnh đạo đương nhiệm đều có một tầm nhìn
xa thấy rộng và họ thường là những nạn nhân đầu tiên của cái cơ cấu mà họ
chỉ trích. Thế nên trong thực tế tôi cho rằng những việc làm của qúy vị
nhằm bảo vệ nhân quyền cho những cá nhân này cũng tác động lên cả quốc gia
đang có vấn đề đó.
Mặc dù chế độ Cộng sản độc tài toàn trị của
Liên Bang Sô Viết cũ được coi như là rất tàn độc, nhưng tôi tin chắc rằng
chế độ của Trung Cộng hiện nay lại càng tệ hại hơn. Cụ thể như chế độ Sô
Viết còn để cho các nhân vật cao qúy như Pasternak hoặc Sakharov có cơ
hội để lên tiếng, những chuyện như thế khó mà tưởng tượng có thể xảy ra
được tại Trung Quốc. Bất cứ một chuyển động nhỏ nào mà họ ngửi thấy được
đều bị tiêu diệt ngay lập tức! Thế cho nên mặc dù biết bao nhiêu chuyện
kinh khủng đã xảy ra tại Liên Bang Sô Viết, phong trào dân chủ vẫn nhen
nhúm và đạt được kết qủa. Bất hạnh thay, đây không phải là trường hợp của
Trung Quốc. Thế cho nên, tất cả những người có thị kiến, yêu chuộng tự do
và đấu tranh cho dân chủ là những người rất quan trọng cho đất nước họ.
Hiển nhiên nhân quyền là một giá trị phổ
quát; không có vấn đề phân biệt trên căn bản của văn hoá, học vấn hoặc bất
kỳ tính chất nào khác, bởi vì ngay từ lúc sinh ra con người đều có những
quyền cơ bản như nhau. Do các nguyên nhân văn hoá hoặc lịch sử, một số
quốc gia đã theo đuổi một số chính sách kỳ thị trên căn bản của phái tính,
hoặc đặc biệt hơn, sắc tộc, hay khuynh hướng xã hội. Ðó là những cơ cấu
lạc hậu và cần phải được thay đổi. Những cơ cấu xã hội nào cổ võ cho tinh
thần phổ thông và bình đẳng là những xã hội tiến bộ nhất; thế nên vấn đề
là các cơ cấu lạc hậu cần hội nhập và tiến hoá theo hướng tân tiến hơn chứ
không phải là đi giật lùi theo hướng ngược lại.
Một lần nữa tôi xin được bày tỏ lòng biết
ơn của chúng tôi đối với Hội AÂn Xá Quốc Tế, những người đã làm việc không
mệt mỏi cho sự nghiệp Tây Tạng. Qúy vị đã hoạt động cực kỳ xuất sắc và hữu
hiệu, tôi xin chân thành cảm ơn. Và tôi nghĩ rằng nếu tất cả những tù nhân
đang bị giam cầm, tra tấn và đày ải trong các trại tù và lao động khổ sai
tại Tây Tạng được có mặt hôm nay, họ sẽ vô vàn cảm tạ với tất cả trái tim
biết ơn. Tôi xin được thay mặt họ để làm điều đó trong dịp gặp gỡ này.
NGÔN ÐẾ
LỜI CẦU NGUYỆN CỦA
ÐỨC ÐẠT LAI LẠT MA ÐỜI THỨ MƯỜI BỐN
Con chắp tay cúi đầu đãnh lễ
Chư Phật, chư Bồ tát, chư hiền thánh tăng
Của ba đời quá khứ, hiện tại và tương lai
những người mang phẩm chất tuyệt vời
bao la như biển rộng,
Ðã ôm vào lòng tất cả các chúng hữu tình,
những linh hồn tuyệt vọng
Như là đứa con yêu duy nhất của mình,
Với tất cả tiếng kêu thương trầm thống
Hôm nay con thành tâm nguyện cầu cho công
lý mãi duy trì.
Những giáo pháp của Ðức Bổn Sư có công năng
giải trừ
những khổ đau của vòng luân hồi sinh tử
những bình an riêng lẻ của cá nhân
Con nguyện cầu những giáo pháp này sẽ lan
truyền rộng hơn
Mang phồn vinh và hạnh phúc đến cho toàn
thế giới!
Hởi các Ðấng Hộ Pháp, chư hành giả, chư
thiện trí thức,
Xin nguyện cầu cho hạnh nguyện của vô lượng
công đức
Mà qúy ngài đang hành trì được thập phần
viên mãn!
Loài hữu tình yếu đuối của chúng con đã
không ngừng bị giày vò
Bởi những nỗi khổ đau,
Bị chế ngự hoàn toàn bởi những tác hành ác
nghiệp
Ðã không ngừng gây ra và ngày càng gia tăng
mãnh liệt.
Xin nguyện cầu cho những nỗi kinh hoàng
dấy lên từ những cuộc chiến tang thương đẫm
máu,
những đói nghèo bệnh hoạn của kiếp người
Sẽ chóng nguôi ngoai, tan biến
Ðể nhân loại có thể được sống thoải mái tự
do
Trong đại dương của hạnh phúc, an lạc!
Ðặc biệt hôm nay con cũng xin được nguyện
cầu cho
Những đứa con ngoan hiền của Xứ Tuyết
Ðã bị thảm sát bằng đủ mọi cách không chút
tiếc thương
Dưới bàn tay của những kẻ dã man
Thuộc thế lực vô minh, bóng tối,
Ðể cho điều thiện được xiển dương trên thế
gian
và quyền lực từ bi của Ngài thêm sáng tỏ,
Xin hãy nhanh chóng làm cho giòng sông máu
và nước mắt này thôi chảy nữa!
Và với tâm từ bi vô lượng
Xin hãy giúp cho những kẻ độc ác nhẫn tâm
Lánh xa khỏi những tình cảm điên rồ qủy ám
Những kẻ không còn trái tim biết yêu thương
Tự hủy diệt đời mình và kẻ khác
Xin nguyện cầu cho họ sớm có được đôi mắt
trí huệ
Biết phân biệt chánh tà
Ðể nhân loại được sống trong niềm vinh
quang của yêu thương và thân hữu!
Xin nhất tâm nguyện cầu cho sự tự do hoàn
toàn của đất nước con, Tây Tạng
Ðã bao lâu trông ngóng mong chờ,
Sớm biến thành sự thật
Với tất cả thành tâm, xin chắp tay nguyện
cầu chư Phật,
Hãy mau chóng giúp chúng con hoàn thành nỗi
ước mơ
Ðược sống trọn vẹn trong niềm hạnh phúc vô
bờ
Trong lễ nghi tinh thần và quyền lực thế
tục hợp nhất!
Con chắp tay cúi đầu đảnh lễ
Ðấng Ðại Từ Ðại Bi Quán Thế AÂm Bồ Tát
Với từ tâm vô lượng của Ngài, xin ra tay
cứu vớt
Những kẻ đang bị đọa đày trên thế gian này
Những kẻ đã âm thầm chịu đựng kiên cường
Hy sinh tất cả những mảnh đời quý giá nhất
Những xác thân, tài sản của mình
Cho đạo pháp, và niềm tin
Cùng quê hương, dân tộc!
Xin Ðức Ðại Từ Ðại Bi Quán Thế AÂm
Hãy vì chúng con dâng lên lời đại thỉnh
nguyện
Ðến chư Phật cùng chư Bồ Tát
Chấp nhận hoàn toàn chính nghĩa của người
dân Xứ Tuyết
Xin cho những lời nguyện cầu này
Sẽ mau chóng đạt được những thành tựu mong
muốn!
Trong uyên áo của trùng trùng duyên khởi,
của tánh không
Cùng mọi sắc tướng
Hợp nhất trong uy lực Ðại Từ Bi
Của Tam Bảo và những Ngôn Ðế,
Và với quyền lực vô song không bao giờ sai
chạy
Của luật nhân quả
Xin cho những lời nguyện cầu trung thực này
Ðược mau chóng thông qua không gì ngăn trở
nổi.
---o0o---
Mục lục
| Phần thứ 01 |
Phần thứ 02 |
| Phần thứ 03 |
Phần thứ 04 |
Phần thứ 05 |
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---