Huyền Trang - Nhà
Chiêm Bái và Học Giả
(Hsuan-Tsang, the
Pilgrim and Scholar)
Nguyên tác Anh ngữ:
Hòa Thượng Thích Minh Châu
Bản dịch Việt ngữ:
Ni sư Thích Nữ Trí Hải
Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam tái bản, 1989
---o0o---
Phần 04
VI. HUYỀN TRANG, NHÀ
DỊCH THUẬT
Nếu lúc ở Ấn Độ, hoạt
động chính của Pháp sư là học hỏi,
thuyết pháp, tranh biện và chiêm bái các thánh
địa, thì sau khi trở về Trung Quốc
cho đến ngày mất, Pháp sư
để phần lớn thì giờ vào việc dịch
các bản Phạn văn ra tiếng Trung Hoa.
Vì một trong những mục đích cuộc Tây
du của Ngài là sưu tầm các bản Phạn văn
quan trọng về phổ biến trong nước Trung Hoa, nên Ngài
đã mang về rất nhiều kinh Phạn văn
để dịch ra Hoa ngữ.
Ngài đến thủ
đô Trung Hoa vào năm
645 sau Tây lịch và từ năm này cho
đến khi từ trần, Ngài chuyên chú
dịch 75 tác phẩm ra thành 1335 tập. Sau khi hội kiến với Hoàng
đế Trung Hoa, Pháp sư dọn
đến ở chùa Hoằng Phước và chuẩn bị
mọi việc để khởi sự dịch 600 cuốn
kinh Phạn văn Ngài
đã mang về.
Vào ngày mồng một tháng ba, Pháp sư đến
chùa Hoằng Phước, và gợi lời thỉnh nguyển
đến viên quan Thượng thư Huyền Linh yêu cầu cung cấp những dịch
giả, nhà văn phạm, người tốc ký và
người biên chép để giúp Ngài trong
việc phiên dịch.
Vào ngày mồng 2 tháng 6, 12 vị sư danh tiếng
đến. Các vị này
đều tinh thông kinh
điển đại
thừa lẫn tiểu thừa và sẽ giúp Pháp sư phiên dịch. Những vị sư này tên là
Linh Nhuận và Văn Bị chùa Hoằng
Phước ở kinh đô, Tỳ-kheo Huệ Quý
chùa La Hán, Tỳ-kheo Minh Diễn chùa Thực Tế, Tỳ-kheo Pháp Tường chùa Bảo
Xương, Tỳ-kheo Phổ Hiền chùa Tinh Pháp, Tỳ-kheo
Đạo Thâm chùa Pháp Giảng ở Quách
Châu, Tỳ-kheo Huyền Trung chùa Diễn Giác ở Biện Châu, Tỳ-kheo Phổ Cú ở
Bồ Châu, Tỳ-kheo Kính Minh chùa Trấn Hưởng ở Miên Châu và Tỳ-kheo
Đạo Nhân chùa
Đa Bảo ở Ích Châu.
Ngoài những người cộng sự danh tiếng này, còn có chín nhà văn
phạm là Tỳ-kheo Thê Huyền chùa Phổ Quang ở Kinh
đô, Tỳ-kheo Minh Tuấn chùa Hoằng
Phước, Tỳ-kheo Biện Cơ chùa Hội Xương, Tỳ-kheo
Đạo Tuyên chùa Phong
Đức trên núi Chung Nam, Tỳ-kheo Tịnh
Mai chùa Phước Tụ ở Giản Châu, Tỳ-kheo Hành Hữu chùa Phổ Cứu ở Bồ Châu,
Tỳ-kheo Đạo Trác chùa Thê Nham,
Tỳ-kheo Huệ Lạp chùa Chiếu Nhân ở U Châu và Tỳ-kheo Huyền Tắc chùa Thiên
Ưng ở Lạc Châu. Một nhà nguyên ngữ học là Tỳ-kheo Huyền Ứng chùa Tổng
Trì ở thủ đô và một nhà học giả về
Phạn ngữ là Tỳ-kheo Huyền Mộ chùa Hưng Thiên ở thủ
đô cũng giúp Pháp sư trong việc dịch
thuật. Họ họp thành một khối cùng làm việc rất
đắc lực giúp Pháp sư dịch những kinh
Phạn văn ra Hoa ngữ.
Pháp sư khởi sự phiên dịch vào ngày mồng 1 tháng 7 và bắt
đầu dịch các cuốn kinh Bồ tát tạng,
kinh Phật Địa, kinh Lục môn
Đà-la-ni và luận Hiển dương Thánh
giáo. Cùng ngày hôm đó Ngài dịch
xong cuốn Lục môn kinh và vào ngày 15 xong cuốn Phật
địa kinh. Cuối năm
ấy kinh Bồ tát tạng và Hiển dương luận cũng
được hoàn thành.
Vào ngày mồng 1 tháng Giêng mùa xuân đệ
nhị thập niên (646 sau Tây lịch), Pháp sư bắt
đầu dịch
Đại thừa A-tỳ-đạt-ma
tập luận và xong vào tháng hai. Sau đó
Ngài lại khởi dịch Du già sư địa
luận, thành 100 cuốn xong vào ngày 14 tháng 5 mùa hạ.
Hoàng đế Trung Quốc chú ý
đặc biệt
đến công việc phiên dịch của Pháp
sư. Một hôm hỏi Ngài về giá trị bản dịch cũ của Kinh cang Bát nhã, Pháp
sư giảng cho vua nghe rằng bộ kinh ấy dạy vô phân biệt trí
để trừ vọng chấp. Vì bản dịch cũ bỏ
chữ "năng
đoạn" (Chedika), có nghĩa là cắt
đứt, trong nhan
đề quyển kinh, nên nó không diễn
đạt chính xác giá trị cao siêu của
bộ kinh ấy. Hơn nữa một trong ba câu hỏi, 1 trong 2 bài tụng và 3 trong
9 thí dụ đã bị bỏ không dịch. Vua
yêu cầu Pháp sư khởi sự dịch lại bộ kinh ấy. Bởi thế Ngài bắt
đầu dịch lại bộ Năng
đoạn Kim cang Bát nhã Ba-la-mật-đa
hoàn toàn căn cứ trên cuốn kinh Phạn
văn Ngài
đã mang về.
Khi Pháp sư ở chùa Hoằng Phước do vua xây, Ngài hoàn thành bản dịch
bộ luận Nhiếp Đại thừa với những lời
chú của Bồ tát Asvabhasa (Vô Tánh) thành 10 quyển, cũng quyển luận ấy
với lời chú của Thế Thân thành 10 quyển, bộ Nhân duyên kinh thành 1
quyển và bộ luận Bách pháp Minh môn thành 1 quyển.
Vì sợ kinh mang về bị cháy hoặc hư hại nên Pháp sư
định dựng một tháp
để chứa kinh vào tháng 3 mùa xuân năm
Vĩnh Huy thứ ba (652 sau tây lịch). Tháp xây bằng gạch, ở phía tây chùa
Từ Ân hoàn toàn theo kiểu Ấn Độ, cao
5 tầng, 180 bộ Anh gồm cả chân và đỉnh.
Mỗi tầng dài 140 bộ Anh (khoảng 34 m). Pháp sư thân dự phần trong cuộc
xây dựng ngôi tháp ấy. Ngài mang gạch đá,
giúp nơi này một tay và nơi khác một việc, việc gì Ngài làm
được là Ngài làm
để góp phần công
đức trong việc xây cất kéo dài 2 năm.
Vào ngày 23 tháng Giêng mùa xuân đời
vua Hiển Khánh nguyên niên (656 sau Tây lịch), một buổi lễ tấn phong
Thái tử được tổ chức trọng thể tại
chùa Từ Ân. Năm ngàn vị Tỳ-kheo
được mời dự và nhiều người tai mắt
trong triều đình. Vào dịp ấy, Pháp
sư giải thích cho Tiết Nguyên Siêu, Lý Nghĩa phủ về việc phiên dịch kinh
điển Phật giáo
đã được
nhiều nâng đỡ của triều
đình ngoài các vị sư, kể từ thời vua
Phù kiên và Giao Hưng (351-417 TL).
"Tam tạng giáo điển rất vi diệu,
khó hiểu được tận tường. Tuy nhiên
nhiệm vụ của tăng sĩ là phải truyền
bá giáo lý và cũng phải nhờ các vị vua nâng
đỡ. Vì những thời Hán và Ngụy đã
xa vời, chúng ta không thể nào bàn về chúng thật chi tiết. Nhưng bần tăng
chỉ xin kể lại những vị đã cộng tác
với tăng sĩ trong việc phiên dịch
Phật kinh từ thời Phù Kiên và Giao Hưng.
Vào thời Phù Kiên khi Dharmanandi (Đàm-ma-nan-đề)
dịch Phật kinh, có vị cận thần triều đình
là Triệu Chính phụ tá. Vào thời Giao Hưng khi Cưu-ma-la-thập dịch Phật
kinh có quan thái thú ở An Thanh là Dao Tung và vị quan là Dao Phụ giúp.
Và khi Bồ đề Cưu Chi dịch Phật kinh
vào thời Hậu Ngụy (386-534 TL) quan cận thần là Thôi Quang giúp phiên
dịch và đề tựa cho các dịch phẩm. Và
những trường hợp tương tự đã xảy ra
trong các triều vua Tề, Lương, Châu và Tùy. Cả
đến đầu
triều Trình Quán khi Prab hanala (Ba-pha-la-na) phiên dịch kinh
điển có quan Tả bộc Phòng Huyền
Linh, Triệu Quân Vương, Thái tử Lý Hiếu Cung, quan
Đảm sự
Đỗ Chính Luân, quan Thái phu Tiêu Cảnh, viên thủ khố của triều
đình đều
được Hoàng
đế sai coi sóc giúp
đỡ công cuộc phiên dịch.
Đoạn Pháp sư lưu ý cho hai vị
quan triều này thấy rằng hiện giờ không có chuyện như thế và nhờ họ tâu
lại với Hoàng đế
để yêu cầu cung cấp nhân lực phụ tá.
Hôm sau khi thiết triều, hai vị ấy tâu vua lời thỉnh cầu của Pháp sư.
Vua liền ra một chiếu chỉ chấp thuận điều
cầu thỉnh:
"Việc phiên dịch kinh luận của Pháp sư Huyền Trang là một công trình
mới mẻ, bản dịch cần được trau chuốt
thật hoàn hảo về từ lẫn lý. Nay trẫm chỉ định
cho các quan sau đây phải giúp
đỡ việc phiên dịch ấy và nhuận sắc
nếu cần: quan Tả bộc Yên Quốc Công Vu Chí Ninh, quan Trung thư lệnh kiêm
kiểm giảo Lại bộ Thượng thư Nam Dương huyện Khai quốc nam Lai Tế, quan
Lễ bộ Thượng thư Cao Dương huyện Khai quốc Nam Tiết Nguyên Siêu, quan
Thị Lang khai quốc Nam Lý Nghĩa Phủ và Trung thư thị lang
Đỗ Chính Luân. Nếu cần thêm học giả,
có thể phái thêm vào người nữa."
Pháp sư nhận lãnh chiếu chỉ với những giọt nước mắt cảm ơn và từ
đấy công việc dịch thuật càng tiến
mạnh với sự giúp đỡ quý báu của
triều đình.
Pháp sư đã dịch xong bộ luận
A-tỳ-đạt-ma Phát trí luận thành 30
quyển. Khi Ngài ở kinh đô, Ngài cũng
khởi dịch bộ Đại-tỳ-bà-sa-luận và
đã xong hơn 70 quyển chỉ còn 130
quyển. Bấy giờ Ngài bắt đầu dịch cho
xong tác phẩm vĩ đại ấy. Pháp sư ở
luôn trong chùa Từ Ân để dịch. Ngài
vẽ ra một chương trình đều
đặn và theo
đúng như thế
để khỏi mất giờ khắc nào. Nếu Ngài
vì những việc khác không thể làm hết công việc như
đã vạch
định, thì Ngài thức khuya hơn thường lệ
để làm nốt. Ngài thường thức dịch
đến canh hai.
Đoạn xếp các việc lại thiền
định và cầu nguyện suốt canh ba
để gạn lọc tâm ý. Sau
đó mới
đi nghỉ. Canh năm Ngài
đã thức dậy và sau vài phút tẩy rửa,
Ngài tụng các bản kinh Phạn và làm dấu mực
đỏ những đoạn phải dịch ngày
hôm đó.
Ăn điểm tâm xong, Ngài
để ra hai giờ
để giảng những kinh luận vừa dịch;
những tăng sĩ và cư sĩ từ xa
đều đến
nghe Ngài. Mặc dù Ngài có chương trình hàng ngày rất bận rộn, Ngài vẫn
làm việc rất có phương pháp và không để
cho nhịp điệu công việc hàng ngày bị
xáo trộn.
Vào ngày mồng 1 tháng Giêng, mùa xuân năm
thứ năm (660 TL), Pháp sư khởi dịch
Đại-bát-nhã-ba-la-mật kinh, gồm tất
cả 20.000 câu Phạn ngữ. Mặc dù đồ
đệ Ngài khuyên nên rút ngắn lại,
Pháp sư vẫn so sánh cân nhắc các bản dịch khác nhau mà Ngài mang về. Chỉ
sau khi nghiên cứu kỹ càng và suy nghĩ chín chắn Ngài mới khởi sự dịch
ra Hoa ngữ. Trong thời gian dịch tác phẩm vĩ
đại này, Pháp sư cứ lo mình sẽ chết
trước khi hoàn thành công việc. Ngài nói để
khích lệ các tăng sĩ:
"Nay Huyền Trang này đã 65 tuổi
và chắc rằng sẽ chết ở trong chùa này. Vì bộ kinh này rất vĩ
đại, tôi chỉ sợ tôi không sống
được để
dịch cho xong, vậy chúng ta phải cố gắng làm việc và
đừng để
mất phút nào."
Vào ngày 23 tháng 10 mùa xuân năm
thứ ba niên hiệu Long Sóc (663 TL), Ngài hoàn tất bản dịch bộ kinh thành
600 quyển dưới đầu
đề Đại
Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh. Khi dịch
đến trang cuối cùng, Pháp sư vô cùng
phấn khởi hân hoan nói với các Tỳ-kheo rằng:
" Bộ kinh có nhân duyên với nơi này lắm. Chính nhờ thần lực của kinh
mà tôi đến
điện Ngọc Hoa này. Nếu tôi ở lại
kinh đô rối ren phiền toái thì tôi
đã không có thì giờ dịch xong
được. Nhờ ơn Phật và chư vị Long
thần, nay dịch phẩm đã xong. Bộ kinh
cao cả là hòn ngọc quý của xứ sở, quý vị nên hoan hỷ thọ trì."
Vào ngày mồng 1 tháng Giêng mùa xuân năm
Lân Đức nguyên niên (664 TL), Pháp
sư được thỉnh cầu dịch bản kinh
Đại bảo tích ra Hoa ngữ. Pháp sư cố
gắng thể theo lời cầu thỉnh, nhưng chỉ dịch
được vài dòng Ngài liền xếp bản Phạn văn
lại mà bảo rằng vì tuổi già sức yếu Ngài không thể nào có
đủ nghị lực dịch bộ kinh này cũng
đồ sộ không kém bộ
Đại Bát nhã. Từ lúc
đó trở
đi, Ngài nghỉ tất cả các việc dịch thuật và chuyên chú vào thiền
định tu tập.
Để phán
đoán giá trị của dịch phẩm của Ngài,
cần kê ra đây tất cả các dịch phẩm
và hiểu quan điểm triết lý của Pháp
sư cùng sự đóng góp của Ngài trong
địa hạt trí thức Phật học.
A. Những dịch phẩm của Ngài Huyền Trang
1. Đại-bát-nhã-Ba-la-mật-đa
kinh, 600 quyển, dịch từ năm
660-663; N.1; T.220.
2. Năng
đoạn Kim cang Bát-nhã-ba-la-mật
kinh, 1 quyển, 648 TL; N. 13.
3. Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm
kinh, 1 tập, 649 TL; N. 20; T. 251.
4. Đại Bồ tát tạng kinh, 20
quyển, 645 TL; T. 310; N. 23.
5. Đại thừa
Đại tập
Địa tạng thập luận kinh, 10
quyển, 651 TL; N. 64; T. 411.
6. Hiển vô biên Phật độ công
đức kinh, 1 quyển, 654 TL, N.
95; T. 289.
7. Phật lâm niết bàn ký pháp trụ kinh: kinh về sự trường tồn của
pháp Phật đã nói trước khi nhập
Niết bàn; 1 quyển, 652 TL; N. 123; T. 390.
8. Phân biệt duyên khởi sơ thắng pháp môn kinh: Kinh giảng về
luật nhân duyên tối thượng, 2 quyển, 650 TL; N. 140; T. 717.
9. Thuyết vô cấu xứng kinh 6 quyển, 650 TL; N. 149; T. 476.
10. Dược sư Lưu Ly Quang Như Lai bản nguyện công
đức kinh, 1 quyển, 650 TL; N.
171; T. 450.
11. Xưng tán Tịnh độ Phật
nhiếp thọ kinh, 1 quyển; 650 TL; N. 199; T. 367.
12. Giải thâm mật kinh, 5 quyển, 647 TL; N. 247; T. 676.
13. Như Lai thị giáo thắng quân vương kinh, 1 quyển, 649 TL; N.
249, T. 515.
14. Phật thuyết thậm hy hữu kinh, 1 quyển, 649 TL; N. 261; T.
689.
15. Phật thuyết tối vô tỉ kinh, 1 quyển, 649 TL; N. 269; T. 691.
16. Xưng tán Đại thừa công
đức kinh, 1 quyển, 654 TL; N.
276; T. 840.
17. Duyên khởi Thánh đạo
kinh, 1 quyển; 649 TL; N. 272; T.714.
18. Bất khoông quyền sách thần chú tâm kinh, 1 quyển, 659 TL, N.
316; T. 1094.
19. Thập nhất diện thần chú tâm kinh, 1 quyển, 659 TL; N. 328, T.
1071.
20. Chú ngũ thư kinh, 1 quyển, 664 TL; N. 330; T. 1034.
21. Thắng tràng trí ấn đà-la-ni
kinh, 1 quyển, 654 TL; N. 361; T. 1363.
22. Chư Phật Tâm đà la-ni
kinh, 1 quyển, 650 TL; N. 361; T. 918.
23. Bát tế cứu khổ nạn Đà-la-ni
kinh, 2 tờ, 654 TL; N. 490; T. 1395.
24. Bát danh phổ mật đà la ni
kinh, 3 tờ, 654 TL; N. 491; T. 1365.
25. Phật thuyết trì thế Đà-la-ni
kinh, 4 tờ, 654 T; N. 492, T. 1162.
26. Phật thuyết lục môn Đà-la-ni
kinh, 1 tờ, 646 TL; N. 493; T. 1360.
27. Phật thuyết Phật-địa
kinh, 12 tờ, 645 T; N. 502, T. 680.
28. Tịnh chiếu Thần biến Tam-ma-địa
kinh, 1quyển, 664 TL; N. 522: T. 648
29. Thọ trì thất Phật danh hiệu sở sanh công
đức kinh, Kinh nói về công
đức do sự niệm danh hiệu 7
đức Phật, 6 tờ, 651 TL; N. 528,
T. 436.
30. Duyên khởi kinh, 3 tờ, 664 TL; N. 628; T. 124.
31. Bổn sự kinh, 7 quyển, 650 TL; N. 714; T. 765
32. Thiên thỉnh vấn kinh, 4 tờ, 648 TL; N.753; T.592.
33. Bồ tát giới Yết ma văn 7
tờ, 649 TL; N.1097; T.1499.
34. Bồ tát giới bổn 1 quyển, 649 TL; N.1098; T.1501.
35. Du già Sư địa luận, 100
quyển, 646-647 TL; N.1170, T.1579.
36. Nhiếp Đại thừa luận
thích, 10 quyển, 648-649 TL; N.1171; T.159.
37. Nhiếp Đại thừa luận thích,
10 quyển, 647-649 TL; N.1171; T. 1598.
38. Quán sở duyên duyên luận, 3 tờ, 657 TL; N. 1173; T. 1624
39. Đại thừa ngũ uẩn luận, 10
tờ, 647 TL; N. 1176; T. 1621
40. Hiển dương thánh giáo luận; luận về sự hiển dương chánh pháp;
20 quyển, 645-646 TL; N. 117; T. 1602
41. Đại thừa A-tỳ-đạt-ma
tạp tập luận, 16 quyển, 646 TL; N. 1178; T. 1606
42. Quảng bách luận bổn, 1 quyển, 650TL; N. 1189; T. 1570
43. Phật địa kinh luận 7
quyển, 649 TL; N. 1195; T. 1530
44. Thành duy thức luận, 10 quyển; 659 TL; N. 1197; T. 1585
45. Quảng bách luận thích luận, 10 quyển; 650 TL; N. 1198 ;
T.1571
46. Đại thừa A-tỳ-đạt-ma
tập luận, 7 quyển; 652 TL; N.1199 ; T. 1605
47. Vương pháp chánh lý luận, 1 quyển; 649 TL; N. 1200; T. 1615
48. Du già sư địa luận thích,
1 quyển; 654 TL; N. 1201 ; T. 1580
49. Hiển dương thánh giáo luận tụng, 1 quyển; 645 TL; N. 1202 ;
T. 1603
50. Đại thừa bách pháp minh
môn luận, 2 tờ; 648 TL; N. 1213 ; T. 1614
51. Duy thức tam thập luận, 6 tờ; 648 TL; N. 1215 ; T. 1586
52. Nhân minh nhập chánh lý luận, 6 tờ, 647 TL; N. 1216 ; T. 1630
53. Đại thừa thành nghiệp
luận, 1 quyển; 651 TL; N. 1221 ; T. 1609
54. Nhân minh chánh lý môn luận, 1 quyển; 648-649 TL; N. 1224; T.
1628
55. Đại thừa chưởng trân
luận, 2 quyển, 649 TL; N. 1237; T. 1578
56. Duy thức nhị thập luận, 11 tờ; 661 TL; N. 1240; T. 1590
57. Biện trung biện luận, 3 quyển, 661 TL; N. 1244; T. 1600
58. Biện trung biện luận tụng, 9 tờ, 661 TL; N. 1245; T. 1601
59. Nhiếp đại thừa luận bổn,
3 quyển, 648-649 TL; N. 1247; T. 1594
60. A tỳ đạt ma
Đại tỳ bà sa luận, 200 quyển,
658-659 TL; N. 1263; T. 1545
61. A tỳ đạt ma thuận chánh
lý luận, 80 quyển, 653-654 TL; N. 1265; T. 1562
62. A tỳ đạt ma tạng Hiển
tông luận, 40 quyển, 651-652 TL; N. 1266; T. 1563
63. A tỳ đạt ma Câu xá luận
tụng, 30 quyển, 651-654 TL; N. 1267; T. 1558
64. A tỳ đạt ma Câu xá luận
bổn tụng, 2 quyển, 651 TL; N. 1270; T. 1560
65. A tỳ đạt ma Phát trí
luận, 20 quyển, 657-660 TL; N. 1275; T. 1544
66. A tỳ đạt ma Tập dị môn
túc luận, 20 quyển, 660-663 TL; N. 1276; T. 1536
67. A tỳ đạt ma phẩm Loại túc
luận, 18 quyển, 659 TL; N. 1277; T. 1542
68. A tỳ đạt mà Thức thân túc
luận, 16 quyển, 649 TL; N. 1261; T. 1539
69. A tỳ đạt ma Giới thân túc
luận, 2 quyển, 663 TL; N. 1282; T. 1540
70. Ngũ sự Tỳ bà sa luận, 2 quyển, 663 TL; N. 1283; T. 1555
71. Dị bộ Tông luận, 10 tờ, 662 TL; N. 1286; T. 303
72. A tỳ đạt ma luận, 2
quyển, 658 TL; N. 1291; T. 1554
73. Thắng tôn thập cú nghĩa luận, 1 quyển, 648 TL; N. 1295; T.
2138
74. A tỳ đạt ma pháp uẩn túc
luận, 12 quyển, 659 TL; N. 1295; T. 1537
75. Đại A La Hán Nan
đề mật
đa la sở thuyết pháp chú ký, 3
tờ, 654 TL; N. 1466; T. 2030
76. Đại thừa Tây du ký, 12
quyển, 646 TL; cộng tác với Biện cơ; N. 1503; T. 2087
77. Đại từ ân tự Tam Tạng
Pháp sư truyện, do Huệ Lập soạn năm
665, 16 quyển; N. 1494
B. Số dịch phẩm:
Gồm 77 dịch phẩm. Nhưng chúng ta nên chú ý những
điểm sau
đây:
1. Dịch phẩm số 2 thuộc về bộ Đại
Bát nhã đáng lẽ không kể.
2. Dịch phẩm số 4 mặc dù thuộc về bộ Maharatnakuta (Đại
bảo tích) được xem như một dịch
phẩm của Pháp sư.
3. Dịch phẩm số 33 và 34 chỉ rút từ số 35,
đáng lẽ không kể.
4. Dịch phẩm 64 chứa những câu của 63,
đáng lẽ khôngkể.
5. Dịch phẩm 42 chứa những câu của 45,
đáng lẽ không kể.
6. Dịch phẩm 58, chứa những câu của 57,
đáng lẽ không kể.
7. Dịch phẩm 49, chứa những câu của 40,
đáng lẽ không kể.
8. Tác phẩm 76 và 77 không phải dịch phẩm,
đáng lẽ không kể.
Như vậy, tổng cộng chỉ có 68 dịch phẩm.
C. Phân loại các tác phẩm trên
Thật khó phân loại cho cùng, bởi vì có nhiều tác phẩm không thể phân
loại; nếu không đọc kỹ tất cả thì
chúng ta thật khó bao gồm chúng trong bảng phân loại này. Tuy nhiên,
bảng này ít nhất cũng giúp ta có một khái niệm về sự học uyên bác của
Ngài Huyền Trang, xác định
điển tích học và sở trường của Ngài.
1. Đại thừa Tỳ-nại-da: số 33,
34
2. Tiểu thừa A-tỳ-đàm: số 60,
61, 62, 63, 64, 65, 66, 67, 68, 69, 70, 72, 74
3. Các bộ thuộc Du già hay Đại
thừa A-tỳ-đàm số 12, 35, 36, 37,
38, 39, 40, 41, 44, 46, 48, 49, 50, 51, 56, 57, 58, 59
4. Các bộ thuộc Bát-nhã: số 1, 2, 3, 42, 45
5. Các bộ thuộc Tịnh-độ: 9,
10, 11.
6. Các bộ thuộc Mật tông: số 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26
7. Nhân minh luận bộ: số 52, 54
8. Sử: số 76, 77
9. Tiểu thừa phái: 71
10. Ngoại giáo: số 73
11. Không phân loại: số 4, 5, 6, 7, 8, 13, 14, 15, 16, 17, 27,
28, 29, 30, 31, 32, 43, 47, 53, 55, 75.
D. Sự bác học của Ngài Huyền Trang
Sự phân loại trên cho ta thấy rõ sự uyên bác của Pháp sư
đến mức nào. Ngài khởi
đầu bằng
Đại thừa Tỳ-nại-da vì Ngài thiên về
lý tưởng Bồ tát và hoàn toàn bỏ qua Tiểu thừa Tỳ-nại-da vì những người
trước Ngài đã
đề cập
đến phái này nhiều. Dịch phẩm của Ngài về Tiểu thừa A-tỳ-đàm
gồm Lục túc, Phát-trí-luận, bộ Đại-tỳ-bà-sa
danh tiếng và vài tác phẩm khác liên quan
đến Luận câu xá. Sự đóng góp
của Ngài trong phạm vi này rất giá trị vì duy trì hầu hết Nhất thế hữu
bộ, gồm cả bộ Đại Tỳ-bà-sa. Thật
đáng tiếc Pháp sư
đã không dịch bộ A-hàm mà những
người tiền bối của Ngài dịch không hoàn hảo lắm. Ngài thiên về văn
học Du già rất rõ rệt, và chính vì vậy Ngài
đã nuôi khát vọng Tây du để
mang về bộ Du già Sư địa luận phổ
biến cho người Trung Quốc. Ngài cũng dịch bộ
Đại-bát-nhã có thể xem như là nguồn
cội của giáo lý Trung Quán và vì Pháp sư muốn nối nhịp cầu thông cảm
giữa hai thuyết Trung Quán và Du già.
Những sách Ngài dịch về Mật tông phản ảnh
đức tin của Ngài về sự niệm thần chú
và giảng nghĩa vai trò của những cơn mộng mị phép mầu và sự bói toán
trong đời Ngài. Ngài cũng không quên
dịch vài tác phẩm về Nhân minh, về Tịnh độ
và hai tác phẩm về Ngoại giáo.
E. Quan niệm triết lý của Ngài Huyền Trang
Từ những dịch phẩm, chúng ta có thể đặt
ra những tư tưởng của Pháp sư. Ngài dịch tác phẩm số 71 (Dị bộ tông
luận) có thể xem như là nhập đề giới
thiệu những khuynh hướng tư tưởng tà phái có
đồng thời với
Đức Phật.
Ngài dịch Lục túc, Phát-trí-luận, Đại-tỳ-bà-sa
và Câu-xá-luận, nhập đề cho Tiểu
thừa A-tỳ-đàm dựa trên bộ A-hàm.
Ngài dịch Du già Sư địa và những
bộ luận liên hệ để phổ biến
Đại thừa A-tỳ-đàm.
Ngài dịch những bộ luận Duy thức tông và những tác phẩm liên hệ
để ghi lại những
đặc điểm
của tông phái mới mà Ngài tự cho là chính Ngài sáng lập ở Trung Quốc.
Ngài dịch Đại-bát-nhã
để khỏi bị cho là
đi ngược giáo lý Trung Quán,
đồng thời ngài cố dung hòa hai giáo
lý Trung Quán và Du già.
Ngài dịch vài tác phẩm về Mật tông và Tịnh
độ tông
để bênh vực đức tin riêng của
Ngài vào sự thực hành hai môn phái ấy, với suốt thời gian Ngài chiêm bái
và trở về. Ngài cũng muốn chứng tỏ ước nguyện của Ngài
được tái sinh trên cõi trời
Đâu Suất
để học Du già Sư
địa luận với Bồ tát Di Lặc.
Theo những xét đoán trên, Ngài
Huyền Trang có thể xem là một nhà đại
thừa dũng mãnh, đã tuyên dương giáo
lý Duy thức và sự tu hành thiên về nguyện tái sinh ở trời
Đâu Suất. Ngài
được xem là vị sáng lập tông phái
Pháp tướng Duy thức và ảnh hưởng của Ngài chói lọi
đến nỗi làm lu mờ cả Tam luận tông.
Tông này bênh vực Trung Quán. Sự đóng
góp của Ngài trong địa hạt trí thức
Phật học rất giá trị và sâu rộng vì Ngài đã
giúp duy trì hầu hết bộ Tiểu thừa A-tỳ-đàm,
Đại thừa A-tỳ-đàm,
v.v... nhưng nguyên bản Phạn văn này
bây giờ không còn thấy ở Ấn nữa.
F. Sự chính xác trong các dịch phẩm của Ngài
Để phán
đoán sự chính xác ấy, cách
độc nhất là so sánh những bản văn
Ngài dịch với nguyên tác chữ Phạn, từng chữ và từng câu. Nhưng rủi thay
tất cả nguyên tác Phạn văn
đều đã
mất. Mặc dù mới đây có tìm
được một ít bản thảo Phạn ngữ vẫn
rất khó mà quả quyết đấy chính là
bản mà Ngài đã dịch ra.
Vì thời gian và khuôn khổ sách này rất giới hạn, tôi chỉ xin so sánh
ở đây bản dịch hàng
đầu bài kệ thứ nhất của Luận Câu-xá
do Ngài dịch với bản do Tam tạng Chân đế
dịch, như thế chúng ta hy vọng dò xét sự chính xác theo
đúng nguyên văn
bản dịch của Ngài.
Hàng đầu của bài kệ tiếng Phạn
như sau:
"Yah sarvatha sarvahatandhakarah"
Ngài Chân Đế dịch:
"Nhất thiết chủng trí diệt chư minh
Trí huệ Phật phá tan các mê mờ."
Pháp sư đã dịch:
"Chư nhất thiết chủng chư minh diệt
Người đã hoàn toàn phá tan mê mờ."
Chân Đế có lẽ
đã dịch danh từ 'Yah' bằng "Trí"
(huệ), trong khi Huyền Trang duy trì nghĩa nó bằng danh từ "Chư". Sự
dùng danh từ 'Yah' này rất quan trọng vì nó chỉ sự bình
đẳng của Phật tử luôn luôn sẵn sàng
cung kính trước bất cứ người nào đã
đạt được
chánh đẳng chánh giác.
Lại nữa, đối với danh từ
Sarvatha sarvandhakarah, Ngài Chân Đế
dịch là "nhất thiết chủng trí diệt chư minh" (trí Phật diệt hết mê mờ).
Trước tiên sự dịch "Sarvatha" là trí nhất thiết chủng không
được chính xác vì từ ngữ này ở
đây nên dùng như một trạng từ hơn là
một tĩnh từ. Pháp sư dùng "Nhất thiết chủng minh"
để dịch "Sarvathaandhakarah"
và "chư minh" để dịch "Sarva
andhakarah". Vì Andhakarah ở đây
có hai nghĩa. Akhishatan ajnanam và klishtasammoham, bản
dịch của Pháp sư bao gồm cả hai ý nghĩa. Hơn nữa, với danh từ hata,
Chân Đế
đã đặt nó trước danh từ "chư
minh" trong khi Pháp sư đặt nó ở sau
cả hai từ ngữ nhất thiết chủng minh và chư minh, bởi thế
bản dịch Huyền Trang chỉ rõ sự diệt trừ cả klishtasammoham và
klishtanajnanam. Sự giảng giải Abhidharma Kosabhashya như sau chứng
tỏ Pháp sư dịch rất sát nghĩa:
"Tacca Bhagavato Baddhasya pratipakshalabhenatyantam sarvatha
sarvatra jneye punaranutpatthidharmatvaddhatam. Ato'
sausarvathasarvahatandhakarah. Pratyekabuddhasravaka api kamam sarvatra
hatandhakarah. Klishtasammohatyantavigamat. Na tu sarvatha. Tatha
hyeshamBuddhadharmeshvativiprakrshtadesakaleshu artheshu artheshu
canantaprabhedeshu bhavatyevaklishtama jnanam."
Đoạn văn
ngắn này chứng tỏ bản dịch của Pháp sư chính xác và sát nguyên văn
đến mức nào. Ngày nay, ở Nhật Bản,
Trung Hoa cũng như Việt Nam, chúng ta đều
học Câu-xá-luận qua bản dịch của Ngài Huyền Trang và dùng bản dịch của
Chân Đế
để tra cứu.
---o0o---
|
Phần 1 |
Phần 2 |
Phần 3 | Phần 4 |
Phần
5 |
Phần
6