Huyền Trang - Nhà
Chiêm Bái và Học Giả
(Hsuan-Tsang, the
Pilgrim and Scholar)
Nguyên tác Anh ngữ:
Hòa Thượng Thích Minh Châu
Bản dịch Việt ngữ:
Ni sư Thích Nữ Trí Hải
Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam tái bản, 1989
---o0o---
Phần 05
VII. HUYỀN TRANG,
NHÀ TRƯỚC TÁC
Về phương diện trước tác, Pháp sư không
để lại nhiều tác phẩm, vì Ngài quá bận với việc dịch thuật. Ngoài
ra, Ngài cũng còn nhiều việc làm khác để
làm.
Khi còn ở Ấn Độ,
để dung hòa hai phái
Đại thừa, Trung quán và Du già, Pháp
sư đã viết bản Hội tông luận, "về sự
dung hòa hai phái", gồm 3.000 đoạn.
Tác phẩm này viết bằng Phạn ngữ. Đưa
cho Giới Hiền Pháp sư xem, Ngài ca tụng nhiệt liệt và khuyên tất cả nên
tìm đọc.
Để bác những lời chỉ trích của các
pháp sư tiểu thừa, như Prajnagupta (Bát-nhã-cúc-đa)
đã viết một bản văn
gồm 700 đoạn
đã kích
Đại thừa, Pháp sư viết cuốn "Chế ác luận" gồm 1.600
đoạn để
bác bỏ cuốn sách trên bằng giáo lý đại
thừa.
Thật vô cùng đáng tiếc vì 2 bản văn
viết bằng Phạn ngữ này đã mất và
đến cả bản dịch cũng không còn, vì
chúng ta muốn biết Pháp sư làm sao để
dung hòa hai học phái Trung quán, Du già và Ngài
đã bác bẻ lý thuyết tiểu thừa ra sao
để lập
Đại thừa giáo. Tương truyền Ngài khởi dịch cuốn
Đạo đức
kinh ra Phạn ngữ theo lời yêu cầu của vua Kamarupa nhưng trong cuốn "Đời
Ngài Huyền Trang" của Tỳ kheo Huệ Lập không nói
đến tác phẩm này.
Khi Pháp sư trở về Trung Quốc, thể theo lời Hoàng
đế Trung Hoa, Ngài viết Tây Vức ký,
ghi lại cuộc du lịch Tây Vức bằng tiếng Trung Hoa. Tác phẩm này
được tàng trữ trong tạng kinh Trung
Hoa, mang số 1503, bản Thư tịch về Tam tạng Trung Hoa của Nanjio hợp tác
với Biện Cơ. Chúng ta có thể chắc chắn rằng tất cả các tài liệu
đều do Pháp sư cung cấp, còn lời văn,
sự chọn chữ và câu thì do Biện Cơ đảm
nhiệm, và cả hai cùng bàn về các đoạn
mạch và sườn cốt của cuốn sách.
Trong tác phẩm này, Pháp sư nói đến
những xứ Ngài đã viếng thăm
hay nghe nói, và tả chúng một cách tỉ mỉ dựa theo một dàn bài vạch sẵn.
Những xứ quan trọng Ngài đã viếng thăm
và nói đến gồm 138 xứ, kể theo thứ
tự sau đây theo Tây du ký.
a- Tên xứ sở:
Cuốn 1:
1. A-kỳ-ni
2. Khuất-chi
3. Bát-lộc-ca
4. Nô-xích-kiến
5. Giả-thời
6. Bố-hãn-quốc
7. Tốt-đổ-lỵ-sắc-na
8. Táp-mạt-kiến
9. Nhị-mạt-hạ
10. Kiếp-bố-đát-na
11. Khuất-xương-nhĩ-ca
12. Hát-hãn
13. Bổ-hát
14. Phát-địa
15. Hóa-lỵ-tập-di-già
16. Yết-sương-na
17. Đát-mật
18. Xích-ngạc diễn-na
19. Hốt-lộ-ma
20. Dũ-mạn
21. Cúc-hòa diễn-na
22. Hoạch-sa
23. Kha-đốt-la
24. Câu-mế-đà
25. Dược-già-lãng
26. Hất-lô tất-manh-kiên
27. Hốt-lẫm
28. Phược-hát
29. Nhuệ-mạt
30. Hồ-thiệt-kiện
31. Đạt-thích-kiện
32. Yết-chức
33. Phạm-diễn-na
34. Ca-tất-thí
Cuốn 2
35. Lam-ba
36. Na-yết la-hạt
37. Kiện-đà-la
Cuốn 3
38. Ô-trượng-na
39. Bạt-lộ-na
40. Đát-hựu thỉ-la
41. Tăng-ha bổ-la
42. Ô-lặc-thi
43. Ca-thấp di-la
44. Bán-nô-ta
45. Yết-la-xà bổ-la
Cuốn 4
46. Kiệt-ca
47. Chí-na bộc-để
48. Xà-lạn đạt-la
49. Khuất-lộ-đa
50. Thiết-đa-đồ-lô
51. Ba-lý-dạ-đát-la
52. Mạt-thố-la
53. Tát-tha-nê-thấp-phạt-la
54. Tốt-lộc-cần-na
55. Mạt-để bổ-la
56. Bàn-la-hấp-ma-bổ-la
57. Cụ-tỳ-sương-na
58. Á-bê-chế-đát-la
59. Tỳ-la-san-nỏa
60. Kiếp-tỷ-tha
Cuốn 5
61. Yết-nhã cúc-xà
62. A-du-đà
63. A-da-mục-khê
64. Bát-lã-da-già
65. Kiều-thưởng-di
66. Bệ-sách-ca
Cuốn 6
67. Thất-la-phạt-thất-để
68. Kiếp-tỷ-la-phạt-tốt-đổ
69. La-ma
70. Câu-thi-na yết-la
Cuốn 7
71. Bàn-la-niết-tư
72. Chiến-chủ
73. Phệ-xá-ly
74. Phất-lật-thị
75. Ni-ba-la
Cuốn 8 và 9
76. Ma-kiệt-đà
Cuốn 10
77. Y-lạn-nỏa-bát-phát-đa
78. Chiêm-ba
79. Yết-châu-ôn-kỳ-la
80. Bôn-na-phạt-đàn-na
81. Ca-ma-lũ-ba
82. Tam-ma-đát-tra
83. Đam-ma-lật-để
84. Kiết-na-nỏa-tô-phạt-lặc-na
85. Ô-đà
86. Cung-ngự-đà
87. Yết-lăng-già
88. Kiều-tát-la
89. Án-đạt-la
90. Đà-na-yết-kiệt-ca
91. Chây-lỵ-da
92. Đạt-la-tỳ-đà
93. Lâm-la-cư-tra
Cuốn 11
94. Tăng-già-la
95. Cung-kiến-na-bổ-la
96. Ma-ha-lặc-đà
97. Bạt-lộc yết-liệp-bàn
98. Ma-ha-lạp-bàn
99. A-tra-li
100. Khế-tra
101. Phạt-lạp-tỳ
102. A-nan-đà-bổ-la
103. Tô-lặc-đà
104. Cụ-chiết-la
105. Ô-xà-diễn-na
106. Trịch-chỉ-đà
107. Ma-hê-thấp-phạt-la-bổ-la
108. Tín-độ
109. Mậu-la-tam-bộ-lô
110. Bát-phạt-đa
111. A-điểm-bà-súy-la
112. Lang-yết-la
113. Ba-lặc-tư
114. Tí-đa-thế-la
115. A-phản-trà
116. Phạt-lặc-nỏa
Cuốn 12
117. Tào-cử-tra
118. Phất-lật-thị-tác-đảng-na
119. An-đát-la-phược
120. Khoát-tất-đa
121. Hoạt-quốc
122. Măng-kiện
123. A-lị-ni
124. Yết-lã-hồ
125. Ngật-lật-sắc-ma
126. Bát-lị-hạt
127. Hê-ma-đạt-la
128. Bát-đạt-sáng-na
129. Dâm-bạc-kiện
130. Khuất-lãng-nỏa
131. Đạt-ma-tất-thiết-đế
132. Thi-khí-ni
133. Thương-di
134. Kiếp-bàn-đà
135. Ô-sái
136. Khê-sa
137. Chiếc-cú-ca
138. Cú-tát-đát-na
b.- Hoàn cảnh địa lý
Khi tả về xứ nào, Pháp sư đề cập
đến địa
dư trước hết. Nhờ thế mà chúng ta biết rằng kinh
đô Kucha (Khuất-chi) chẳng hạn, dài
chừng 1.000 lý từ đông sang tây và
600 lý từ trung tâm đến phía bắc.
Kinh đô Kosala dài chừng 1.000 lý
vây quanh là núi. Rừng dày trùng điệp
và chu vi của thủ đô ước chừng 40
lý. Kinh đô Ma-kiệt-đà
chu vi chừng 5.000 lý.
c. Đất đai và nông nghiệp
Sau khi tả hoàn cảnh địa lý, Pháp
sư đề cập
đến đất
đai và nông nghiệp. Xứ Kashmir chẳng
hạn, rất thuận lợi cho nghề trồng trọt và sản xuất hoa quả dồi dào. Xứ
Udyana không được phì nhiêu và sản
phẩm của đất
đai không
được dồi dào, mặc dù người ta gieo
tất cả loại hạt giống. Xứ này sản xuất rất nhiều nho nhưng ít mía.
Đất có nhiều vàng và sắt lợi cho
việc trồng cây củ nghệ. Những khu rừng tăng
trưởng rất mạnh và hoa quả dồi dào. Và xứ Ma-kiệt-đà,
đất đai
rất phì nhiêu, mùa màng xanh tốt. Lúa trồng rất nhiều hạt lớn và có vị
ngon ngọt. Lúa này có màu sắc sang chói và thường
được cho là loại lúa của những bậc
vương giả dùng.
d. Khí hậu
Sau đó Ngài tả về khí hậu. Xứ
Mathùra (Mạt-thố-la) chẳng hạn, có một khí hậu nóng trong khi xứ
Samarkand (Táp-mạt-kiên) khí hậu ôn hoà. Xứ Udyana mùa hạ và
đông điều
độ, gió mưa
đúng thời. Xứ Ca-thấp-di-la thời
tiết băng giá, tuyết rất nhiều nhưng
gió không dữ dội lắm.
e. Tánh tình và phong tục
Kế đến Pháp sư
đề cập
đến tánh tình và tập quán của người dân chẳng hạn những người ở
Urasa (Ô-lắc-thi) không biết đến
công lý hay lễ lạc gì, họ có bản chất bạo
động và hung dữ, ưa lừa dối lường gạt. Họ không tin Phật giáo.
Người xứ Vaisali (Phệ-xá-li) trái lại, thật thà hiền lương, họ kính
đạo đức,
trọng học vấn. Họ cũng có người tà đạo
và người theo chính pháp. Người xứ Varanasi thì lễ
độ ôn hoà, kính trọng những người
hiếu học. Phần đông tin theo tà
thuyết, trừ một số ít tin theo Phật giáo. Người xứ Ma-kiệt-đà
tính tình giản dị trung thực. Những người này kính trọng người ham học
và rất tôn sùng Phật pháp.
f. Những chùa thờ Phật và Đền thờ
Thần
Kế đến Pháp sư nói
đến số lượng chùa và
đền Ngài thấy ở trong xứ. Ở Kiều
chưởng di chẳng hạn có chừng 12 chùa suy sụp và hầu như hoang vu. Có tất
cả chừng 500 vị sư ở trong những chùa ấy học giáo lý tiểu thừa. Có chừng
50 đền thờ thần và số người tà giáo
rất đông. Ở Xá-Vệ, có hàng trăm
ngôi chùa phần đông
đổ nát, ở
đấy một số ít sư họ giáo lý của pháp
Chánh lượng bộ. Ở Ma-Kiệt-Đà, có
chừng 50 chùa chứa 10.000 vị tăng
học Đại thừa giáo. Có nhiều
đền thờ thần và người tà giáo rất
đông.
g. Những tháp thờ Phật tích
Pháp sư không bao giờ quên tả chi tiết những bảo tháp và chùa chiền
chứa Xá lợi Phật hay có liên quan đến
một vị học giả Ấn Độ danh tiếng nào.
Chẳng hạn trong Vương quốc Ba-Lợi-Ca, có một ngôi chùa mới. Trong chùa
này, ở giữa phòng thờ tượng Phật về phía Nam có một cái chậu
Đức Phật thường dùng
để tắm rửa, chứa chừng một "thốn"
nước. Có nhiều màu chói mắt, nhưng thật khó nói
được chậu ấy làm bằng thứ kim loại
hay đá gì. Ngoài ra còn có một cái răng
Phật dài chừng 2 phân, rộng 1 phân, màu trắng ngà và chất sáng trong.
Lại có môt chiếc cán chổi của Phật làm bằng thứ cỏ Kusa dài chừng 5 tấc,
chu vi hơn 1 tấc. Cán nạm ngọc quý.
Tại xứ Vàrànasi, về phía đông bắc
thủ đô, phía tây sông Vàrànasi, có
một bảo tháp do vua A-Dục xây, cao hơn 24 thước, phía trong dựng một trụ
đá màu xanh nhạt, bóng như gương.
Mặt trụ sáng loáng rõ ràng, và thường thường có thể thấy hình của Như
Lai. Về phía tây nam chùa Lộc Uyển, có một bảo tháp bằng
đá cũng do vua A-Dục xây. Mặc dù nền
tháp đã suy sụp, tháp vẫn còn cao
chừng hơn 24 thước. Trước tháp có một trụ
đá cao gần 20 thước, đá bóng
sáng. Những người thành tâm đến khấn
vái có thể thấy được nhiều hình ảnh
khác nhau tùy điềm xấu tốt, và có
nhiều người thấy thật. Đấy là nơi
Như Lai đã chuyển Pháp luân sau khi
chứng ngộ.
h. Chùa liên quan đến những đệ tử
Phật
Suốt cuộc Tây du, Pháp sư tả tỉ mỉ tất cả những ngôi chùa có liên hệ
đến những
đại đệ
tử Phật. Khi Ngài đến xứ Mathurà
(Mạt-thố-la), Ngài thấy những bảo tháp chứa di tích những
đệ tử Phật danh tiếng nhất như Ngài
Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền-Liên, Phú-Lâu-Na Di Đà-La-Ni-Tử,
Ưu-Ba-Li, A-Nan, La-Hầu-La, Văn-Thù
và nhiều Bồ tát khác. Hàng năm suốt
ba tháng ăn chay (tam nguyệt trai:
tháng Giêng, tháng Năm, tháng Tám Âm
lịch) và 6 ngày chay (lục trai) trong tháng, những tín
đồ tranh nhau
để lễ bái, dâng cúng phẩm vật cho
những tháp ấy. Tháp ngài Xá Lợi Phất thường
được những người học giáo lý A-tỳ-đàm
cúng bái, tháp Mục-Kiền-Liên do những người học tham thiền, tháp
Mantaniputra do những người tụng kinh, tháp Ưu-Bà-Li do những vị ni sư,
tháp La-Hầu-La do những người chưa thọ đại
giới và tháp những Bồ tát do những người đại
thừa.
Ở thủ đô A-du-đà
có một ngôi chùa cổ, ở đấy Thế thân
Bồ tát trú trong 10 năm; trong thời
gian ấy Ngài viết nhiều luận tiểu thừa và
đại thừa. Gần đấy có một ngôi
chùa cũng xưa là nơi Bồ tát Thế Thân giảng pháp cho những vị vua nhiều
xứ, cho những ẩn sĩ và Bà la môn từ bốn phương. Về phía bắc bảo tháp
chứa tóc và ngón tay, có những di tích một ngôi chùa cổ. Ngài luận sư
Thắng Thọ phái Kinh bộ soạn bộ Tỳ-bà-sa luận ở
đấy. Cách chừng 5 hay 6 lý về phía
tây nam của thủ đô, ở giữa rừng cây
Yêm-một-la, có một ngôi chùa cổ, ở đấy
Bồ tát Vô Trước nghiên cứu học hỏi và hướng dẫn những người xuất gia, cư
sĩ. Bồ tát Vô Trước lên Linh Đài
để học Di Lặc Bồ tát về Du già Sư-địa-luận,
Trang nghiêm Đại thừa kinh luận,
Trung biên Phân biệt luận v.v... và giảng giáo pháp vi diệu cho
Đại chúng. Về phía tây bắc ngôi
giảng đường cũ ấy người ta thấy một
ngôi chùa cổ gần sông Hằng về phía bắc. Ở giữa ngôi chùa ấy, có một bảo
tháp cao hơn 25 thước, đây là nơi
Thế Thân Bồ tát lần đầu tiên khát
khao giáo lý đại thừa. Ở A-gia mục
khư (khư: có nghĩa là gò đất hay
khoảng đất bỏ hoang [BT]) có một
ngôi chùa hơn 200 vị tăng.
Đấy là nơi ngày xưa luận sư Giác Sứ
soạn bộ Luận Đại-Tỳ-bà-sa. Lại ở ca
Thấp Di La, có một ngôi chùa 30 vị tăng,
nơi ấy ngày xưa Tăng già Bạt-Đà-La
soạn bộ Thuận chánh lý luận.
i. Những câu chuyện
Pháp sư không bao giờ quên kể những chuyện liên quan
đến xứ sở hay nơi mà Ngài
đến viếng. Nhờ vậy sự tường thuật
của Ngài thêm linh động với những
câu chuyện hứng thú lượm lặt từ khẩu truyền. Khi Pháp sư
đến A-du-đà,
Ngài kể chuyện Bồ tát Thế Thân theo Đại
thừa như sau:
"Ở trong một ngôi chùa cũ có một tháp gạch cao chừng 25 thước.
Đấy là nơi Thế Thân lần
đầu tiên khao khát
Đại thừa giáo. Ngài Thế Thân
đến từ Bắc Ấn. Lúc ấy Ngài Vô Trước
sai một môn đệ ra gặp ngài Thế Thân.
Người môn đệ
đứng ngoài cửa sổ và khi
đêm đã
quá khuya, ông bắt đầu tụng kinh
Thập địa, Thế Thân cảm thấy tâm bừng
sáng và hối hận vô cùng vì đã không
nghe được giáo lý vi diệu thậm thâm.
Ngài quy mọi sự luống dối cho cái lưỡi, và dùng một con dao toan cắt
lưỡi mình để sám hối khẩu nghiệp quá
khứ. Nhưng Ngài Vô Trước liền đứng
trước mặt tán dương Ngài như sau:
"Giáo lý đại thừa chứa những
nguyên lý vi diệu của chân lý, chư Phật
đều tán thán Đại thừa và
thánh hiền thờ kính. Bây giờ tôi muốn nói,
đã
đến lúc ông nên tự mình nhận thức. Không gì công
đức bằng. Theo lời dạy cao cả
của chư Phật, cắt lưỡi không phải là sám hối. Ngày xưa, lưỡi ông
dùng để phí báng
Đại thừa, thì nay ông nên dùng
lưỡi sửa lỗi mình và tự đổi mới,
đấy là
điều hay nhất. Nếu ông ngậm
miệng không còn thốt lời nào thì phỏng có ích lợi gì?"
Nói xong Vô Trước biến mất. Thế Thân vâng lời, không cắt lưỡi nữa.
Sáng hôm sau, Ngài đến lạy VôTrước,
và được nghe giảng
Đại Thừa. Từ
đấy Thế Thân ngày
đêm học hỏi, tư tưởng cao rộng. Ngài
viết chừng 100 bộ luận về Đại thừa
được rất nhiều người
đọc và bàn
đến."
Khi Pháp sư đến Xá-vệ, Ngài kể
chuyện quy y của Chỉ-Man theo Phật giáo, chuyện ông Cấp Cô
Độc mua Kỳ Viên, chuyện vua Lưu Ly
tàn sát dòng họ Thích Ca.
Khi tả về thành Ca-Tỳ-La-Vệ, Pháp sư còn tả tỉ mỉ chuyện Tiên A-Tư-Đà
đoán vận mệnh thái tử và những giai
đoạn trong
đời Cù
Đàm từ lúc ở nhà tại kinh đô
Ca-Tỳ-La-Vệ. Khi kể về Câu-Thi-Na, Pháp sư kể rành mạch chuyện
đức Phật nhập Niết bàn và chuyện ba
lần Ngài đã ra khỏi quan tài. Lần
đầu tiên Ngài
đưa ra hai cánh tay và hỏi A-Nan xem
ca Diếp đã
đến chưa. Lần thứ hai, Ngài ngồi dậy
giảng pháp cho thân mẫu. Lần thứ ba Ngài đưa
chân ra cho Ma-Ha-Ca-Diếp. Tại Ba-La-Nại, Pháp sư kể chuyện Bồ tát sinh
làm nai chúa và đã tình nguyện hy
sinh mình để cứu sống một nai mẹ.
Ngài cũng kể tường tận về lần thuyết pháp
đầu tiên của đức Phật ở
Phệ-xá-ly. Ngài kể chuyện người con gái có chân nai và sinh 1.000 con
trai. Ở Ma-Kiệt-Đà, Pháp sư kể
chuyện địa ngục do vua A-Dục xây,
chuyện thành phố Ba-tra-ly-Phật, chuyện A-Pháp A-Ma-Lặc, sự quy y của
A-Dục, và cuộc tranh luận giữa những Phật tử và người ngoại
đạo.
j. Hoàn cảnh địa dư của Ấn Độ
Ngoài sự tường thuật các xứ sở Ngài đã
đi qua, Pháp sư còn nhận xét tổng
quát về địa dư xứ Ấn, khí hậu, phép
đo lường, thiên văn,
lịch pháp, các thành phố, lâu đài,
chỗ ngồi, cách ăn mặc, áo quần, tập
tục, sự sạch sẽ và hay tắm của dân chúng, chữ viết, ngôn ngữ, sách, sự
nghiên cứu Phệ-đà, những tông pháp
Phật học, những giai cấp, hôn nhân, hoàng gia, thuốc, v.v... Sự miêu tả
này rất quan trọng vì nó trình bày một hình ảnh rõ ràng của xứ Ấn
Độ vào thế kỷ thứ 7 cùng với phong
tục tập quán của dân chúng, sự giáo dục, chính thể v.v...
Trước hết, Pháp sư giảng tên của Ấn Độ
như sau:
Danh từ Thiên Trúc có nhiều cách giảng khác nhau và rất mơ hồ. Ngày
xưa Tàu âm là Thân độc hay Hiền
đậu, ngày nay
được trở thành Ấn
Độ theo Hoa ngữ có nghĩa là mặt trăng.
Mặt trăng có nhiều danh từ chỉ và Ấn
Độ là một. Vì trong xứ này những
thánh hiền thường hướng dẫn thế sự như mặt trăng
chiếu khắp. Do đó mà có tên Ấn
Độ.
Đoạn Pháp sư tả chu vi của 5 xứ
Ấn là hơn 90.000 lý. Ba bề là biển. Về phía Bắc có núi tuyết chắn ngang,
rộng về phía bắc hẹp về phía nam, có hình bán nguyệt. Toàn diện tích
đất chia thành 70 xứ. Các mùa nóng
nực và đất có nhiều nước.
Đất trồng trọt
đựơc dẫn thủy dồi dào nên rất phì
nhiêu. Miền nam có nhiều rừng, nhiểu cỏ và xanh tốt. Miền tây
đất chai sạn và không hoa mầu.
k. Tinh thần, bản sắc dân Ấn
Pháp sư có những nhận xét sau đây
về tính tình, tinh thần người Ấn.
Mặc dù họ có bản tính rụt rè hấp tấp, họ tỏ ra rất lương thiện và
trực tính. Về tài sản họ không làm giầu phi pháp. Về các nhiệm vụ công
dân, họ cho phép nhiều dễ dãi. Họ sợ hình phạt
đời sau và khinh thường nghề nghiệp
sinh lợi. Họ không ưa dối trá lường gạt, và dùng sự thề thốt
để tôn trọng giao ước. Nền hành
chính của họ rất mực công bình chính trực, phong tục tập quán rất thanh
bình hòa nhã. Những tội nhân phản loạn vượt luật triều
đình hoặc âm mưu phản chủ thường bị
cầm tù khi việc ác bại lộ. Nhưng họ không bị hình phạt thể xác. Họ
được tự do sống chết mặc họ, nhưng
không được kể làm người nữa. Nếu có
phạm vào thuần phong mỹ tục hay công lý, không trung hiếu, thì bị cắt
mũi, tai hoặc chân hay đày biệt xứ
hoặc đến biên
địa hoang vu. Về những tội khác, có
thể nộp tiền để chuộc tội. Các tội
nhân không bị tra tấn để ép thú tội.
Nếu một tội nhân thành thật thú tội thì chỉ bị phạt xứng với tội lỗi.
Nếu tội nhân cố che giấu bào chữa, sẽ bị thử thách bằng 3 thứ: nước,
lửa, thuốc độc
để biết sự thật và trị tội. (Nếu quả
thật vô tội, thì nhờ các thần linh, ba thứ ấy sẽ không làm hại
được người bị thử thách theo lòng
tin thời bấy giờ. Lời chú của dịch giả).
l. Sự sạch sẽ:
Pháp sư tỏ ra có nhận xét sắc bén khi Ngài kể về những
đặc điểm
sau đây của người Ấn, về sự sạch sẽ
của họ, về sự tắm rửa trước sau khi ăn,
sự tắm bằng nước thơm:
"Họ hết sức tôn trọng sự sạch sẽ. Không mãnh lực gì
đổi được
ý định của họ về phương diện này.
Trước khi ăn họ tắm rửa. Họ không
bao giờ ăn thức
ăn thừa. Chén bát
ăn không
được chuyền quanh. Những chén bát gỗ
và đất mỗi khi dùng là bỏ. Chén bát
bằng vàng, bạc, đồng, sắt thì
được chùi
đánh bóng. Sau khi
ăn, họ dùng cành liễu
để xỉa răng,
đoạn rửa tay, súc miệng. Trước khi
tắm rửa, họ không động chạm nhau.
Sau khi tiểu tiện họ cũng rửa sạch. Thân thể họ thoa nhiều thứ hương
khác nhau gọi là phấn trầm hương và mạt hương. Khi những vị vua tắm thì
có nhạc công đánh trống
đàn hát. Trước khi dâng lễ hay cầu
nguyện họ cũng tắm rửa rất kỹ càng."
m. Giáo dục:
Pháp sư có vài nhận xét đúng
đắn về giáo dục ở Ấn. Những trẻ vỡ
lòng học cuốn sách 12 chương gọi là Tất-đàm.
Sau khi lên bảy họ lần lượt học các bộ luận sau
đây:
1. Thanh minh: Khoa học về âm thanh, danh từ, ngôn ngữ, nguồn gốc
và những chữ cùng gốc.
2. Công xảo minh: khoa học về các nghệ thuật, tiểu xảo, máy móc,
âm dương, lịch v.v...
3. Y phương minh: Khoa học về y lý, bao gồm những câu thần chú,
bí thuật, đá trị bệnh, thuật
châm cứu v.v...
4. Nhân minh: Khoa học về những vấn
đề nội tại, xét về ngũ luân, những nguyên lý vi tế về nhân
quả.
Những người Bà-la-môn học bốn quyển Vệ-đà.
1. Thọ (Ayurveda): Dạy sự dưỡng sanh tính tình nhân cách.
2. Trì (Yajurveda): Nói về tế lễ, cầu nguyện.
3. Bình (Sàmaveda): Nói về lễ nghi, bói toán, chiến lược, binh,
chiến hành.
4. Chú (Atharvaveda): Khoa học về thần bí như niệm chú, thuốc.
n. Sự đo lường:
Pháp sư tả sơ qua về đơn vị chiều
dài của người Ấn thời bấy giờ. Đơn
vị căn bản là do tuần bằng một ngày
quân hành, theo truyền thống các vị thánh vương xưa
để lại. Tính theo thời xưa 1 do tuần
bằng 40 lý. Ở Ấn thường dân tính nó bằng 30 lý và trong các thánh giáo,
nó bằng 16 lý. Một do tuần bằng 8 Câu-lô-xá (Kroshas). Một Câu-lô-xá là
khoảng cách từ đấy 1 tiếng bò rống
to có thể nghe. Câu-lô-xá (Kroshas) gồm có 500 cung (dhanu). Một cung
(dhanu) chia thành 4 khuỷu tay (hastas). Một khuỷu tay (hasta) gồm 24
đốt (angulis). Một
đốt tay (anguli) gồm 7 hạt lúa
(yavas) v.v... cho đến 1 con chấy
(yuka), con rận (liksha), một hạt bụi trong ánh nắng xuyên qua khe cửa,
một sợi lông bò, 1 lông cừu, 1 lông thỏ v.v... mỗi thứ chia thành 7 phần
đến 1 anu (vi tế). Hạt bụi nhỏ xíu
này chia ra 7 phần thành một hạt vô cùng nhỏ, không thể chia
được nữa mà không trở thành hư vô,
và được gọi là cực vi.
Pháp sư lại nói đến sự phân chia
thời gian ngắn nhất gọi là sát-na (kshana), 120 sát-na làm thành một
đát sát-na (takshana), 60
đát-sát-na bằng 1 lạp-phược (lava),
30 lạp phược bằng 1 mâu-hô-lật-đa
(muhurta), 5 mâu-hô-lật-đa thành một
thời (kala), 6 thời (kàlas) thành một ngày
đêm (ahoratra). Nhưng thường người ta chia ngày
đêm thành 8 kàlas (8 thời). Khoảng
thời gian từ trăng khuyết cho tới trăng
tròn gọi là suklapaksha (bạch-phần). Khoảng thời gian từ trăng
thượng tuần cho đến khi tối hoàn
toàn gọi là krishnapaksha (hắc-phần). Khoảng này dài 14 hay 15 ngày vì
có tháng thiếu, tháng đủ. Hắc phần
và bạch phần tiếp theo làm thành một tháng, 6 tháng là 1 hành (ayana).
Khi mặt trời di chuyển bên ngoài thì gọi là Bắc hành, khi di chuyển bên
trong thì gọi là Nam hành. Hai thời kỳ này họp thành một năm
(vatsara). Một năm lại chia thành 6
mùa. Từ ngày 16 tháng giêng đến rằm
tháng 3, thời tiết dần dần nóng nực. Từ 16 tháng 5
đến rằm tháng 7 là mùa mưa, từ 16
tháng 7 đến rằm tháng 9 là mùa tăng
trưởng mãnh liệt, từ 16 tháng 9 đến
rằm tháng 11 là mùa dần dần lạnh, từ 16 tháng 11
đến rằm tháng 12 là mùa rất lạnh.
Theo thánh giáo của Như Lai, một năm
chia ra 3 mùa. Từ ngày 16 tháng giêng đến
rằm tháng 5, đây là mùa nóng, từ 16
tháng 5 đến rằm tháng 9 là mùa mưa.
Từ 16 tháng 9 đến rằm tháng giêng là
mùa rét. Hoặc năm chia làm 4 mùa:
xuân, hạ, thu, đông. Ba tháng mùa
xuân gọi là Chế-tát-la (chaitra), Phệ-xá-thư (vaisakha), Thệ-sắt-ha
(jyeshtha), theo trung Hoa là từ ngày 16 tháng giêng
đến rằm tháng 4. Ba tháng mùa hạ là
An-sa-đà (Ashadha), Thất-phiệt-nỏa
(Sravan), Bàn-đát-la-bát-đà
(Bhadrapada) từ ngày 16 tháng 4 đến
rằm tháng 7. Ba tháng mùa thu là A-thấp-phược-khố-xà (Asvina), Ca-lặc-để-ca
(Karttika), Mạt-già-thủy-ra (Màrgasirsha) từ ngày 16 tháng 7
đến rằm tháng 10. Ba tháng mùa
đông là Báo-sa (Pushya), Ma-khư
(Bàgha), Phá-lặc-lũ-noa (Phalguna), từ ngày 16 tháng 10
đến rằm tháng giêng. Theo cách phân
chia này, những vị tăng theo lời dạy
của Phật, thường giữ hai mùa an cư, hoặc là ba tháng
đầu hay ba tháng sau. Ba tháng
đầu theo Trung Hoa từ 16 tháng 5
đến rằm tháng 8. Ba tháng sau từ 16
tháng 6 đến rằm tháng 9. Những vị
dịch kinh và luận ngày xưa nói mùa kiết hạ kiết
đông.
Đấy là vì ở biên địa không
hiểu cách đọc của miền Trung Quốc
cho đúng, hoặc họ dịch kinh trước
khi nắm vững thổ ngữ địa phương, nên
có lầm lẫn.
o. Dinh thự nhà cửa
Pháp sư cũng chú ý tả rất rành mạch về những thành phố, dinh thự, nhà
cửa: "Làng xóm đều có cổng hình
vuông, rộng và cao. Những con đường
lớn, đường nhỏ thì ngoằn ngoèo,
không bằng phẳng, có nhiều ụ đất
tường và cổng dơ dáy. Sạp, cửa tiệm có những bảng tên và nằm hai bên
đường.
Đồ tể, ngư ông, ca sĩ, kịch sĩ, đao
phủ, người quét đường,
đều có nhà ở ngoài khu vực làng.
Đi đường
thì họ đi bên trái. Nhà họ có thành
bao quanh. Đất thấp và ẩm, những
thành quách có nhiều lớp gạch. Tường làm bằng tre
đan và gỗ. Nhà có hành lang và những
lần gỗ có mái phẳng tô vôi và lợp ngói. Những tòa lầu
đều làm theo một kiểu như ở Trung
Hoa. Tranh, cói cỏ, ngói hay bảng gỗ đều
được dùng làm
đồ lợp. Vôi hồ
để tô tường. Nền nhà
được rắc phân bò cho hợp vệ sinh.
Thỉnh thoảng cũng rắc hoa. Những tu viện thì
được xây cất khác thường, có gác
chuông ở bốn góc và những gian trại có tầng. Kèo cột
đòn tay
đều có chạm trổ công phu. Cổng, cửa sổ, thành lũy
đều được
vẽ nhiều hình để trang hoàng. Những
nhà ở của thường dân thì sặc sỡ ở bên trong và giản dị ở bên ngoài. Chỗ
danh dự là chỗ giữa nhà, cao rộng và đặc
biệt. Những gian phòng có nhiều tầng và những nhà hai tầng
đều theo những kiểu mẫu khác nhau.
Cửa mở về phương đông. Ngai vua cũng
hướng đông."
p. Chỗ ngồi, cách ăn mặc
"Để ngồi và nghỉ ngơi, họ dùng
giường bằng dây bện lại. Những người trong Hoàng gia, những người tai
mắt, học giả, công chức, người giầu trang sức khác nhau, không theo cùng
một kiểu. Ngôi vua thì cao, rộng và cẩn nhiều ngọc, gọi là ngai sư tử,
bọc nhiều vải quý. Chỗ vua để chân
được trang hoàng bằng ngọc. Phần
đông dân chúng và công chức dùng
những ghế ngồi chạm trổ đẹp
đẽ và trang hoàng sặc sỡ tùy thích."
Pháp sư tả quần áo của họ không được
may cắt, họ thích phục sức giản dị mầu trắng và khinh thường những mầu
sắc hỗn độn lòe loẹt.
Đàn ông mặc những tấm vải quấn quanh
thắt lưng, vắt qua vai và thòng xuống dọc thân thể về bên phải. Áo
đàn bà cũng quấn ngang thắt lưng và
phủ xuống, hai vai đều che kín. Trên
đỉnh đầu
họ có một búi tóc, tóc còn lại bỏ xõa xuống, Một số người cắt râu mép và
có những tập tục kỳ dị. Họ mang tràng hoa quanh
đầu, thân thể trang sức bằng vàng
ngọc và đeo kiềng cổ. Áo của họ gồm
có Kiều-xa-la (Kausheya) là lụa dệt bằng tơ tằm hoang, Xô-ma (Kshauma)
làm bằng vải kép, Kiêm-bát-la (Kambala) dệt bằng lông dê mịn và có thể
xoắn lại, được xem là vải mặc rất
quý. Ở Bắc Ấn, thời tiết cực lạnh, dân chúng mặc áo quần chật và ngắn,
trông như những người rợ Hồ. Áo quần và cách trang sức của những người
tà giáo có nhiều kiểu pha trộn và nhiều màu. Họ mang lông công và
đuôi công, hoặc trang sức bằng sọ
người (kapaladharinas) và kiềng cổ, hay đi
trần truồng. Họ mặc áo bằng lá hay vỏ cây, nhổ tóc râu hoặc
để tóc rất dài ở hai bên thái dương,
còn tóc trên đỉnh
đầu thì bện lại. Áo quần thường nhật
thì không đồng nhất, có màu
đỏ hoặc trắng.
Những vị tăng có ba y, ba y ấy có
nhiều kiểu tùy theo tông phái, đường
viền rộng hoặc hẹp, những mảnh vá (điệp)
hoặc nhỏ hoặc lớn. Áo tăng-khư-vĩ
phủ vai trái che hai nách, hở bên trái và kín bên phải,
được cắt dài quá thắt lưng. Áo
Nê-phúa-ta-na không có thắt lưng, khi mặc thì xếp thành những nẹp và
buộc lại bằng dây. Màu áo thay đổi
tùy tông phái, hoặc vàng hoặc đỏ
không giống nhau. Những người giai cấp Sát-đế-lỵ
và Bà-la-môn trong sạch giản dị, sống đạm
bạc cần kiệm. Những vị vua, đại thần
có áo quần và đồ trang sức
đẹp đẽ
nhiều màu. Họ trang điểm
đầu bằng vòng hoa và mũ nạm ngọc,
mang nhẫn, vòng, kiềng. Có những thương gia giàu có chỉ chuyên bán
đồ trang sức. Phần
đông đi
chân trần, một số mang giày dép. Họ nhuộm răng,
đen hoặc
đỏ, sửa soạn tóc, xâu tai, trang
điểm mũi và có mắt lớn.
Đấy là vẻ bên ngoài của họ.
q. Mẫu tự
"Về mẫu tự thì do Brahmadeva (Phạm Thiên) sáng chế và truyền lại cho
đến nay. Có tất cả 47 chữ, phối hợp
tùy đối tượng và dùng tùy trường
hợp. Mẫu tự này truyền bá sâu rộng và lập thành nhiều ngành. Tùy
địa phương và dân chúng có ít thay
đổi, nhưng kể chung các từ ngữ không
khác nguyên trạng bao nhiêu. Trung Ấn còn giữ sự chính xác của thần
thánh. Cách phát âm rất trong sáng và đáng
làm mẫu mực. Những người ở biên địa
và vài vùng khác thì lại có nhiều cách đọc
sai lầm, thiên về sự thô hóa ngữ và không kể
đến sự duy trì bản sắc uyên nguyên.
Về các ký sự, có một viên chức ghi chép và giữ gìn. Những sử gia gọi là
Nilapita (Ni-la-bê-tra) ghi lại các biến cố lành dữ, các tai ách và các
việc may mắn đã xảy ra."
Như vậy cuốn Tây Vực Ký ngày nay thật là quan trọng, vì
đó là cuốn sách
độc nhất miêu tả một cách chính xác
và linh động xứ Ấn
Độ vào thế kỷ thứ 7, với quang cảnh
địa lý, khí hậu, thảo mộc, nông
nghiệp, với bản sắc dân tộc, những nơi Phật tích. Cunningham viết sách
về cổ Ấn với cuốn Tây Vực Ký bên cạnh, ông ta
định xứ các nước ngày xưa và dò tên
của chúng theo những chi tiết mà Pháp sư đã
viết trong sách Ngài. Hầu hết những Phât tích
đều được
tìm ra và tên những tháp được xác
nhận nhờ cuốn Tây du của Ngài. Nhiều học giả Nhật
đưa ý kiến làm lại cuộc Tây du của
Ngài Huyền Trang theo hết đường
đi của Ngài
đến Ấn
Độ, hy vọng sẽ có nhiều khám phá mới lạ quan trọng trong phạm vi
Phật học. Hơn nữa, trong cuốn sách này Ngài cũng
đã cho nhiều chi tiết về lịch sử
Phật giáo, sẽ làm sáng tỏ sự thành lập các chi phái Phật học và nêu rõ
vai trò của những luận sư quan trọng trong sự lập thành các thuyết phái
mới. Quyển Tây Vực ký của Pháp sư thật dã
đóng góp rất nhiều trong địa
hạt lịch sử và địa dư Ấn
Độ, cũng như
địa hạt Phật học.
Để thấy phần nào tính tình cao
thượng, học thức uyên bác và văn
chương điêu luyện của Ngài, chúng ta
tạm dịch ra đây toàn bức thư của
ngài gửi cho Prajna-prabha (Trí Quang), một vị Tỳ kheo Ấn ở Nalanda. Qua
bức thư này, chúng ta cũng có thể thấy được
sự kính trọng của ngài đối với Pháp
sư Giới Hiển.
"Tỳ kheo Huyền Trang triều Đường,
xin cung kính gởi bức thư này đến
Tam tạng Trí Quang ở Ma- Kiệt-Đà,
Trung Ấn. Kể từ khi pháp đệ bái biệt
Ngài, hơn 10 năm
đã trôi qua. Vì
đường sá cách trở cho
đến nay
đệ vẫn chưa được tin tức gì
của Ngài và với thời gian hoài niệm của đệ
về Ngài càng ngày càng sâu đậm.
Nay có Tỳ kheo Pháp Trưởng (Dharmarudha)
đến cho hay Ngài vẫn được
khang an, đệ thực vui mừng như chính
mắt được chiêm ngưỡng tôn nhan, nỗi
mừng không tả xiết. Nay tiết trời có thay
đổi ngày càng nóng nực, chẳng hay Ngài thấy pháp thể thế nào.
Năm qua, tin lại cho hay rằng
luật vô thường đã mang
đi vị pháp sư cao cả của chúng ta,
Ngài Giới Hiền. Nghe tin đệ thật
bàng hoàng như sét đánh ngang tai.
Ôi! Con thuyền trên bể khổ đã chìm
và đôi mắt của trời và người
đã khuất dạng. Có ngờ
đâu nỗi sinh ly
đã giáng xuống chúng ta quá sớm.
Vị hộ trì chánh pháp thật đã
trồng những hạt giống lành và vun xới cây công
đức từ vô lượng kiếp, cho nên ngày
nay vóc mạo Ngài thì uy nghi, thiên tư thì xuất chúng. Ngài
đã thừa hưởng
đức hạnh của ngài Thanh Thiên và
vinh quang của Ngài Long Thọ. Ngài đã
đốt lại bó
đuốc Tuệ và treo cao ngọc chánh pháp.
Ngài đã dập tắt ngọn lửa nồng trong
núi rừng tà kiến khắc phục cơn đại
hồng thủy của biển ngụy thuyết. Ngài đã
cổ võ những người biếng nhác, khiến họ tiến lên
đường
đến đất châu ngọc và
đã chỉ
đường cho những kẻ lạc lầm. Vĩ đại
thay, cao cả thay, cột trụ lớn của cánh cửa Pháp mà Ngài là tượng trưng
ấy.
Hơn nữa, giáo lý tam thừa, nhị giáo, tất cả những
đề tài về thuyết trường tồn và hủy
diệt của các tà phái Ngài đều thông
suốt tường tận. Ngài hiểu rõ nghĩa trong câu uẩn khúc nhất và hiểu nghĩa
tất cả những thuyết bí ẩn. Những Phật tử và người khác
đạo đều
tìm đến Ngài và Ngài trở thành vị
lãnh đạo tâm linh của Ấn
Độ. Những lời dạy của Ngài chân
thành và chính xác, Ngài dạy suốt ngày đêm
chẳng nề mỏi mệt. Lời dạy của Ngài làm lợi lạc cho cả mọi người, biến
đổi tùy theo nhu cầu và khả năng
của họ, và dòng kiến văn của Ngài
không bao giờ cạn. Ngay khi đệ
đi tìm chánh pháp,
đệ đã
có may mắn được dự các buổi thuyết
pháp của Ngài và nghe những lời vàng ngọc. Mặc dù còn ngu muội kém hèn,
đệ cũng
đã lãnh hội được rất nhiều
qua những lời Ngài chỉ giáo. Khi đệ
trở về xứ, Ngài đã không nề hà ban
cho những lời dạy quý hóa và ân cần nhắn nhủ. Ngay giờ
đây, đệ
vẫn còn như vẳng bên tai tiếng Pháp âm huyền diệu. Chúng ta những tưởng
Ngài còn trường thọ để chúng ta
được noi theo gương mẫu cao vời của
Ngài. Thế mà ngờ đâu, luật vô thường
một sớm đã gọi Ngài
đi vào vô tận. Nghĩ
đến sự Ngài khuất bóng mà không trở
lại, đệ thật muôn vàn cảm thán.
Pháp huynh đã từ lâu thụ giáo với
Ngài và hầu cận bên Ngài từ thơ ấu, có lẽ pháp huynh khó lòng cưu mang
nỗi biệt ly đau
đớn thế này. Nhưng chúng ta làm
được gì bây giờ? Mọi pháp
đều phải chịu sanh diệt, luật vô
thường khắt khe dường ấy! Xin cầu mong pháp huynh chóng qua cơn tang
thương này mà không quá ưu tư.
Ngày xưa, khi Đức Thế Tôn qua
đời, Ca Diếp tôn giả can
đảm gánh trọng trách cao quý của
Ngài và sau khi Thương Na Hoa Tu từ trần, Ưu-ba-cúc-đa
đã truyền bá chánh pháp sâu xa. Ngày
nay, Pháp sư đã khuất bóng, thiết
nghĩ pháp huynh hãy tiếp tục sứ mạng của Ngài. Cầu mong pháp âm huyền
diệu của huynh sẽ tuôn chảy như nước non cao. Trong các kinh
điển mang về,
đệ đã
dịch được bộ Du-già Sư-địa
và những bộ khác, tính cả hơn 30 quyển. Bản dịch Câu-xá và
Thuận-chính-lý vẫn chưa xong và đệ
hy vọng hoàn tất năm nay.
Thiên Tử Đường triều vẫn
được khang an, giang sơn vững chắc,
với lòng từ bi của ngôi Thiên đế,
Ngài đã
đóng góp nhiều trong công việc truyền bá giáo lý của
đấng Pháp vương. Ngài
đã đề
tựa cho tất cả những sách mới dịch. Ngài ra lệnh cho
đình thần sao chép các bản dịch và
cho lưu hành khắp xứ cũng như trong các nước lân bang. Mặc dù chúng ta
đang ở khoảng cuối của thời tượng
pháp, giáo pháp cũng vẫn còn chói ngời quang minh không khác thời mà Thế
Tôn thuyết trong vườn Thệ-đa, xứ
Thất-la-phiệt.
Đây là những tin tức
đệ xin chuyển
đến. Khi qua Tín-độ-hà,
đệ đã
đánh mất một ngựa chở
đầy kinh sách,
đệ xin viết lại
đây những cuốn
đã rơi mất. Kính mong tôn huynh gởi
lại cho đệ khi nào có dịp. Cùng với
thư này, đệ có kèm theo ít lễ vật
cúng dường, xin tôn huynh hoan hỷ. Đường
dài trắc trở, khó thể gửi nhiều, dám mong tôn huynh
đừng chê trách.
Đệ xin kính bái."
---o0o---
|
Phần 1 |
Phần 2 |
Phần 3 |
Phần 4 | Phần 5 |
Phần
6