LỜI GIỚI THIỆU
Bản tiếng Anh quyển "Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar" này
đã in ở Ấn
Độ vào năm
1963 và năm 1966 tái bản ở Sài Gòn,
cùng với bản dịch tiếng Việt mang đầu
đề "Huyền Trang, Nhà chiêm bái và
Học giả".
Tập này mở đầu với diện mạo và
tác phong của Ngài và tiếp tục giới thiệu Huyền Trang là nhà chiêm bái,
nhà học giả, nhà hùng biện, nhà dịch thuật, nhà trước tác, nhà thần bí
và được kết luận với những ngày cuối
cùng của vị chiêm bái và học thuật vĩ đại
này. Đây là lần
đầu tiên, Ngài Huyền Trang
được diễn tả dựa trên những dữ kiện
lịch sử, y theo quyển Tây Vức Ký của Ngài Biện Cơ, và quyển "Đại
Từ Ân Tự Tam Tạng Pháp Sư truyện" của Ngài Huệ Lập. Những sự tích thần
thoại hoang đường như trong chuyện
Tây du sẽ không có ở trong tập này, nhưng không phải vì vậy mà thân thế
cùng sự nghiệp của Ngài Huyền Trang kém phần hào hứng, linh
động và phi thường. Không những cuộc
chiêm bái của Ngài đã là phi thường,
cho đến học vấn, dịch thuật, hùng
biện, trước tác của Ngài đều rất hi
hữu, siêu việt và kỳ lạ hơn nữa là tâm tư thần bí của Ngài, một tâm tư
có một không hai trong lịch sử của những bậc thánh nhân.
Ở đây xin tán thán tài năng
dịch thuật của cô Trí Hải, đã biến
một vấn đề khô khan trở thành linh
động hào hứng. Giá trị dịch thuật
của cô, các độc giả chỉ cần so với
nguyên bản chữ Anh là đủ.
Sài Gòn, ngày 18 tháng 8 năm
1966
Tỷ kheo THÍCH MINH CHÂU
I.– DIỆN MẠO VÀ TÁC PHONG CỦA NGÀI
HUYỀN TRANG
Trích dịch quyển Huyền Trang, vị chiêm bái và học giả (Hsuan-Tsang,
The Pilgrim and the scholar) của Tỳ kheo THÍCH MINH CHÂU.
Ngài Huyền Trang đã
đến và
đã đi. Nhiều thế kỷ
đã trôi qua từ khi dáng
điệu uy nghi của Ngài tô
điểm cho cảnh trời Ấn
Độ và Trung Hoa, và từ khi chiếc
bóng đơn
độc của Ngài dấn mình trên những nẻo
đường chưa từng có dấu chân người,
những con đường nối liền hai cường
quốc Hoa-Ấn.
Nhưng dấu vết thời gian hình như không làm hao mòn kỷ niệm của Ngài;
và định luật vô thường như
đã không chịu in dấu tang thương
trên danh tiếng vĩ đại của nhà chiêm
bái kỳ diệu của thời quá khứ.
Thực vậy, đời Ngài và sự nghiệp
của Ngài không bao giờ không có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến những ai có dịp biết
đến chúng. Tác phong sáng ngời và
đức tánh siêu việt của Ngài, sự
nhiệt thành hăng hái của Ngài
để tìm hiểu và truyền bá chánh pháp
bao giờ cũng khiến chúng ta kính phục và khuyến khích chúng ta theo
gương Ngài để phụng sự chánh pháp.
1. Diện mạo và oai nghi
Không có gương sáng nào hơn là cử chỉ oai nghiêm và
đức tánh cao thượng của Ngài.
"Pháp sư cao hơn bảy thước xưa, da hồng hào, với lông mày rộng và cặp
mắt tươi sáng. Cử chỉ của Ngài tề chỉnh như pho tượng và
đẹp đẽ
như một họa phẩm. Tiếng nói của Ngài trong sáng vang xa, và Ngài lúc nào
cũng nói một cách thanh nhã và lịch sự khiến người nghe không bao giờ
nhàm chán. Khi Ngài ở trong đồ chúng
hay trong khi tiếp khách, Ngài ngồi thẳng không dao
động trong một thời gian khá lâu.
Ngài thường mặc bộ sắc phục Gandhara, bằng nỉ dạ, không quá rộng và vừa
vặn chững chạc. Ngài đi
đứng ung dung, khoan thai, luôn luôn
ngó thẳng, không nhìn qua một bên. Cử chỉ của Ngài như dòng sông lớn
chảy; và sáng sủa như đóa hoa sen nở
trên mặt nước."
Ngài có một người anh đã xuất gia
trước Ngài và được mọi người ở xứ
Thục khâm phục. Nhưng nói đến
đức tự tại của tâm tư không nhiễm
bụi trần; sự tìm hiểu chân lý huyền diệu, hoài bão khám phá những bí mật
của vũ trụ, ước vọng thực hiện lại những thành quả của tiền nhân; sự duy
trì các cổ tục và cải thiện các quan điểm
sai lầm; sự cố gắng nhiếp phục và vượt trên các
điều tầm thường, sự nhẫn nại qua các
nguy hiểm và khó khăn, không giảm
nhuệ khí, sự đảm nhận mọi trọng
trách, đức tự trọng...,
đối với những
đức tính này, người anh của Ngài
không thể hơn Ngài được.
2. Tánh tình cao thượng của Ngài
Ngay khi còn nhỏ, Ngài đã tỏ ra
tôn trọng những điều cao thượng. Khi
Ngài mới tám tuổi, phụ thân Ngài dạy Ngài quyển "Hiếu tử kinh" và khi
đến đoạn
Tăng Tử kính cẩn
đứng lên khi thọ giáo, Ngài Huyền
Trang cũng kính cẩn đứng lên khiến
cho phụ thân Ngài tán thán hoan hỷ và tìm thấy những mầm giống một
đời sống cao cả vĩ
đại của Ngài trong tương lai.
"Ngài mến cổ học, trọng hiền nhân, Ngài không
đọc những sách không thanh nhã, bất
chánh và không theo những tập tục mà các bậc thánh hiền tránh xa. Ngài
không giao du với bọn trẻ đồng lứa
và dạo chơi tại các chợ búa phố phường. Dầu cho có chuông trống ầm ĩ tại
các giao lộ, hay các cuộc múa hát tại các nẻo
đường, trong khi quần chúng tụ tập
để xem, Ngài cũng không rời khỏi chỗ
ngồi của Ngài. Dầu còn trẻ, Ngài cũng đã
biết điều hòa cảm tình trong thanh
tịnh và trang nhã."
3. Ngài giữ gìn giới luật
Như vậy, thật không có lạ khi Ngài xuất gia tu hành: "Ngài giữ giới
hạnh một mực tinh nghiêm; Ngài mến tiếc giới luật hơn cái phao cứu mạng
và gìn giữ giới luật kiên trì. Tánh của Ngài ưa tĩnh mịch, giản dị, ít
thích giao du. Mỗi khi Ngài vào đạo
trường thì chỉ có lệnh của triều đình
mời, Ngài mới ra khỏi phòng làm việc."
Vì Ngài theo Đại thừa nên giữ
hạnh ăn chay rất chân thành như câu
chuyện sau đây chứng tỏ. Khi Pháp sư
đến Cao Xương, vua nước ấy mời Ngài
dùng cơm trong cung và món ăn có ba
món tịnh nhục (tự mình không thấy, không nghe hay không nghi), Ngài từ
chối không dùng, và giải thích cho vua biết rằng theo Tiệm giáo thì có
thể dùng ba món tịnh nhục, nhưng theo Đại
thừa Đốn giáo thì nhất
định không cho. Rồi Ngài lựa các món
ăn khác mà dùng.
Khi Ngài vừa về đến Trung Hoa,
Hoàng đế nói chuyện với Ngài quá
thích thú, mê say đến nỗi mời Ngài
theo dự cuộc chinh phạt dẹp loạn để
cầu nguyện. Ngài kính cẩn chối từ và trong câu trả lời của Ngài, chúng
ta thấy rõ sự khôn khéo và sự giữ gìn giới luật:
"Bệ hạ trong cuộc chinh đông này
đã có sáu quan hộ tống. Phạt loạn
quốc giết tặc thần, nhất định Bệ hạ
sẽ thắng trận Mục Dã và chiến bại Côn Dương. Huyền Trang này tự biết
không giúp gì cho Bệ hạ trong cuộc chinh phạt này. Huyền Trang cảm thấy
tự tàm vì gây tổn phí không cần thiết và trở thành một gánh nặng vô ích.
Vả lại trong giới luật, các tu sĩ không được
xem chiến trận và duyệt binh. Vì Đức
Như Lai đã có lời khuyên như thế,
Huyền Trang này không dám không tin cho Bệ hạ biết. Mong Bệ hạ mở lòng
từ bi, thật là đại hạnh cho Huyền
Trang này vậy."
4. Lòng Từ thiện
Thấm nhuần sự trong sạch của giới luật và thiết tha với lý tưởng Bồ
tát hạnh, Pháp sư không bao giờ quên thực hành hạnh bố thí khi có phương
tiện. Khi Ngài đến thành phố Phật
Đảnh Cốt, sau khi cúng dường Xá lỵ,
Ngài đem cúng cho ngôi chùa năm
mươi đồng tiền vàng, một ngàn
đồng tiền bạc, bốn cuộn vải rất
đẹp, hai cuộn vải lụa và hai bộ tăng
phục.
Tại thành phố Phật-để (Pukalavati)
tất cả vàng, bạc, lụa, y áo mà vua Cao Xương (Khotan) cúng cho Ngài,
Ngài đem bố thí và phân phát rộng
rãi cho những đại tháp và những ngôi
chùa Ngài đến viếng.
Khi Ngài từ giã thành La-la-tăng-ha (Narasimha),
Ngài và các bạn đồng hành bị
cướp tất cả áo quần và tiền bạc. Khi Ngài
được cứu thoát, có hơn hai trăm
người đến quy y và cúng cho Ngài mỗi
người một tấm vải nỉ dạ và đồ
ăn. Pháp sư phân phát các tấm vải nỉ
ấy cho các bạn đồng hành vừa
đủ để
làm vài bộ áo. Số vải còn lại, Ngài cúng năm
tấm cho vị Pháp sư già tại đấy.
Khi Ngài về đến nước Trung Hoa,
Hoàng Đế và nhiều người thỉnh thoảng
cúng dường cho Ngài hơn mười ngàn cuộn lụa, gấm và hàng trăm
bộ tăng phục. Ngài
đem dùng tất cả
để thiết lập chùa chiền, làm lợi ích
quốc gia, hoặc để
đắp các tượng Phật, hoặc
để đem
cúng cho các vị khách Bà-la-môn ngoại quốc, hoặc
đem phân phát cho kẻ nghèo
đói khốn cùng. Ngài không bao giờ
cất chứa bất cứ vật gì, và những gì cúng dường cho Ngài, Ngài liền
đem phân phát cho kẻ khác. Trước khi
lâm chung, Ngài kiểm điểm lại những
việc thiện trong đời Ngài
đã làm, và Ngài sung sướng nhận thấy
Ngài đã cúng dường và bố thí cho hơn
10 ngàn vị tỳ kheo và hơn 10 ngàn kẻ nghèo
đói. Cử chỉ của Ngài trước khi từ trần cũng
đã là một cử chỉ bố thí. Ngài cho
họp tất cả các vị tu hành chung quanh giường bệnh và phân phát cho chúng
tăng tất cả những của cải riêng của
Ngài.
5. Tinh thần Khổng Mạnh của Ngài Huyền Trang
Được nuôi dưỡng từ tuổi thơ ấu
trong một bầu không khí Khổng giáo và nhờ sự hiếu học thâm nho của phụ
thân khích lệ, Pháp sư thấm nhuần những triết lý của Khổng giáo. Dầu
Ngài hết sức tin tưởng Tam Bảo và hoàn toàn thông suốt ba tạng kinh
điển, Ngài vẫn tin và hành theo một
vài đạo lý chính của Khổng Mạnh
trong suốt đời Ngài.
Trung thành với đạo hiếu, Pháp sư
không bao giờ quên bổn phận đối với
song thân. Dầu hai vị này mệnh chung đã
lâu, khi Ngài trở về nước Trung Hoa và sau khi sự phiên dịch kinh
điển bắt
đầu, Ngài
đến thăm
mộ phần của song thân. Với sự phê chuẩn của Hoàng
Đế, lễ di hài cốt
được cử hành tại Lạc Dương trước sự
hiện diện của hơn 10 ngàn người, cả tu sĩ và cư sĩ. Và trong lá
đơn đệ
lên Hoàng đế
để xin cải táng, chúng ta thấy rõ
hiếu đạo của Ngài:
"... Bất hạnh không được phước
trời che chở, Huyền Trang này bị mất song thân khi còn thơ ấu. Nhân gặp
thời nước Tùy ly loạn, việc chôn cất vội vàng không
đuợc châu
đáo. Ngày tháng trôi qua
đã bốn mươi năm
rồi và nay phần mộ bị hư hại khá nhiều. Nghĩ
đến những ngày quá khứ, lòng dạ nao
nao không được tự an. Với người chị
già, Huyền Trang này đã dời thi hài
từ chỗ phần mộ cũ đem cải táng tại
Tây Nguyên để báo
đáp ơn sâu của song thân..."
Một câu chuyện nữa trong đời Ngài
Huyền Trang chứng tỏ Ngài đã gìn giữ
tinh thần Khổng Mạnh đến thế nào,
dầu Ngài hết sức tin tưởng đạo Phật
Ấn Độ. Các vị sư Ấn
Độ thấy Ngài sắm sửa hành lý về nước
và đã xem Ngài như người
đồng hương, khuyên Ngài nên ở lại Ấn
Độ và nói rằng:
"Ấn Độ là chỗ
đản sanh của
đức Phật. Dầu cho vị
Đại thánh không còn nữa, nhưng di
tích của Ngài vẫn còn tồn tại. Đi
vòng quanh trong nước và chiêm bái những Thánh tích ấy cũng
đủ làm thỏa chí bình sanh. Nay Pháp
sư đã
đến đây thì còn về làm gì?
Hơn nữa Trung Quốc là một nước biên địa,
con người bị khinh rẻ và đạo pháp bị
chê bai. Do vậy các đức Phật không
sanh tại chỗ ấy. Vì con người ở nước ấy ý chí hẹp hòi và thâm tâm ô uế
nên các bậc Thánh không ai đi qua
nơi ấy. Thời tiết thì lạnh lẽo, núi non lại hiểm trở, như vậy thiết
tưởng cũng không đủ
để Pháp sư suy nghĩ hay sao?"
Câu trả lời của Ngài Huyền Trang trước tiên là một sự phản kháng, lấy
danh nghĩa lòng từ trong đạo Phật:
"Khi đấng Pháp vương lập giáo,
Ngài muốn đạo lý Ngài lưu
động. Nay tâm tôi
đã được
thấm nhuần vị đạo, lẽ nào tôi lại bỏ
quên những ai chưa được ngộ
đạo hay sao?"
Và câu trả lời tiếp của Ngài phản ảnh sự tự hào và lòng ái quốc:
"Hơn nữa nước ấy (Trung Hoa) có nhiều cổ tục
đáng kính và pháp
độ đáng
theo. Vua hiền, tôi trung, cha từ, con hiếu. Nhơn nghĩa
được tôn quý, niên lão,
đức độ
được tôn sùng.
Lại nữa họ thấu triệt lẽ huyền vi và trí tuệ có thể sánh bằng tiên
thánh. Họ thể nhập với thiên thần và hành
động đúng với phép tắc. Bảy
loại ánh sáng của mặt trời không thể lấn át
được sự rực rỡ của nền văn
hóa Trung Quốc. Họ khám phá ra nhạc khí và biết phân chia thời gian. Sáu
luật không thể lấn áp oai quyền của họ. Do vậy họ có thể nô dịch quần
thú và chế ngự quỷ thần. Họ biết điều
hòa âm dương và lợi dưỡng vạn vật."
Rồi Ngài Huyền Trang tán thán đạo
Phật ở Trung Hoa:
"Từ khi Di giáo đến Phương
Đông,
Đại Thừa được nhiệt thành tín
ngưỡng. Nước thiền định của họ vừa
trong vừa lặng, hương giới luật của họ ngát cả cõi Trời. Họ phát tâm
thực hành cho được Thập
địa đại
nguyện và tu hành chứng được Tam
thân. Các thánh nhân đã xuất hiện
để giảng pháp giáo hóa, khiến dân
chúng tai nghe được diệu ngữ, mắt
thấy được kim dung. Họ như chiếc xe
dấn mình trong cuộc hành trình ngàn dặm không ai có thể lường trước khả
năng như thế nào. Sao các Ngài có
thể khinh thường nước ấy, chỉ vì Đức
Phật không sanh tại chỗ."
Câu trả lời đầy khí phách hăng
hái ấy, thốt từ miệng Pháp sư sau một thời gian xa cách Trung Hoa khá
lâu, nêu rõ tinh thần ái quốc hùng mạnh của Ngài và chứng tỏ tinh thần
Khổng Mạnh mà Ngài đã thâm hiểu từ
thơ ấu.
6. Nghị lực sắt đá của Ngài Huyền
Trang
Nhưng sự tín thành của Ngài đối
với triết lý Khổng Mạnh chỉ là một phản ảnh lờ mờ, nếu sánh với một
đức tính khác, chính
đức tính này
đã chiếm
địa vị ưu thế trong
đời sống của Ngài và
đã là then chốt cho tất cả sự thành
công. Đức tính ấy là một ý chí kiên
trì như kim cương và một nghị lực sắt đá
trước mọi nguy hiểm và trở lực. Chính nghị lực sắt
đá này
đã nâng đỡ Ngài trong cuộc
chiêm bái đầy gian lao và giúp Ngài
thành tựu được sứ mệnh cao cả.
Khi Ngài đã phát nguyện Tây du
để cầu pháp và giải các nghi vấn thì
Ngài kiên trì giữ chí nguyện ấy, dù có trải qua trăm
cay nghìn đắng, Ngài cũng không bao
giờ đi sai chí hướng ấy.
Khi Ngài đã
đặt chân trên con
đường Tây du thì không một sức mạnh
nào ở trên đời, không một chướng
ngại vật thiên nhiên đáng sợ nào có
thể cản trở Ngài trên con đường hành
đạo. Hoàng
đế Trung Hoa ra một sắc lệnh cấm
Ngài không được
đi. Các bạn
đồng hành của Ngài lập tức rút lui
mau lẹ. Nhưng Pháp sư không nao núng bởi chướng ngại ấy, bí mật lên
đường một mình. Và sau khi
Đạo Lâm và
Đạo Chánh từ bỏ Ngài không dám
đi và sợ sự gian khổ của
đường trường, Ngài Huyền Trang lại
tự dấn bước một mình trên đường
đi chiêm bái, can
đảm đối
phó với hiu quạnh và hiểm nguy.
Trước khi qua cửa ải "Ngọc môn quan", Pháp sư
được một nhà lữ hành khuyên không
nên đi nữa, vì con
đường Tây du rất nguy hiểm,
đầy rẫy những ma quỷ và gió nóng,
biết bao bộ hành đã bỏ mình phơi
thây vì chúng rồi. Nhưng pháp sư trả lời: "Bần
đạo vì cầu
Đại pháp mà hướng Tây du. Nếu không
đến được
nước Bà-la-môn thì quyết không trở về phương
Đông. Dầu cho giữa
đường có mệnh hệ thế nào, bần
đạo cũng không bao giờ hối tiếc."
Chính sự quả quyết và tín thành của Ngài
đã khiến cho nhà lữ hành lão thành này giúp Ngài qua cửa ải Ngọc
môn quan. Lại nữa khi Ngài đi
đến sa mạc Mạc-hạ-diên, rộng
đến hơn 800 lý và trong khoảng
đường dài thăm
thẳm ấy, không có một con chim bay trên trời, không một con thú nào chạy
dưới đất, một mình Ngài Huyền Trang
bước từng bước một, cô độc một bóng
một thân. Sau khi đi
được 100 dặm, Ngài lạc
đường. Ngài mở bị nước
để uống không ngờ sẩy tay làm tất cả
nước uống phòng bị dự trữ để giúp
Ngài qua bãi sa mạc này đều bị
đổ xuống hết sạch. Khi ấy Ngài quá
chán nản, thất vọng và định lui bước
trở về. Nhưng khi Ngài lui về được
trăm dặm, Ngài tự trách rằng:
"Trước kia ta thề không lui một bước hướng
Đông nếu ta chưa
đến được
cõi Diêm Phù Đề. Sao nay ta lại làm
như vậy? Ta thà đến
được Tây Vức mà chịu chết còn hơn
trở về Đông
độ mà
được sống." (C:3b, 18).
Nói vậy, Ngài liền trở lui và hướng phía tây bắc mà tiến, chống chỏi
với bãi sa mạc mênh mông, dưới ánh mặt trời thiêu cháy và không còn một
giọt nước vào miệng. Bốn ngày và bốn đêm,
Ngài kiên nhẫn tiến bước, trong khi ấy ban ngày thì cuồng phong nổi dậy
chôn Ngài dưới mưa rào cát nóng và ban đêm
thì ma quỷ lấp lánh chói sáng như sao giữa trời. Trước những
đợt tấn công
độc ác nguy hiểm ấy, tâm Ngài vẫn
bình tĩnh, không sợ hãi. Nhưng Ngài khốn khổ nhiều vì thiếu nước uống.
Trải bốn đêm và năm
ngày không có lấy một giọt nước thấm ướt cổ họng khát bỏng của Ngài.
cuối cùng không thể nào cất bước được
nữa, Ngài ngã quỵ xuống đất và niệm
danh hiệu Đức Quán Thế Âm. May thay
cho Ngài, giữa đêm ngày thứ năm
một luồng gió mát thổi lên và thấm nhuần tay chân ngài. Ngài cảm thấy
tươi tỉnh lại, như vừa được tắm nước
lạnh mát. Thế là Ngài được cứu sống
bởi phép lạ và Ngài lại hăng hái lên
đường.
Nếu núi tuyết lạnh buốt và sa mạc nóng cháy không làm trở ngại
được cuộc Tây du của Ngài, thời danh
vọng chức tước cũng không làm Ngài bỏ dở cuộc chiêm bái. Khi Ngài
đến nước Cao Xương, vua nước ấy tiếp
đón ngài rất ân cần và chiêu
đãi Ngài rất nồng hậu. Sắp
đến ngày Pháp sư
định lên
đường, vua ân cần thỉnh Ngài ở lại
Cao Xương để vua có thể suốt
đời cúng dường và thỉnh Ngài truyền
bá Phật pháp tại nước ấy. Mặc dầu vua Cao Xương khẩn cầu, Ngài nhất
định không chịu nhận lời của vua,
vua liền tức giận và nói lớn tiếng:
"Đệ tử có cách khác
đối xử với Pháp sư. Làm sao Pháp sư
có thể đi một mình. Một là Pháp sư
quyết định ở lại
đây, hai là
đệ tử sẽ
đưa Pháp sư về nước. Mong Pháp sư
hãy suy nghĩ kỹ và thuận theo lời yêu cầu của
đệ tử thì phải hơn." (C: 4b, 4-5)
Pháp sư không nao núng trả lời rằng:
"Huyền Trang này đến
đây chỉ vì thỉnh cầu chánh pháp nay
gặp phải chướng ngại này, Bệ hạ chỉ có thể giữ lại da xương của bần
đạo, chớ thần thức của Huyền Trang
này sẽ được giải thoát vượt khỏi tất
cả chướng ngại." (C: 8a, 9)
Vua Cao Xương không chịu thay đổi
thái độ, khi ấy Pháp sư liền nhịn
đói đến
ba ngày cho đến một giọt nuớc cũng
không uống. Đến ngày thứ tư vua thấy
hơi thở của Ngài yếu dần. Sợ hãi và tự hối cử chỉ của mình, vua yêu cầu
Pháp sư đừng nhịn
ăn nữa và vua hứa sẽ không làm trở
ngại cuộc chiêm bái của Ngài. Như vậy một lần nữa, chí cương quyết sắt
đá không thối chuyển của ngài
đã phá tan tất cả chướng ngại
đã ngăn
đón Ngài trên con
đường tiến
đến đất
Phật. Nếu những trở ngại thiên nhiên và sự cám dỗ ở thế gian
đã không làm cùn
được ý chí của Ngài, sự
đụng độ
của Ngài với bọn cướp chỉ là một việc rất tầm thường
đối với Ngài.
7. Tính ôn hòa và trầm tĩnh trước mọi hiểm nguy và cái chết.
Trên đường,
đến thành phố Nhiên
Đăng (Dipankara)
để viếng thăm
bóng Phật trong một cái động cách
thành phố 3 dặm, có 5 tên cướp đã
lại gần Ngài, võ trang bằng dao găm.
Chúng hỏi Ngài có sợ chúng không, Ngài trả lời:
-- Kẻ cướp cũng là người. Vì việc đi
chiêm bái đất Phật, dù cho thú dữ
đầy đường
ta cũng không sợ huống nữa các ngươi chỉ là người, hỡi các môn
đệ!
Sự trả lời của Ngài làm bọn cướp bỏ vũ khí và
đi theo Ngài
để chiêm ngưỡng bóng Phật. Sau cuộc
hành hương này, bọn cướp đã phá hủy
khí giới của chúng, theo lời dạy của Ngài và trở về
đời sống lương thiện.
Cuộc đụng
độ thứ hai của Ngài với bọn cướp cho
ta rõ được ôn hòa và trầm tĩnh của
Ngài trước hiểm nguy. Khi Ngài rời đô
thị Na-La-Tăng-Ha (Narasimba), tới
một khu rừng lớn ở phía đông, Ngài
gặp một toán cướp chừng 50 đứa.
Chúng lột hết quần áo và tiền bạc của Ngài cùng những người
đi với Ngài rồi
đẩy mọi người xuống một cái ao
để giết hại tất cả. Ngài trốn thoát
với một chú tiểu và tìm cách để báo
tin dân làng hay việc này. Họ đến
cứu mọi người và đuổi bọn cướp. Tất
cả người đi với Ngài
đều khóc sướt mướt chỉ có mình Ngài
là mỉm cười, không tỏ chút gì đau
khổ. Những bạn đường hỏi tại sao
Ngài có thể mỉm cười một mình được,
khi tất cả mọi người đều bị cướp
quần áo, tiền bạc và có thể chết được,
Ngài bảo:
-- Trong cuộc đời, sự sống thật
quí giá, đời sống chúng ta
đã an toàn tại sao lại buồn rầu?
Nước chúng tôi có một câu cách ngôn "cái kho tàng quí nhất giữa trời và
đất là sự sống". Chúng ta còn sống,
kho tàng quí nhất mà chúng ta không mất, tại sao lại buồn trước sự mất
mát nhỏ mọn như áo quần, tiền bạc.
Đức trầm tĩnh và sự vô tư
đã làm cho những người
đi với Ngài phải khâm phục.
Nhưng kinh nghiệm lần thứ ba với bọn cướp thì nguy hiểm hơn nhiều, vì
lần này chúng chọn Ngài làm vật hi sinh cho nữ thần Durga
để làm dịu cơn thịnh nộ của vị thần
này. Ngài cùng 80 tùy tùng đi bằng
thuyền xuống Hằng Hà trên đường
đi đến
xứ Thiết Khẩu (Ayamukha). Họ bị bọn cướp vây quanh và lột hết áo quần
cùng đồ vật có giá trị. Vì bọn cướp
cần hi sinh một người để tế thần
Durga, chúng chọn Ngài vì ngài có một thân thể cường tráng và diện mạo
khôi ngô. Ngài bảo bọn chúng tha cho Ngài vì ngài
đến từ một nước rất xa
để chiêm báo cây bồ
đề, núi Linh Thứu và
để tìm kinh
điển. Nếu chúng giết Ngài chúng sẽ
gặp nhiều vận xấu, khi mục đích của
Ngài chưa đạt
được. Tất cả
đoàn tùy tùng của Ngài
đều kêu nài cho Ngài, một vài người
muốn chết thay cho Ngài nhưng bọn cướp vẫn cương quyết và Ngài bị dẫn
đến địa
điểm chúng
định giết Ngài làm vật hi sinh. Sắc
mặt của Ngài hoàn toàn không bối rối và lòng dũng cảm của Ngài làm bọn
cướp kinh sợ. Ngài bảo chúng đừng
giục Ngài quá để Ngài
được chết với lòng thanh thản và yên
vui. Rồi Ngài quán tưởng Di Lặc Bồ tát ở Niết bàn
Đâu Suất. Ngài ước sẽ
được tái sinh ở
đó để
chiêm ngưỡng đức Phật tương lai và
học Du-già Sư-địa-luận với
đức Phật. Ngài mong
được tái sinh
để truyền bá thiện pháp và sự an lạc
cho nhiều người. Rồi Ngài đảnh lễ
mười phương Phật và ngồi tham thiền. Sự thiền
định của ngài
đạt đến
mức mãnh liệt đến nỗi ngài cảm thấy
như đã lên chóp núi Tu Di (Sumeru)
tới miền Đâu Suất và gặp Di Lặc Bồ
tát đang ngự trị trên
đài sen bằng ngọc quí và chung quanh
là chư vị thánh thần. Lúc đó Ngài
quá phấn khởi đến nỗi Ngài không
biết đến cái chết gần bên. Còn các
tùy tùng của Ngài thì than khóc vang trời. Bỗng nhiên một trận bão cát
nổi lên làm bật gốc cây, lật thuyền bè và làm bọn cướp kinh hoàng. Chúng
thấy hiện tượng này là dấu hiệu tức giận của thánh thần phản
đối việc giết người của chúng. Vì
thế chúng thả Ngài ra và cầu xin Ngài tha tội cho chúng. Ngài khuyên
chúng đừng khờ dại mà chịu
đựng đau
khổ trong tương lai... Bọn cướp ném khí giới của chúng xuống sông, nhận
lời huấn giảng của Ngài và bỏ đi.
Một lần nữa đức trầm tĩnh và
điềm đạm
trước cái chết gần kề đã chinh phục
được sự hung dữ của kẻ cướp và làm
chúng trở nên những người lương thiện.
8. Lòng khát khao chánh pháp, chí học hỏi và sưu tầm kinh
điển.
Thái độ cao thượng và tính tình
tao nhã của Ngài Huyền Trang, phẩm hạnh độ
lượng và trong sạch của Ngài, trí giác cao siêu, bổn phận công dân và ý
chí không nao núng của Ngài, với tất cả đức
tính ấy suốt đời Ngài chỉ phụng sự
cho một mục đích: lòng khát khao
hiểu biết chánh pháp và phụng sự chánh đạo,
nghiên cứu và sưu tầm kinh điển.
Lòng khát khao chánh pháp của Như Lai trong tâm hồn quá trẻ của Ngài,
chính anh của Ngài là Trường Tiệt đã
khám phá và liền gửi Ngài vào chùa để
dạy Ngài kinh điển. Vì còn nhỏ chưa
có thể được thọ giới Tỳ kheo, Ngài
tự đến trước sứ giả của vua,
để trả lời vì sao Ngài muốn xuất gia:
"Tôi mong muốn phổ biến rộng rãi thông điệp
của đức Như Lai và
đốt cháy sáng các ngọn
đuốc học thuyết Ngài
để lại."
Kỳ vọng cao quí và sự đối
đáp tuyệt hảo của Ngài
đã làm cho vị sứ giả Hoàng gia cho
Ngài được phép trở thành một Tỳ kheo.
Ông hiểu rõ những đóng góp trọng
đại của Ngài về truyền bá Phật Pháp
trong tương lai. Và tương lai của Ngài đã
không làm thất vọng vị sứ giả triểu đình
này.
Ngài đến với Phật Pháp không phải
theo một lối mòn nẻo cũ, lại càng không phải với một thái
độ thụ
động, tiêu cực. Lòng hăng hái
nghiên cứu Phật pháp của Ngài đáng
trở thành khuôn mẫu và Ngài đã thăm
viếng tất cả các học giả danh tiếng về Phật Pháp ở Trung Hoa về thời ấy.
Ngài lắng nghe họ bình luận về Phật pháp và cân nhắc, suy nghĩ cặn kẽ
lời bình luận đó. Ngài nhận thấy ở
họ ít nhiều tính cách bè phái và những chủ nghĩa của họ không những chỉ
xung đột lẫn nhau mà còn mâu thuẫn
với kinh điển. Những
điều kỳ dị quá hiển nhiên này làm
Ngài thất vọng và lúng túng rất nhiều, vì thế Ngài nhất
định đi
về hướng tây để nghiên cứu Phật pháp
và tìm kiếm kinh điển
để giải tỏa mối nghi của Ngài và
giải quyết những thắc mắc. Một khi Ngài đã
định rõ mục
đích và lập lời thệ nguyện, Ngài
không bao giờ chuyển hướng trong suốt cuộc hành trình và cho mãi
đến ngày cuối cùng của
đời Ngài.
Khi Pháp sư đi
đến chòi canh thứ nhất trên con
đường hướng Tây du, Ngài bị lộ diện
và bị đưa
đến viên Hiệu úy của chòi canh tên
là Vương Tường, viên này khuyên Ngài hãy trở lại
Đôn Hoàng ở
đấy có nhiều tu sĩ và dân chúng sẽ
đón tiếp Ngài nồng hậu. Ngài
đáp lời, chỉ rõ mục
đích cuộc hành trình và ý chí cương
quyết của Ngài đối với mục
đích ấy:
"Bần đạo quê ở Lạc Dương, vốn có
lòng sùng đạo mãnh liệt từ thời thơ
ấu. Bần đạo
đã học hỏi giáo pháp với tất cả
những vị học giả uyên thâm danh tiếng của Phật giáo trong cả hai kinh
đô Tràng An và Lạc Dương và học với
những vị sư lỗi lạc ở Ngô Thục. Vì bần đạo
đã học hiểu thông suốt tất cả những
kiến thức của họ và có thể đối
đáp hùng biện trước bất cứ cuộc thảo
luận nào về Phật Pháp, bần đạo
đã được
tất cả mọi người ở đây
đều khâm phục nể vì. Nếu bần
đạo muốn thụ hưởng danh vọng và lợi
dưỡng cá nhân, thì Phật tử ở nơi nào cho bằng ở hai nơi nói trên,
đất Đôn
Hoàng làm sao bì kịp? Bần đạo chỉ
tiếc Thế Tôn không còn nữa, kinh điển
không được
đầy đủ
và ý nghĩa giáo lý không được giải
bày tường tận, cho nên bần đạo mới
lập nguyện Tây du để tìm tòi di pháp
mà không quản đến tính mạng cũng
không sợ gian nguy khó nhọc trên đường
hành hương. Nay chư vị đã không
khích lệ bần đạo tiến lên thì chớ,
lại còn khuyên nên lùi bước. Như vậy có giải thoát chúng ta ra khỏi vòng
sanh tử và cùng đạt
đến niết bàn
được không? Nếu bần
đạo phải bị giữ lại
đây, bần
đạo sẵn sàng chịu
đựng mọi thứ cực hình. Nhưng bần
đạo nhất quyết không
đi bước nào trở lại hướng
đông để
tự phản bội với lời nguyện của bần đạo."
Lại nữa, khi vua Cao Xương năn nỉ
Ngài bỏ cuộc Tây du ở lại nước mình để
truyền bá chánh pháp, Ngài đã trả
lời:
"Ý định của Bệ hạ thật cao cả
khiến bần đạo thấy tài hèn
đức kém không xứng
để thọ lãnh. Nhưng cuộc hành hương
của bần đạo không phải
để theo
đuổi mục đích thọ của bố thí
cúng dường. Bần đạo chỉ buồn vì ý
nghĩa Phật pháp không được sáng tỏ ở
Trung Quốc và kinh điển thiếu thốn.
Do nghi ngờ thắc mắc, bần đạo
đã khởi hành cuộc Tây du này
để tìm chân lý. Dù có phải nguy hiểm
đến tính mạng, bần
đạo quyết
đến Tây Vức
để tìm giáo
điểm chưa từng
được nghe; bần
đạo mong rằng kinh
điển của
Đại thừa giáo sẽ không chỉ giới hạn
trong thành Ca-Tỳ-La-Vệ mà còn bay xa đến
những xứ phương Đông. Lòng khát khao
của một Ba Luân đi tìm chân lý và
của một Thiện Tài đi tìm khách tri
âm đáng
được tăng cường, chớ
để nữa
đường tiêu tán. Dám mong Bệ hạ xét lại và
đừng lo âu nữa."
Lại trong bức thư cảm tạ gửi cho vua này, một lần nữa Ngài lập lại
mục đích của cuộc hành trình:
"Những lời di giáo của Đức Thế
Tôn đã truyền bá
Đông độ
trên hơn 600 năm. Ngài Ca Diếp Thắng
Hội đã thắp lên ngọn
đuốc chánh pháp ở Ngô Lạc còn Pháp
Hộ và La Thập thì làm cho nó tỏa rạng ở Tần và Lương. Công
đức của các Ngài
đã nêu gương cho hậu bối noi theo.
Vì các dịch giả gốc ở các nước xa xôi, cách trình bày và phát âm không
đồng nhất. Và cũng vì thời Thế Tôn
tại thế đã xa rồi, nên những lời
luận bàn giảng giải của họ về di giáo cũng khác nhau. Bởi thế giáo lý
độc nhất của Thế Tôn truyền dạy ngày
xưa dưới hàng cây Ta La Song Thọ đã
phân thành hai quan điểm thường còn
trong vị lai và hiện tại; và thuyết lý bất nhị của
Đại Thừa
đã bị chia thành hai phái Bắc Nam...
Hỗn độn và tranh chấp
đã lan tràn qua nhiều thế kỷ và khắp
xứ, người người đều rối loạn nghi
ngờ không có một ai để giải nghi cho
họ. Huyền Trang này may nhờ phước báo tiền kiếp,
đã được
sớm gia nhập đoàn thể Tăng
già và trong 20 năm
đã tham khảo và theo học nhiều thầy.
Huyền Trang này cũng đã học hỏi
nhiều bậc hiền nhân danh tiếng và nhiều bạn bè lỗi lạc, nên
đã khá quen thuộc với những lý tổng
quát của Đại thừa lẫn Tiểu thừa phái.
Nhưng mỗi khi bần đạo
đọc
được một bản kinh văn nào,
bần đạo lại thất vọng, hoang mang.
Bần đạo
đã từ lâu nuôi khát vọng hành hương Kỳ Viên và Linh Thứu,
để mong giải
được tất cả mọi mối nghi ám ảnh bần
đạo lâu nay..."
Cuối bức thư Ngài còn nguyện đi
viếng thăm tất cả những vị Pháp sư
để học hỏi giáo lý tối thượng,
để khi về nước, Ngài sẽ phiên dịch
sánh kinh và truyền bá những nghĩa lý chưa
được phổ biến, quét tan tà kiến và ngụy thuyết, tuyên dương chánh
pháp và làm một kim chỉ nam cho mọi người bước vào ngưỡng của chân lý...
---o0o---
|
Phần 1 |
Phần
2 |
Phần
3 |
Phần
4 |
Phần
5 | Phần
6