Huyền Trang - Nhà
Chiêm Bái và Học Giả
(Hsuan-Tsang, the
Pilgrim and Scholar)
Nguyên tác Anh ngữ:
Hòa Thượng Thích Minh Châu
Bản dịch Việt ngữ:
Ni sư Thích Nữ Trí Hải
Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam tái bản, 1989
---o0o---
Phần 6
VIII. HUYỀN TRANG,
NHÀ THẦN BÍ
Chúng ta đã thấy Pháp sư là một
học giả, một giảng sư, một nhà hùng biện, một dịch giả và một tác giả.
Sự học rộng tài cao khiến Ngài thành một vị trí thức khổng lồ giữa những
người đồng thời. Nhưng
điều kỳ lạ là ở nơi Ngài có một tâm
tư thần bí sâu đậm, một lòng tin
nồng nhiệt gần như cuồng tín, vượt ngoài mọi tưởng tượng. Trong suốt
đời sống của Ngài, chúng ta chứng
kiến một sự hỗ tương tác động giữa
cầu khẩn, bói toán, thần thông và mộng mị
đến nỗi mọi sự kiện quan trọng trong
đời Ngài hình như được quyết
định, không phải bởi những suy nghĩ
đắn đo
dựa trên thực tại, mà chính bởi một vài sức mạnh huyền bí mà Pháp sư
hoàn toàn tin tưởng.
1. Lòng tin nồng nhiệt
Lòng tin nồng nhiệt của Pháp sư thật kỳ lạ và vô song. Trong khi Ngài
đi chiêm bái, lúc
đến một tháp hay Phật tích nào
được xem là có tàng trữ xá lợi Phật,
Pháp sư không bao giờ quên đến chiêm
ngưỡng và đảnh lễ một cách thành tín.
Khi Pháp sư đến xứ Nagarahara,
Ngài đảnh lễ và
đi nhiễu xung quanh tháp do vua A-Dục
lập lên tại chỗ Bồ tát Thích Ca trải áo bằng da nai và tóc trên bùn
để đức
Phật Nhiên Đăng bước qua. Một khi
Pháp sư đến thành Phật
Đảnh Cốt, Pháp sư cho nghiền một ít
hương bột thơm để in dấu sọ của
đức Phật và Ngài
được hình ảnh một cây Bồ
đề. Cũng tại thành này, Pháp sư
đảnh lễ mắt của
Đức Phật. Y Tăng
già lê của đức Thế Tôn làm bằng vải
rất mịn, tích trượng với những vòng tròn bằng sắc trắng và cán bằng gỗ
trầm hương. Pháp sư cũng có cúng 50 đồng
tiền vàng, một ngàn đồng tiền bạc,
bốn tràng phan [Lá cờ (BT)] rất đẹp,
hai cuộn lụa và hai bộ y.
Pháp sư tự đi một mình
đến thành phố Dipankara
để đến
thăm động
đá, tại
đây đức Như Lai
đã điều
phục được con rắn thần và
để lại hình bóng của Ngài. Trên con
đuờng đi,
Pháp sư gặp năm tên tướng cướp.
Những tên này bị nhiếp phục bởi tín tâm và tánh vô úy của Ngài nên cũng
đi theo
để được chiêm bái bóng của
đức Phật. Pháp sư
đi vào
động đá một mình, mò
đường khoảng năm
mươi bước và chạm vào bức tường phía đông,
Ngài đứng lại, và với một lòng chí
thành, Ngài lễ hơn trăm lạy. Khi
không thấy gì hiện ra Ngài tự trách những bất tịnh nghiệp trong quá khứ
và khóc than ảo não. Đoạn Ngài thành
khẩn tụng những bài kệ tán Phật trong kinh Srimàla-devi-simhanada (Thắng
Man) và những kinh khác. Trong khi tụng, Ngài quỳ lạy và lạy
đến lần thứ 100 thì có một ánh sáng
lớn bằng bát ăn hiện ra trên tường
rồi biến mất. Hình ảnh ấy khuyến khích Pháp sư, và Ngài lễ thêm 200 lạy.
Khi ấy cả động bừng sáng và bóng Như
Lai hiện rõ rệt, nhưng tòa sen không rõ lắm. Bóng của các vị Bồ tát, La
hán hầu quanh Phật cũng thấy rõ. Trong số 6 người Ngài gọi vào xem bóng
Phật, chỉ có 5 người thấy được. Bóng
hiện ra rõ ràng chừng nửa thời gian một bữa
ăn, và biến mất sau khi Pháp sư cùng những người khác
đã chiêm bái dâng hương hoa. Người
Bà-la-môn dẫn đường vô cùng hân hoan
bảo rằng bóng ấy chỉ hiện bởi vì lòng tận tụy và ý
định kiên trì của Pháp sư.
Pháp sư rất tin tưởng vào thần lực của Quan Thế Âm Bồ tát và Ngài
chẳng bao giờ quên đảnh lễ mỗi khi
đến gần một hình tượng nào của Bồ
tát. Trên đường
đến Hiranyaparvata (Hê-lô-sơn) Ngài
đến chùa Kapota (Ca-bố-đức)
trong ấy có một tượng Bồ tát Quan Âm bằng gỗ. Những hương hoa cúng dường
đều được
tung đến từ xa và người ta xem là
điềm lành nếu hoa
đậu trên tay hay treo trên cánh tay
tượng. Pháp sư mang đến nhiều hoa và
làm thành vài tràng. Ngài đến gần
tượng và thành tâm tụng niệm. Đoạn
Ngài quỳ xuống khấn nguyện như sau:
"Xin cho hoa đậu trên tay Ngài
nếu con được trở về Trung Quốc bình
an sau khi du học xong, xin cho hoa treo trên cánh tay Ngài nếu con
được tái sinh trên cõi trời
Đâu Suất và phụng sự Di Lặc Bồ tát
nhờ công đức
đã làm, xin cho những vòng hoa sẽ
đậu ở cổ nếu con có Phật tánh và sẽ
thành Phật trong tương lai."
Khấn xong, Ngài tung hoa vào tượng và tất cả hoa
đều đậu
ở ba nơi mà Ngài mong ước. Pháp sư xem đấy
là điềm tốt và những người có mặt ở
đây đều
ngạc nhiên trước hiện tượng xảy ra.
2. Tin vào sự cầu nguyện
Với một tâm hồn chí thành như thế, thật không lạ khi Pháp sư phần
nhiều đều nương vào nguyện lực lúc
gặp gian nguy.
Khi Pháp sư đến Lưỡng Châu, Ngài
phải đương
đầu với một hoàn cảnh rủi ro. Hai
người đồng hành của Ngài,
Đạo Chỉnh và Huệ Lâm
đã bỏ trốn vì sợ hành trình vất vả.
Ngài rất cần một người hướng đạo
để đưa
qua ải Ngọc Môn. Bởi thế Pháp sư cầu nguyện trước tượng
Đức Phật Di Lặc trong ngôi chùa Ngài
đang trú,
để xin một người dẫn
đường. Lời cầu của Ngài
được ứng nghiệm, và một người lạ mặt
đã xuất hiện, tình nguyện làm hướng
dẫn viên.
Khi Pháp sư đang ngủ sau khi qua
sông Hu-lee, người dẫn đường bỗng
nhiên sấn tới Ngài, tay cầm kiếm tuốt trần. Pháp sư ngồi dậy, tụng kinh
và niệm danh hiệu Quan Âm Bồ tát, sự cầu nguyện
đã cứu Ngài thoát khỏi tên sát nhân.
Khi Pháp sư ở Trung Quốc, một người bệnh Ngài săn
sóc đã dạy Ngài Bát-nhã Ba-la-mật-đa
Tâm kinh. Khi qua sa mạc Mạc-hạ-diên, Ngài thường bị ma quỷ bao vây phá
phách không ngừng, ngay cả khi Ngài niệm danh hiệu Bồ tát Quan Âm. Nhưng
chúng biến vào không trung tức khắc khi Ngài
đọc thần chú này.
Khi ngã quỵ trên cát ở sa mạc Mạc-hạ-diên, thần chết như lẩn khuất
quanh Ngài. Mặc dù trong tình trạng tuyệt vọng, Pháp sư vẫn cầu cứu lòng
từ bi của Quan Âm Bồ tát và cầu nguyện không dứt. Vào ngày thứ năm
một cơn gió mát thổi đến và Ngài
thoát chết.
Khi chạm trán kẻ cường đạo lần
thứ ba, Pháp sư bị dẫn đến một bàn
thờ để thiêu sống tế thần Durga.
Ngài van xin bọn cướp tha mạng, nhưng vô hiệu.
Đoạn Pháp sư tập trung hết tư tưởng
vào Di Lặc Bồ tát. Sức thiền định
sâu xa đến
độ Ngài cảm thấy như
đã được
đưa đến
trời Đâu Suất và chiêm ngưỡng chính
tôn dung Bồ tát Di Lặc. Lúc ấy, một trận hắc cuồng phong bỗng nổi lên
làm bọn cướp kinh hoàng, chúng phải phóng thích Pháp sư và xin Ngài tha
tội. Thiên nhiên dường như đã hợp
tác cùng những thần linh để cứu Pháp
sư thoát nạn.
3. Vai trò của sự tiên đoán và
phép mầu
Một cuộc đời phi thường như thế
và một niềm tin vững mạnh vào nguyện lực đã
xui khiến những lời tiên đoán và
phép mầu hiển hiện. Cuộc đời của
Pháp sư đã chứng kiến nhiều biểu
tượng của lãnh vực vô hình.
Khi sắp sửa cuộc Tây du chiêm bái, Ngài hỏi một phù thủy tên Hà Hoằng
Đạt thường nổi tiếng là có tài tiên
đoán chính xác,
để biết về cuộc hành trình sắp
đến của Ngài. Vị phù thủy bảo Pháp
sư có thể tiến hành cuộc hành trình sắp đến
của Ngài. Vị phù thủy bảo Pháp sư có tiến hành cuộc Tây du phải cỡi một
con ngựa gầy, già, mầu hung đỏ, và
sẽ có mảnh sắc hơi đỏ trước yên. Khi
Pháp sư sắp qua ải Ngọc Môn, có người xin
đổi con ngựa của Ngài bằng một con ngựa già gầy. Ban
đầu Pháp sư không chịu vì ngựa của
Ngài trẻ mạnh hơn. Nhưng Ngài sực nhớ đến
lời tiên đoán của người phù thủy.
Con ngựa già mang những dấu hiệu như ông ta
đã tả, vì vậy Pháp sư đổi con
ngựa Ngài lấy con ngựa ông già. Và con ngựa gầy mầu hung
đỏ ấy không những
đã đưa
Pháp sư qua sa mạc Mạc-hạ-diên mà còn cứu sống Ngài bằng cách tìm và nhờ
bản năng của nó, một
đồng cỏ xanh tốt ra một hồ nước
ngọt. Khi Pháp sư hoàn tất việc học ở Ấn Độ,
Ngài hoang mang không biết nên trở về Trung Hoa hay nên ở lại
đất Ấn. Lúc ấy, một người theo học
phái Ni-kiền-đà tên là Kim Cương
(Phạt-xà-la) đến thăm
Pháp sư và vì những người này nổi tiếng bói rất hay, Pháp sư yêu cầu ông
ta bói thử Ngài có thể về đến
đất Trung Hoa an ổn không, và
điều gì Ngài nên làm hơn, ở lại Ấn
hay nên về Trung Hoa, và Ngài còn sống được
bao lâu nữa? Người tướng số xin mảnh đá
trắng rồi gạch vài hàng trên mặt đất
để đoán.
Đoạn ông ta bảo Pháp sư rằng Ngài
nên ở lại Ấn vì Ngài sẽ được mọi
người cả xuất gia lẫn cư sĩ của năm
xứ Ấn Độ trọng
đãi nể vì. Về việc thọ yểu Pháp sư
sẽ sống thêm mười năm nữa, nhưng nếu
nhờ làm nhiều công đức thì ông ta
không thể đoán Pháp sư sẽ sống thêm
bao lâu. Khi Pháp sư tỏ vẻ lo vì phải mang thêm một số lớn kinh tượng,
thì thầy tướng số khuyên chớ lo vì vua Giới Nhật và Cưu Ma La sẽ cho
người hộ vệ Ngài về nước an ổn. Lúc bấy giờ Pháp sư chưa gặp hai vị vua
ấy, nhưng những biến cố về sau chứng tỏ lời tiên
đoán rất chính xác.
Khi về đến Trung Hoa, Ngài
được Hoàng
đế và dân chúng
đón rước linh
đình nồng hậu. Một
đám rước trọng thể
được tổ chức
để cung nghinh những kinh tượng và
xá lợi Phật do Pháp sư mang về từ đường
Châu Tước đến chùa Hoằng Phuớc. Hàng
ngàn dân chúng đứng dọc hai bên
đường
đốt hương để chào mừng
đám rước. Vào ngày ấy, một
đám mây ngũ sắc xuất hiện về phía
bắc mặt trời và bay vòng quanh trong một chu vi nhiều lý ở trên kinh và
tượng Phật như để chúc mừng.
Đám mây biến mất khi
đám rước
đến chùa Hoằng Phước. Lại một
điềm khác lạ lùng nếu không phải là
kỳ bí đã xảy ra khi Pháp sư dịch
xong bộ Đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa
kinh. Khi dịch xong sáu trăm quyển
kinh này, Pháp sư rất đỗi vui mừng
và Tịch Chiếu, vị Duy-na [người giữ phép tắc trong chùa (BT)] ở
Ngọc Hoa đã tổ chức một buổi tiệc
lớn để mừng kỳ công ấy. Khi bộ kinh
được cung nghinh trong
đám rước, có một hào quang kỳ diệu
phát ra từ bộ kinh và chiếu sáng, đồng
thời một mùi hương lạ tỏa khắp không gian. Pháp sư rất vui mừng trước
hiện tượng này và đoán rằng kinh sẽ
được các vị vua,
đình thần và quần chúng Phật tử che
chở giữ gìn.
Cái chết của Pháp sư đã
được báo trước bằng nhiều
điềm lạ. Vào nửa
đêm khi Pháp sư từ trần, Tỳ kheo
Minh Huệ đang
đi kinh hành quanh
điện Phật. Ông thấy bốn cầu vồng
trắng bắc ngang từ bắc đến nam và
ngay trên nóc chùa Từ Ân trong đó
Pháp sư viên tịch. Trong buổi sáng ngày thứ chín, những tin báo Pháp sư
viên tịch đến kinh
đô và ngày giờ viên tịch của Ngài
trùng hợp với đêm mà những ráng trời
đã xuất hiện. Tất cả những người
biết đến hiện tượng này
đều ngạc nhiên kinh dị trước
điềm lạ
đã xảy ra.
4. Những giấc chiêm bao trong đời
Huyền Trang
Trong đời Pháp sư, những giấc
mộng đã
đóng vai trò rất linh động và
quyết định, và tất cả những biến cố
trong đời Ngài
đều được
báo trước bằng những giấc mộng hoặc dấu hiệu nào
đó. Pháp sư rất có linh tính về
những dấu hiệu ấy, không bao giờ quên hướng dẫn hoạt
động tương lai của mình cho phù hợp
với ngôn ngữ huyền bí của giấc mộng.
Khi Pháp sư ra đời, mẹ Ngài chiêm
bao thấy Ngài mặc sắc phục trắng đi
về hướng tây. Bà hỏi Ngài: Ngươi là con ta, ngươi muốn
đi đâu?"
Pháp sư trả lời: "Con đang
đi tìmchánh pháp."
Như thế cuộc hành hương của Pháp sư sang Tây vức
đã được
tiên đoán ngay khi Ngài mới ra
đời.
Vào tháng Tám niên hiệu Trinh Quán thứ ba (629 Tây lịch), khi sẵn
sàng lên đường chiêm bái, Ngài cầu
nguyện xin một điềm lành.
Đêm ấy, Ngài nằm mơ thấy
đang leo ngọn núi Tu Di làm bằng bốn
thứ ngọc quý và ở ngay chính giữa biển. Sóng triều lên rất cao, không
thấy một con thuyền nào cả. Bỗng chốc những hoa sen bằng
đá nổi lên trên sóng và
đưa Ngài lên
đến chân núi. Ở
đấy những mỏm
đá cheo leo quá
đến nỗi Ngài không tài nào leo lên
được. Bỗng nhiên một cơn gió nổi lên
mang Ngài đến
đỉnh núi. Với một
điềm lành như thế, Pháp sư lên
đường chiêm bái.
Khi đến Linh Châu, Ngài lo ngại
vì không thể qua ải Ngọc Môn mà khôngcó bạn
đồng hành và người hướng đạo.
Đêm ấy một vị Tỳ kheo lạ cùng ở
trong chùa ấy nằm mơ thấy Pháp sư đi
về phương tây ngồi trên một hoa sen. Ông kể lại việc ấy và Pháp sư rất
sung sướng vì giấc mộng đã tiên
đoán sự thành công của chuyến tây
du.
Khi qua sa mạc Mạc-hạ-diên, Ngài quá kiệt sức phải ngã quỵ gần bất
tỉnh vì đã bốn
đêm không uống một giọt nước nào.
Vào nửa đêm ngày thứ năm,
một ngọn gió mát thổi đến làm Ngài
lai tỉnh. Ngài mở mắt nhưng lại gục ngay vì sức
đã quá yếu. Trong giấc ngủ Ngài thấy
một vị thần khổng lồ giục Ngài tiến lên thay vì nằm ngủ ở
đấy. Pháp sư tỉnh dậy tiếp tục cuộc
hành trình.
Khi đến xứ Ca-thấp-di-la, Ngài ở
lại ban đêm trong ngôi chùa
Hộ-sắc-ca-la. Đêm ấy tất cả tăng
chúng đều chiêm bao thấy có một vị
thần đến báo tin sẽ có một vị tăng
từ Ma-ha-chi-na đến, và giục họ chớ
ngủ một cách biếng nhác mà phải suy tư thiền quán, bởi vì nhiều thiên
thần hộ vệ. Pháp sư cũng đang ở
trong chùa. Nghe lời ấy toàn thể tăng
chúng đều thức dậy siêng năng
tụng kinh điển. Vào lúc bình minh họ
kể lại giấc chiêm bao cho Pháp sư và tỏ lòng kính trọng vô biên
đối với Ngài.
Lại nữa, việc Pháp sư đến Nalanda
đã được
tiên đoán ba năm
trước đó trong một giấc mộng của
Ngài Giới Hiền. Khi Pháp sư gặp Ngài Giới Hiền lần
đầu tiên, Giới Hiền
đã hỏi Pháp sư từ
đâu đến.
Pháp sư trả lời rằng Ngài từ Trung Quốc đến
để học Du già Sư
địa luận với Pháp sư Giới Hiền. Giới
Hiền khóc và bảo đồ
đệ là Buddhabhadra (Phật-đà
bạt-đà-la) kể lại cơn bệnh của Ngài:
ba năm về trước Ngài Giới Hiền bị tê
thấp đã 20 năm;
trong ba năm cuối, ngài không thể
chịu đựng
được nữa và muốn tự vẫn bằng cách
tuyệt thực. Một đêm kia Ngài nằm
mộng thấy ba vị thiên thần đẹp
đẽ quang minh hiện
đến trước mặt Ngài, một vị có sắc
vàng chói, một vị có sắc lục và một vị bạch kim. Ba vị bảo Giới Hiền
Pháp sư chớ tự vẫn và khuyên Ngài hãy truyền bá chánh pháp, giảng Du-già
Sư-địa-luận và những kinh sách khác.
Họ bảo Ngài hãy đợi một vị sư Trung
Hoa rất mong mỏi học chánh pháp và hãy dạy cho vị sư ấy. Giới Hiền hứa
sẽ theo lời khuyên của họ. Đoạn ba
vị Bồ tát biến mất và từ đó Ngài
Giới Hiền không còn đau nữa. Vì thời
gian mà Pháp sư dùng để
đến Nàlandà phù hợp với lời bảo
trong giấc mộng, nên Giới Hiền đãi
Pháp sư vô cùng cung kính và chuyên cần dạy giáo pháp cho Ngài. Lại một
giấc mộng khác cho ta thấy rõ ràng tất cả những
đi lại của Pháp sư
đều đã
được tiền
định. Khi trở về Nàlandà, Ngài yêu
cầu Pháp sư Giới Hiền giảng Du-già Sư-địa-luận
cho Ngài và những người khác. Buối thuyết pháp vừa bắt
đầu thì một người Bà-la-môn
đến tu viện vừa cười vừa khóc. Khi
hỏi vì sao lại làm thế, ông ta trả lời rằng ông ta là một người dân xứ
Đông Ấn. Một ngày kia ông ta cầu
nguyện trước tượng Quan Âm Bồ tát trên núi Potalaka
để xin
được tái sinh làm một vì vua. Bồ tát hiện ra trước ông và trách
cứ ông về lòng ham muốn để trở thành
vua. Bồ tát khuyên ông hãy đi nghe
những buổi thuyết pháp của Giới Hiền Pháp sư giảng về Du già Sư
địa luận cho một vị sư Trung Hoa
để ông có thể thấy Phật. Bây giờ ông
đã thấy Pháp sư nên biết rằng giấc
mộng đã thành sự thật. Bởi thế ông
ta vừa ngạc nhiên vừa sung sướng.
Đến
đây, chúng ta chỉ mới nói đến
những giấc mộng báo hiệu sự có mặt của Pháp sư trước khi Ngài
đến thật, nhưng một
đôi khi giấc mộng cũng gợi cho Pháp
sư nên hành động như thế nào trong
tương lai. Khi Pháp sư học xong, Ngài còn phân vân chưa quyết
định nên trở về nước hay ở lại
đất Ấn. Một
đêm kia Ngài nằm mộng thấy chùa
Nàlandà bị hoang vắng, dơ bẩn, có một vài con trâu
đi quanh quẩn trong khu vực chùa.
Ngài thấy ở tầng gác thứ tư một bức tượng vàng có hào quang chiếu sáng
cả gian phòng. Pháp sư muốn đi lên
đấy nhưng bị tượng ấy cản trở bảo
rằng ông là Văn Thù Bồ tát và Pháp
sư không thể lên được vì nghiệp lực
nặng nề. Đoạn Bồ tát chỉ ra ngoài
chùa, Pháp sư nhìn theo thì thấy tất cả các khu làng và thành thị ở
ngoài tu viện đều bốc cháy. Tượng
vàng khuyên Ngài nên trở về Trung Quốc vì sau khi vua Giới Nhật băng
hà, Ấn Độ sẽ lâm vào nạn
đói kém bất an và những người tâm
địa xấu có thể hại Ngài. Pháp sư
hiểu được
điềm báo và lời khuyên trong giấc
mộng ấy nên Ngài quyết định trở về.
Khi Ngài trở về Trung Quốc, những giấc mộng vẫn còn biểu hiện
để khuyên Ngài
đi theo những phương thức hành
động tốt
đẹp nhất. Vào ngày 1 tháng Giêng mùa
Xuân năm thứ năm
(660 Tây lịch), Ngài khởi dịch bộ Đại
Bát-nhã. Công việc này quá vĩ đại
đến nỗi Pháp sư suýt theo lời khuyên
các đồ
đệ, dịch tóm tắt lại như Ngài Cưu-ma-la-thập
đã làm, bỏ
đi những
đoạn lập lại và những
đoạn vô vị. Nhưng
đêm đến
Ngài nằm mộng thấy bị thú dữ vây trong khi
đang cố leo một đỉnh núi hiểm
trở. Ngài cố thoát khỏi nanh vuốt của những con thú dữ. Pháp sư cho
đó là điềm
báo không được dịch kinh vắn tắt
lại. Bởi thế Ngài quyết định dịch
toàn bộ kinh y như nguyên bản Phạn ngữ, không tóm tắt. Ngay
đêm ấy nhiều
đức Phật và Bồ tát hiện ra trước mặt
Ngài trong giấc mộng. Chư vị ấy tỏa hào quang từ lông mày chiếu sáng cả
người Ngài và Ngài cảm thấy vô cùng dễ chịu hân hoan. Pháp sư cũng nằm
mộng thấy rằng Ngài dâng hoa và đèn
cho chư Phật, giảng pháp cho dân chúng và
được họ tán thán ca ngợi, cúng dường hoa trái thơm ngọt. Pháp sư
tỉnh dậy sung sướng và quyết định
dịch toàn bộ Đại Bát nhã.
Sự viên tịch của Pháp sư cũng được
báo trước bằng những giấc chiêm bao đầy
ý nghĩa. Vào ngày 8-1 mùa Xuân niên hiệu Lân
Đức (664 Tây lịch),
đồ đệ
của Ngài là Huyền Giác, một vị sư ở Cao Xương nằm mộng thấy một ngôi
chùa cao lớn vĩ đại bỗng nhiên sụp
đổ. Pháp sư khi nghe về giấc mộng
hiểu ngay rằng ấy là điềm mình sắp
chết. Vào ngày 16, Ngài thấy một đóa
sen trắng rất lớn tinh khiết và đẹp
đẽ hiện ra trước mắt. Vào ngày 17,
Ngài nằm mộng thấy hàng trăm ngàn
người cao lớn mặc lụa là đi
đến trang hoàng phòng ngủ và tu viện
của Ngài bằng những gấm vóc, hoa và châu ngọc.
Âm nhạc trỗi lên trong không gian. Những
đồi núi và rừng ở sau tu viện được
trang hoàng bằng cờ ngũ sắc và lọng. Nhiều xe quý chở
đầy thức
ăn mỹ vị và trái ngon ngọt dừng lại
trước cổng tu viện. Tất cả thức ăn
ấy được mang
đến cúng dường Pháp sư. Mặc dầu Ngài
từ chối, phẩm vật được
đưa đến
dâng cúng không ngừng. Khi tỉnh dậy, Ngài cảm thấy rất sảng khoái và bảo
thầy trụ trì Huệ Đức của tu viện
rằng tất cả hành động tốt
đẹp trong
đời Ngài
đã không phải là vô hiệu quả, như
vậy chứng tỏ rằng luật nhân quả của Phật giáo không sai. Vị trụ trì cũng
nằm mộng thấy rằng 1.000 vị thần sắc vàng
đến tu viện từ hướng Đông với
nhiều hoa thơm rải khắp không trung.
Ngày Pháp sư ra đời, những giấc
mơ đã báo trước sứ mạng của Ngài ở
trong đời và sự thành công mỹ mãn.
Bây giờ, lúc lâm chung, những giấc mơ lại hiện ra
để báo trước ngài sắp từ trần.
Sự thần bí rõ rệt này trong đời
Pháp sư đã khiến nhiều học giả phê
bình. S.J. Barthelemy Saint Hilaire chẳng hạn, trong cuốn sách nhan
đề là "Huyền Trang ở Ấn" viết:
"Nhưng về sự sùng bái và những giáo phái khác nhau, Pháp sư thường cho
nhiều chi tiết làm cho chúng ta rất chú ý, mặc dầu sự ngây ngô của chúng
một đôi khi có thể làm cho ta khinh
thường."
Nói về Huyền Trang đến viếng
đô thị Phật
Đảnh Cốt, và việc Ngài
đã xay bột hương
để in hình xương sọ Phật, Saint
Hilaire có những nhận xét sau đây:
"Chúng ta có thể giả thuyết rằng trong cuộc phiêu lưu
đầu tiên này, Huyền Trang
đã bị một vố lừa bịp nào
đó, nhưng hành
động sau thì lại càng phức tạp và
phi thường hơn."
Và khi Saint Hilaire kể xong chuyện Huyền Trang
đến viếng bóng
đức Phật, ông ta không khỏi thêm
những giòng sau đây: "Về tất cả
những sự hiển hiện ấy, nhà chêm bái một lần nữa lại bị một tên bịp bợm
nào đó lường gạt, và có lẽ chính ông
đã tự
đánh lừa mình...."
Điều phê phán này theo tôi nghĩ
dường như rất bất công đối với Pháp
sư và đã tỏ ra thiếu
đi sâu vào nhân cách cùng tâm lý của
Ngài.
Trước hết, Pháp sư sẵn có một lòng tin tiềm tàng ở tính bản thiện và
chất phác của con người, nếu không, Ngài không bao giờ mơ
đến một cuộc hành trình chiêm bái
phiêu lưu như thế. Bởi vì, nếu có một nghi ngờ nào ẩn náu trong tâm tư,
Ngài sẽ bị hoài nghi và bất an vây phủ, như thế sẽ nguy hại
đến lòng nhiệt thành và nghị lực của
Ngài. Hơn nữa với lòng tin tưởng ở bản tính thiện của loài người, Huyền
Trang không bao giờ gán cho một người nào Ngài gặp là có
động lực xấu xa. Kẻ cướp, kẻ lừa bịp
bất lương trước mắt Ngài cũng chỉ là người, và
đã là người thì họ không thể bị
ngược đãi như là những tội nhân.
Trên đường
đi đến
đãnh lễ bóng của
đức Phật, Pháp sư
đã bị những tên cướp lại gần hỏi
Ngài có sợ chúng không, Pháp sư đáp:
"Kẻ cướp cũng là người vậy. Nay vì đi
chiêm bái Phật dù có thú dữ đầy
đường ta cũng không sợ, huống nữa là
các người, hỡi các môn đồ vì các
ngươi rốt cuộc cũng chỉ là người." Một tư cách như thế sẽ làm cho chúng
ta kính phục hơn là khinh thị.
Chúng ta cũng nên hiểu rằng ta không thể phê phán một thiên tài như
Huyền Trang với khả năng hạn hữu của
chúng ta. Người ta có lừa bịp và dối trá đối
với Ngài, nhưng không có hiệu quả. Trái lại sự chân thành, nghị lực và
sức mạnh tâm linh của Ngài có thể biến sự dối trá thành sự thật và biến
đổi ảo tưởng thành ra sự thật. Chúng
ta cũng nên nhắc lại ở đây câu
chuyện thí dụ tả những khí giới mà ma vương
đã ném đến
đức Phật dưới cội Bồ
đề. Tất cả khí giới nguy hiểm ấy
đã biến thành hoa và bay xuống quanh
đức Phật một cách vô hại. như vậy ta
cũng không lạ khi thấy nhiều biến cố mà Pháp sư
đã gặp phải xuất hiện như những phép
mầu hay những "trò bịp bợm" đối với
một vài người, tuy nhiên đối với
pháp sư chúng lại hoàn toàn tự nhiên và thực hữu. Một
điều nữa chúng ta nên nhớ là sự chân
thành và trung thực của Pháp sư thì vô địch
mà về vấn đề này thì không ai chối
cãi.
IX. NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG VÀ SỰ VIÊN TỊCH CỦA PHÁP SƯ
Khi dịch xong 600 quyển Đại
Bát-nhã, Pháp sư cảm thấy cái chết gần kề và quyết
định không dịch thêm gì nữa. Ngài
bảo các môn đệ rằng sau khi Ngài
viên tịch, đám táng nên cử hành
đơn giản, nhục thể của Ngài nên gói
trong một chiếc chiếu tre thô sơ và chôn vùi trong một góc núi xa xôi
nào, nhưng chớ gần chùa hay gần cung điện.
Những môn đệ chủa Ngài
đều khóc trách Ngài
đã ám chỉ sự chết chóc như thế trong
khi Ngài trông còn vẻ mạnh khỏe và đầy
nhuệ khí. Pháp sư chỉ trả lời rằng Ngài tự biết mình.
Vào ngày 1-1 mùa xuân niên hiệu Lân Đức
nguyên niên (năm 664 Tây lịch) Pháp
sư cố dịch bộ kinh Đại Bảo tích theo
lời thỉnh cầu của các môn đệ, nhưng
khi vừa dịch được vài hàng, Ngài
buông bút, vì rõ Ngài sẽ chết trước khi hoàn tất dịch phẩm. Ngài có ý
định viếng thung lũng Lan Chi cùng
những nơi khác và đi chiêm bái lần
cuối cùng 10 Koti (cu-chi: tượng Phật). Sau khi
đã đảnh
lễ các đức Phật, Ngài trở lại tu
viện, đình chỉ việc phiên dịch và
chuyên tâm vào việc tu tập thiền quán.
Vào ngày 8, một trong những đồ
đệ của Ngài tên là Huyền Giác nằm
mộng thấy ngôi chùa cao lớn đồ sộ bị
sập đổ. Pháp sư nghe kể gíâc mộng
này thì biết ngay đấy là
điềm báo Ngài sắp chết. Ba ngày sau,
khi băng qua một cái hố Pháp sư ngã
quỵ và xương ống bị thương tích. Ngài bị ốm, sức khỏe bắt
đầu suy giảm.
Vào ngày 16 và 17, ngài nằm thấy hai điềm
chiêm bao: một hoa sen lớn trắng mướt xuất hiện và hàng nghìn người
đi đến
tu viện trong những cỗ xe, mang theo thức ăn
và phẩm vật cúng Ngài. Khi tỉnh dậy Ngài cảm thấy sung sướng và bảo vị
trụ trì Huệ Đức rằng những giấc mộng
ấy chỉ rõ luật nhân quả nhà Phật rất đúng
đắn. Đoạn
Pháp sư nhờ tỳ kheo Gia Thương ghi tất cả các việc thiện mà Pháp sư
đã làm trong
đời. Bảng liệt kê cho thấy Ngài
đã dịch 74 bộ kinh và luận gồm 1.335
quyển. Ngài đã sơn phết tô vẽ 1.000
bóng Phật, 1.000 tượng đức Di Lặc
cùng với 1 triệu tượng Phật. Ngài đã
sao chép bộ Năng
đoạn Kim Cang bát nhà, bộ Dược sư,
bộ Lục môn Đà-la-ni và vài bộ kinh
khác, mỗi bộ chép thành một ngàn quyển. Ngài
đã cúng dường cho hơn mười ngàn vị tăng
và sinh vật. Ngài lắng nghe đọc bảng
liệt kê các việc thiện đã làm và
chắp tay sung sướng. Đoạn Ngài bảo tăng
chúng nhóm họp lại trong phòng. Ngài phân phát tất cả tăng
phục của Ngài và cúng tiền để làm
thêm tượng Phật và mời tăng chúng dữ
lễ. Vào ngày 23, Ngài cúng dường trai tăng
cho tất cả tăng chúng. Vào ngày ấy
Ngài nhờ một điêu khắc gia tên là
Tổng Pháp Trí tạc một tượng Phật trong thế ngồi lúc
đạt đạo
để ở trong tiền
đường gia Thọ. Khi tạc xong tượng
phật, Ngài từ biệt tăng chúng và
những người cộng sự với Ngài trong việc phiên dịch, với một tâm trạng
hân hoan, Ngài nói: "Nhục thân độc
địa này của Huyền Trang thật
đáng nhàm chán. Nay công việc
đã xong, tôi quả không nên lưu lại ở
đây nữa. Tôi xin hồi hướng tất cả
công đức và tri thức của tôi cho tất
cả chúng sanh, cầu mong tất cả chúng ta sẽ
được sinh lên cõi trời Đâu
Suất theo học Bồ tát Di Lặc và phụng sự Ngài. Khi
đức Phật lại xuống trần, chúng ta
cầu mong sẽ được xuống lại cùng với
Ngài để tiến hành Phật sự cho
đến khi chúng ta
đạt được
mục đích tối thượng."
Sau khi nói lời từ biệt ấy, Pháp sư lại thiền
định. Đoạn
Ngài tụng niệm những đoạn về lý chơn
không, không của ngũ uẩn, không của 18 giới, không của 12 nhân duyên
trong lý duyên khởi từ vô minh đến
lão tử, không của sự chứng ngộ và không của ngay cả cái không.
Đoạn ngài
đọc lên một bài kệ tán Phật Di Lặc
và lập nguyện được tái sinh lên cõi
trời Đâu Suất [Đạo
gia gọi chỗ Thái Thượng lão quân ở là
Đâu Suất Thiên. (BT)]. Ngay lúc
ấy hai biến cố mầu nhiệm đã xảy ra.
Vị trụ trì Huệ Đức nằm mộng thấy một
nghìn hình tượng từ phương Đông
đi đến
và đi vào trong phòng phiên dịch,
không khí tỏa đầy hương thơm. Vào
nửa đêm ngày 4 tháng 2 một vị sư
điều dưỡng tên là Minh Tạng mộng
thấy hai người cao lớn chừng một trượng cầm một hoa sen trắng lớn bằng
bánh xe, đóa hoa có ba lớp cành và
một ngọn lá dài hơn 2 tấc tây rất tinh khiết
đẹp đẽ.
Hai người đến gần Pháp sư và bảo
rằng tất cả nghiệp xấu Ngài đã làm
đối với chúng sanh vô thỉ, nay
đã tiêu diệt nhờ cơn bệnh nhẹ ngài
đang chịu
đựng. Vậy thì Ngài nên vui mừng về
điều đó.
Pháp sư chắp tay nhìn họ một lúc lâu. Đoạn
Ngài để tay phải chống lên má, tay
trái để trên về phía tả, duỗi chân
ra chồng lên nhau và nằm xuống phía hữu. Ngài sắp từ trần, Ngài không cử
động cũng không
ăn uống gì.
Vào nửa đêm ngày thứ năm,
đồ đệ
của Ngài là Phổ Quang và những người khác
đến hỏi: "Thầy có chắc được
tái sinh lên cõi trời Đâu Suất
không?" Pháp sư trả lời: "Chắc chắn như vậy." Nói xong, hơi thở Ngài yếu
dần và Ngài tịch một cách bình an, đến
ngay những người hầu cận cũng không biết. Sau khi Ngài mất, nhục thể bắt
đầu lạnh từ chân lên
đến đỉnh.
Đầu Ngài còn nóng một lúc lâu. Da
của Ngài vẫn không đổi và nhục thân
không thoát ra mùi gì khó chịu.
Tin Pháp sư từ trần được chuyển
đến Hoàng
đế do viên quan lại sứ ở Phương Châu
tên là Đâu Sư Luân. Khi nhận
được tin buồn này, Hoàng
đế vô cùng bi ai, Ngài ngừng buổi
thiết triều và phán: "Trẫm đã mất
một quốc bảo."
Trong lúc ấy tất cả những viên chức quân sự cũng như dân sự không ngăn
nổi sự khóc thương và Hoàng đế phán:
"Trẫm tiếc thương quá không thể nào tự kềm chế
được."
Ngày hôm sau, Hoàng đế lại phán
với đình thần: "Thật vô cùng
đáng tiếc cho trẫm và quốc dân
đã mất
đi Pháp sư Huyền Trang. Chẳng khác nào như rường cột ngôi Tăng
bảo đã sụp
đổ và nay chúng sanh
đã mất
đi người hướng dẫn. Chẳng khác nào con thuyền
đã chìm trong bể khổ mênh mông, một
ngọn đèn
đã tắt
đi trong phòng đầy bóng tối."
Nói xong nhà vua thở dài não nuột.
Vào ngày 26 cùng tháng ấy Hoàng Đế
ra một chiếu chỉ: "Theo lời báo của Đâu
Sư Luân, Pháp sư Huyền Trang chùa Ngọc Hoa
đã viên tịch. Tất cả phí tổn tống táng sẽ do triều
đình đài
thọ.'
Vào ngày 6 tháng 3 lại ban một chiếu chỉ khác: "Pháp sư Huyền Trang
đã viên tịch. Việc phiên dịch kinh
sách phải đình chỉ. Những bản kinh
đã dịch sẽ cử những viên chức sao
chép lại như đã làm trước kia. Những
bản kinh chưa dịch phải được lưu trữ
tại chùa Từ Ân không được làm hư hại
hay mất mát. Những đồ
đệ và người cộng sự với Pháp sư
trong việc phiên dịch, ai không thuộc vào tu viện thì
được phép trở về chùa riêng."
Vào ngày 15 tháng 3, lại ra một chiếu chỉ khác như sau: "Vào ngày
tống táng cố Pháp sư Huyền Trang ở chùa Ngọc Hoa, những tăng
ni ở thủ đô sẽ
đựơc phép mang cờ lọng và
đưa linh cữu
đến nghĩa trang."
Những đồ
đệ theo lời di chúc của Ngài
đã làm một cái hòm bằng tre mang
nhục thể của thầy đến
đặt trong gian phòng phiên dịch ở
chùa Từ Ân. Hàng trăm
đồ đệ
của Ngài khóc thương thảm thiết và dân chúng trong thủ
đô vừa xuất gia vừa cư sĩ tụ tập lại
chùa để
đảnh lễ lần cuối cùng.
Vào ngày 14-4, lễ tống táng được
cử hành. Những tăng ni trong thủ
đô cùng với dân chúng mang năm
trăm cờ lọng, tràng phan bảo cái,
một áo quan bằng vàng, một cái hòm bạc, và những cây sa-la, tất cả
được trưng bày dọc
đường cái
để dự
đám rước. Nhạc điếu tang
được cử hành không ngớt và không
gian đầy những tiếng khóc bi thảm.
Dân chúng thủ đô và những người xung
quanh cách 500 lý ước có hơn một trăm
ngàn đến
đưa linh cữu. Mặc dù lễ tống táng
được chuẩn bị rất tráng lệ, quan tài
của Pháp sư cũng vẫn được mang
đi trong một áo quan bằng tre theo
lời ước nguyện cuối cùng của Ngài. Những người bán lụa ở phía
Đông đã
làm một cái áo quan niết bàn bằng ba ngàn cuộn và kết hoa
đẹp đẽ
để đặt
quan tài của Pháp sư trên ấy, nhưng đồ
đệ của Ngài không dùng
đến vì sợ
đi trái với di chúc. Họ
đặt ba bộ tăng
phục của Pháp sư và một bộ khác đáng
giá một trăm
đồng tiền vàng do triều
đình cúng lên trên áo quan lộng lẫy
kia trong khi quan tài của Pháp theo sau và
được đặt trên áo quan bằng
tre bện. Những người chứng kiến đám
rước ấy không cầm đươc nước mắt.
Đêm ấy hơn ba chục ngàn người ở lại
nơi nghĩa địa.
Vào ngày thứ 15 sau khi tống táng, một buổi lễ
được cử hành ở nghĩa
địa trước khi mọi người ra về. Lúc
ấy, trời và đất
đổi sắc, chim muông kêu tiếng bi ai.
Cả muông thú cũng còn động lòng
huống nữa là người !
Chúng thương khóc vì con thuyền từ đã
chìm trong khi bể dục vọng vẫn còn tràn ngập, ánh sáng trí tuệ
đã tắt trong khi
đêm vô tận chìm trong bóng tối.
- [HẾT]-
---o0o---
|
Phần 1 |
Phần 2 |
Phần 3 |
Phần 4 |
Phần 5 | Phần 6