Huyền Trang - Nhà
Chiêm Bái và Học Giả
(Hsuan-Tsang, the
Pilgrim and Scholar)
Nguyên tác Anh ngữ:
Hòa Thượng Thích Minh Châu
Bản dịch Việt ngữ:
Ni sư Thích Nữ Trí Hải
Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam tái bản, 1989
---o0o---
Phần 02
II. HUYỀN TRANG, NHÀ
CHIÊM BÁI
Pháp sư khởi hành cuộc Tây du nhằm ba mục
đích rõ rệt: chiêm bái Phật
địa, nghiên cứu Phật lý và sưu tầm
Kinh điển.
Trong lịch sử các cuộc hành hương Phật tích chỉ có cuộc hành hương
của Ngài là quyến rũ nhất, ly kỳ nhất, bởi thời gian của cuộc hành trình
(17 năm), bởi những nỗi khó nhọc
gian nguy gặp trên đường, bởi số
lượng các nước Ngài đã viếng thăm
và bởi những tường thuật Ngài để lại
đã là nguồn cảm hứng bất tận cho học
giả, văn nhân.
Cùng với vài vị Tỳ kheo cùng mục đích
với Ngài, Pháp sư đệ lên Hoàng
đế Trung Quốc một bản thỉnh cầu
được phép chiêm bái sang Ấn. Bằng
một sắc lệnh nhà vua đã bác lời
thỉnh cầu của Ngài. Nhưng Pháp sư không phải dễ bị nao núng trước một
chướng ngại như thế.
Vào tháng Tám niên hiệu Trinh Quán thứ ba (năm
629 sau Tây lịch), Pháp sư một mình một bóng khởi sự cuộc hành trình,
mặc dù các bạn của Ngài đã bỏ cuộc.
Lúc bấy giờ Ngài 26 tuổi. Từ Tràng An, bấy giờ là thủ
đô Trung Quốc, Ngài
đi đến
Tần Châu, từ đấy Ngài
đi đến
Lan Châu, rồi Lương Châu, ở đấy Ngài
lưu lại hơn một tháng. Khi vị Đô
đốc nơi này vâng chỉ triều
đình buộc Ngài phải trở lại kinh
đô, Pháp sư bèn lẻn
đi ban
đêm, có một Tỳ kheo là Huệ Oai cho hai
đệ tử theo hộ vệ Ngài trong cuộc Tây
du. Ngài đến Qua Châu, ở
đấy viên quan Lại sứ là
Độc-Cô-Đạt
đón tiếp Ngài rất nồng hậu. Khi Ngài
sắp rời Qua-Châu thì có trát từ Lương Châu gửi
đến, sai bắt Ngài. Lý Xương, viên
quan sở tại, vốn là một Phật tử thuần thành,
đưa cho Ngài xem tờ trát rồi xé, ca
ngợi chí khí cao thượng của Pháp sư và giục Ngài lên
đường ngay
đừng trì hoãn. Bấy giờ hai người hầu
cận bỏ trốn Ngài vì không chịu nổi cuộc hành trình gian khổ; vì vậy Ngài
không còn hướng đạo
để đưa
Ngài qua cửa ải. Ngài liền cầu nguyện, thì bỗng một người lạ mặt tên
Bàn-Đà liền xuất hiện, xin Ngài
truyền cho ngũ giới, lại cúng dường Ngài bánh trái và tình nguyện làm
hướng đạo
đưa Ngài qua Ngũ phong (5 chòi canh
lớn ). Ngày hôm sau, anh ta đến với
một người lạ mặt già khác, cỡi một con ngựa già cỗi màu hung
đỏ. Theo lời khuyên của ông già, ứng
với lời tiên đoán ở Tràng An, Pháp
sư bằng lòng đổi ngựa cho ông ta.
Ngài khởi hành, cũng về ban đêm,
cùng với người hướng đạo trẻ tuổi
để đi
qua sông Hồ Lư, rộng 10 tấc Anh. Họ đến
bờ sông vào canh ba. Người hướng đạo
đốn một vài cành cây ngô
đồng, làm một chiếc cầu, rải cát lên
trên và dắt ngựa qua. Đêm ấy ngươì
hướng đạo có ý
định ám hại Ngài nhưng Ngài ngồi dậy,
đọc kinh chú làm anh ta sợ hãi. Vào
lúc rạng đông, anh ta từ chối không
theo Ngài thêm nữa, và Pháp sư phải một mình qua ải Ngọc Môn. Ngài một
mình tiến bước ban đêm trên sa mạc,
mò mẫm tìm đường giữa những
đống xương người, phân ngựa. Khi
đi hơn 13 dặm, ngài
đến chòi canh thứ nhất. Ngài bị lộ
diện và đầu gối Ngài suýt trúng tên.
Người cai quản chòi canh thông cảm với ý định
của Ngài, để Ngài trú lại
đêm ấy và chỉ Ngài
đi đến
chòi canh thứ 4. Ở đây Ngài lại suýt
trúng tên khi Ngài muốn kiếm ít nước dự trữ và lẻn ra
đi. Viên cai chòi canh này
để Ngài ngủ lại
đêm ấy và hôm sau còn biếu Ngài một
bầu nước, một ít lương khô và khuyên Ngài
đến suối Bạch Mã sẽ có nước ngọt. Ngài tiếp tục
đi, đến
sa mạc Mạc-hạ-diên rộng 133 dặm, trên trời không có chim, dưới
đất không muông thú, cỏ nước cũng
không. Ngài một mình một bóng băng
mình tiến bước vừa niệm danh hiệu Bồ tát Quán Âm và Tâm kinh Bát nhã.
Đi hơn 16 dặm thì Ngài lạc
đường và không tài nào tìm ra dòng
Bạch Mã. Khốn đốn hơn nữa, Ngài lại
trượt chân té ngã trong khi đang mở
bầu uống nước, làm đổ tất cả bầu
nước quí báu. Quá chán nản, Ngài mất cả nhuệ khí và bắt
đầu lần bước trở lại chòi canh thứ
tư. Đi
được chừng 2 dặm, Ngài cảm thấy hổ thẹn về hành vi mình,
đã đi
ngược lại lời tự nguyện ban đầu là
sẽ không trở lại phương Đông nếu
chưa đến
đất Ấn. Bởi thế Ngài không quay lại,
tiếp tục hướng tây bắc và thành khẩn cầu nguyện
đức Quán Âm Bồ tát. Trong 4
đêm 5 ngày liền, Ngài không có một
giọt nước thấm môi và cuối cùng Ngài phải ngã quị trên cát, kiệt sức.
Mặc dù lâm vào hoàn cảnh tuyệt vọng, Ngài vẫn không ngớt niệm từ bi của
Quán Âm cứu khổ. Vào nửa đêm ngày
thứ năm, một ngọn gió mát thổi
đến làm Ngài lai tỉnh, nhờ vậy Ngài
có thể cỡi ngựa tiếp tục cuộc hành trình và
đến một đồng cỏ xanh tốt có
ao nước mát lành. Thế là Ngài thoát chết. Ngài ở lại một ngày trên bờ ao
và sau khi lấy nước ngọt và cỏ cho ngựa, Ngài lại khởi hành
đến Y Ngô sau 2 ngày
đường.
Ngài lưu lại trong một ngôi chùa có 3 vị Tỳ kheo Trung Hoa ở, họ rất
cảm kích khi gặp Ngài. Tại đây Ngài
được những vị Tỳ kheo và Vua
đến thăm
đảnh lễ. Vua mời Ngài
đến hoàng cung
để cúng dường vô cùng trọng hậu. Khi
vua Cao Xương mời Ngài đến viếng
nước ông, Ngài liền qua sa mạc phía Nam và sau 6 ngày
đến đô
thị Bạch Lực. Từ đấy, Ngài
đi đến
kinh đô của Cao Xương và
đến nơi vào nửa
đêm. Vua và cận thần
đem đèn
nến ra rước Ngài. Sau khi lưu lại 10 hôm, Ngài
định lên
đường
để tiếp tục hành trình, mặc dù vua một mực khẩn cầu rồi hăm
dọa. Ngài liền tuyệt thực ba ngày để
bắt buộc nhà vua thôi cản đường
Ngài. Cuối cùng vua bỏ ý định cầm
giữ Ngài và Ngài lại tiếp tục lên đường.
Trực chỉ hướng Tây, Pháp sư đi
qua những thành Vô Bán, Dốc Tiến và đến
xứ Agni (A-kỳ-ni). Vẫn hướng tây, Ngài đến
suối A-Phu-Sư và nghỉ đêm ở
đấy. Sáng hôm sau, ngài vượt ngọn
núi Ngân Sơn (núi Kumush). Tiếp tục đi,
Ngài đến kinh
đô Aghi (A-kỳ-ni); vua và
đình thần
đều ra nghênh tiếp Ngài.
Ngày hôm sau, Pháp sư qua một con sông và một
đồng bằng rộng hơn trăm
lý [Bản dịch này dùng phân biệt lý và dặm: 1 dặm tương
đương với 6 lý (BT)] và
đến kinh
đô Kucha (Khuất chi). Ở
đấy vua,
đình thần và Tỳ kheo Mokshagupta
(Mộc-xoa-cúc-đa) cùng nhiều vị khác
đều ra nghênh
đón. Ngài ở lại xứ này hơn 60 ngày.
Lúc lên đường, vua biếu Ngài nhiều
xe, ngựa, lạc đà, và tiễn Ngài ra
tận ngoài cổng thành.
Sau hai ngày đi về hướng Tây,
Pháp sư gặp chừng hai ngàn bọn cướp Thổ Nhĩ Kỳ (Đột
quyết) cỡi ngựa. Đi thêm 100 dặm,
Ngài qua một sa mạc nhỏ và đến xứ
Baluka (Bạt-lộc-ca), nghỉ lại một đêm.
Đoạn Ngài
đi hướng tây bắc năm
mươi dặm nữa, qua một sa mạc và băng
sơn ở phía Bắc ngọn Pamir (Thông-lĩnh). Vẫn khăng
khăng thẳng tiến, sau 7 ngày Ngài ra
khỏi núi và gặp một hồ nước trong chu vi có
đến 250 dặm. Vẫn trực chỉ hướng tây bắc thêm 83 dặm, Ngài
đến đô
thị Tokmak (Tố-diệp). Ở đấy Ngài gặp
người Thổ Nhĩ Kỳ tên Diệp-hộc-khả-hản đón
tiếp Ngài rất nồng hậu. Người này cố cầm giữ Ngài nhưng vô hiệu. Ông ta
liền cho một thanh niên theo Ngài làm thông ngôn và hộ vệ Ngài
đi đến
xứ Kapisa (Ca-tất-thức).
Đi theo hướng tây chừng 400 lý,
Ngài đến Bing-yul (Bình Tân) có
nghĩa là một nghìn suối nước. Từ Bing-yul, vẫn hướng tây
đi 150 lý nữa Ngài
đến đô
thị Talas (Đằn-la-hư). Hướng về tây
nam đi 200 lý, Ngài
đến đô
thị Bạch Thủy, đi thêm 200 lý
đến độ
thị Kuyu (Cung Ngự). Từ đấy
đi hướng Nam chừng 50 lý Ngài gặp
đô thị Nejkend (Nô-xích-kiện) và 200
lý nữa đưa Ngài
đến xứ Chaj (Giả Thờ).
Đi thêm 1000 lý xa hơn, Ngài bước
vào xứ Sutrishna (Tốt-đổ-lợi-sắt-na).
Bấy giờ Ngài hướng tây nam, đi
vào một sa mạc mênh mông không nước, không cỏ, chỉ có xương khô
đầy đường.
Đi 500 lý, Ngài vào xứ Samarkand
(Táp-mạt-kiến-quốc). Ban đầu vua
nước ấy đối với Ngài rất ngã mạn,
nhưng sau khi nghe Ngài thuyết pháp một lần, vua
đổi hẳn thái
độ.
Đi hướng tây 300 lý, Ngài
đến xứ Kochania (Khuất-sướng-nhĩ-ca)
200 lý xa hơn là kinh đô Kharghan
(Yết-hãn) và 400 lý nữa đến xứ
Bokhara (Bổ-hát). Đi thêm 100 lý
Ngài đến Betik (Phạt-địa)
và 500 lý nữa là xứ Khwarism (Hóa-lợi-tập-di). Bấy giờ Ngài nhắm hướng
tây nam thẳng tiến, và sau khi đi
300 lý, Ngài đến xứ Kesh
(Yết-sương-na). Theo hướng tây nam Ngài đến
một rặng núi. Sau khi đi 300 lý
đường khó khăn
hiểm trở, Ngài vào Thiết-môn-quan. Rời Thiết-môn-quan, Ngài
đến xứ Tukhara (Đỗ-hóa-la)
và sau khi đi hàng trăm
lý, Ngài qua sông Oxus (Phược-xu) đến
xứ Kunduz (Hoạt-quốc). Ngài lưu lại đấy
1 tháng, rồi đi
đến xứ Bahlika (Phược-yết-quốc),
được xem như một Vương xá nhỏ.
Đi hướng tây bắc chừng 50 lý,
Pháp sư đến
đô thị Tapassu (Đề-vị)
cách đô thị này chừng 40 lý về
phương bắc là đô thị Bhalluka
(Ba-lợi).
Pháp sư đi viếng Yumadha (Nhuệ-mạt-đà)
và Guzgan (Hồ-thật-kiện) ở tây nam Bahlika khi hai vua các xứ này cung
thỉnh Ngài.
Từ Bahlika đi hướng nam, Pháp sư
cùng với Prajnàkara (Huệ-Tánh) một vị sư Cheka (Thước-ca-quốc),
đi đến
xứ Gachi (Yết-chức quốc) và vào núi Đại
Tuyết Sơn ở phía đông nam.
Đi hơn 600 lý, họ ra khỏi lãnh thổ
Tukhara (Đỗ-hóa-la) và vào xứ Bamian
(Phạm-diễn-na-quốc), đường
đi còn khó khăn
hơn những núi tuyết và sa mạc. Cuối cùng Pháp sư
đi đến
kinh đô xứ Bamian (Phạm-diễn-na).
Vua xứ này thết đãi Ngài trong nhiều
ngày. Các vị sư bản xứ vô cùng ngạc nhiên khi Ngài
đến. Rồi Ngài lại ra
đi, trực chỉ hướng
đông nam.
Đi hơn 200 lý Ngài qua núi
Đại Tuyết sơn và
đi vào một thung lũng nhỏ. Sau 15
ngày đường, Pháp sư ra khỏi xứ
Bamian (Phạm-diễn-na). Bấy giờ Ngài gặp một trận bão tuyết và lạc
đường mất 2 ngày.
Đến ngọn núi Tiểu-sa-lãnh, có vài
người thợ săn chỉ
đường cho Ngài và sau khi leo lên
ngọn Hắc-sơn, Ngài đến xứ Kapisa
(Ca-tất-thi). Vua và các vị sư ra đón
rước Ngài. Pháp sư ở lại chùa Salaka (Sa-lạc-ca) trong mùa kiết hạ; ở
đấy Pháp sư chia tay với Ngài
Prajanakara (Huệ Tánh).
Đi hướng
đông hơn 600 lý, Ngài vượt ngọn
Hắc-sơn, đi vào miền Bắc Ấn xứ
Lampaka (Lam-ba-quốc). Sau khi lưu lại đấy
3 ngày, Ngài lại tiếp tục đi hướng
nam và qua một ngọn núi nhỏ. Đoạn
Ngài rời những ngọn núi, qua một con sông,
đi chừng 20 lý thì đến xứ
Nagarahara (Na-yết-la-bát).
Đi hướng
đông nam 10 dặm nữa, Pháp sư qua một
núi cát, và đến
đô thị Phật-Đảnh-Cốt.
Không bao giờ Pháp sư quên không đảnh
lễ Xá-lợi Phật một cách chí thành và cúng tiền vàng, tiền bạc, lụa và tăng
phục cho các chùa.
Từ đô thị Phật-Đảnh-Cốt,
Pháp sư đi chiêm bái bóng Phật trong
một cái động cách thị trấn Dipankara
(Đăng-quang-thành) chừng 20 lý về
phía tây nam. Vì chỗ ấy có nhiều cướp, chỉ một ông già
đi theo Pháp sư
đến đấy.
Trên đường, bọn cướp vây Ngài nhưng
chúng phải khuất phục trước sự gan dạ của Ngài và xin theo Ngài
đến xem bóng Phật. Pháp sư vào
động một mình và thành khẩn cầu
nguyện với tất cả tâm trí, và bóng Phật đã
hiện rõ để cho Ngài
đảnh lễ.
Cùng các bạn đồng hành, Pháp sư
đi về hướng
đông nam hơn 500 lý, giữa vùng
đồi núi hiểm trở, và
đến xứ Gandhara (Kiệm-đa-la).
Cách chùa Kanishka (Ca-ni-sắc-ka) 100 lý về phía
đông bắc, Pháp sư qua một con sông
lớn, và đến
đô thị Puscaravati
(Bố-sắc-yết-la-phạt-để). Từ
đấy Ngài tiến
đến đô
thị Udakakkhanda (Ô-đạc-ca-hán-đà).
Đi thêm 600 lý trèo non vượt suối,
Ngài đến xứ Udyana (Ô-trượng-na).
Đi 250 lý về phía
đông bắc của
đô thị, Pháp sư vào miền núi non và
gặp con suối Apalala (A-ba-la-la-long) vốn là nguồn của sông Subhavastu
(Tô-bà-tát-đổ-hà).
Đi 400 lý về phía nam Ngài gặp núi
Hilo (Hê-la). Cách 50 lý về phía tây đô
thị Mang-laur (Mông-yết-lý), Ngài qua một con sông lớn và qua tháp
Lohitaka (Lô-hê-chớ-ca) cao 100 tấc Anh do vua A-Dục xây.
Đi về hướng
đông bắc của
đô thị chừng 30 tấc, Ngài gặp tháp
Adbhuta (Yết-bộ-đa) bằng
đá cao 30 tấc. Ngài qua một con sông
lớn ở phía tây của ngôi tháp và đi
chừng 3, 4 lý thì gặp đền thờ Quán
Âm Bồ tát.
Về phía nam đô thị Adakakhanda
(Ô-đạc-ca-hán-đà-thành),
Pháp sư qua sông Indus và vào xứ Takshasila (Đán-xoá-thỉ-la).
Ngài qua sông Tín-Đô và
đi 200 dặm theo hướng tây nam,
đến Đại-Thạch-Môn.
Lại đi hướng
đông nam giữa vùng
đồi núi chừng 500 lý, Ngài
đến xứ Urasa (O-lặc-xoa quốc). Vẫn
hướng này, trèo non lội suối khoảng 1000 lý, Ngài
đến xứ Kashmira (Ca-thấp-di-la). Vua
nước này cho người cậu ra đón Ngài
bằng xe ngựa. Ngài lưu lại đêm trong
chùa Huscara (Hộ-sắc-la), ở đấy các
vị sư rất trọng đãi Ngài. Trong vài
ngày, Pháp sư đi
đến kinh
đô, vua và
đình thần
đón tiếp Ngài trong thể. Ở kinh
đô, Pháp sư lưu lại chùa Jayendra
(Xa-da nhân đà la). Ngài ở lại
Kashmir 2 năm
để đọc
kinh luân, và viếng thăm các Phật
địa ở
đấy.
Rời Kashmir, Pháp sư đi về hướng
tây nam chừng 700 lý giữa vùng đồi
núi và đến xứ Rajapura
(Yết-xà-bổ-la). Xuống núi qua một con sông và
đi hướng
đông nam chừng 700 lý, Ngài
đến xứ Cheka (Thước-ka): Sau khi rời
xứ Rajapura (Yết-xà-bổ-la) và đến
đô thị Jayapura (Xà-yết-la-thành).
Hai hôm sau Pháp sư đến
đô thị Sakala (Xa-yết-la-thành).
Từ đấy, Ngài rời
đô thị Narasimba (Na-la-tăng-ha)
và đi vào khu rừng lớn. Ở
đấy Ngài và các bạn
đồng hành bị cướp
đánh phá. May thay Ngài
được cứu an toàn. Hôm sau Ngài vào
miền đông của xứ Checa (Thước-ca
quốc) và đến một
đô thị lớn. Pháp sư ở
đây 1 tháng. Rồi Ngài lại lên
đường về phía
đông 500 lý
đến xứ Cimabhukti (Chí-na-phác-để).
Ngài đến chùa Tosasana (Đốt-xá-tát-ma)
ở lại 4 tháng. Đoạn Ngài tiếp tục
đi về phía
đông nam của
đô thị chừng 50 lý, và
đến chùa Tamasavana (Đáp-mạt-tô-phạt
na).
Bấy giờ Ngài nhắm hướng đông bắc
thẳng tiến. Đi
được 140 lý Ngài
đến xứ Jalandhara (Già-lan-đạt
la), ở lại 4 tháng trong chùa Nagara-dhana (Na-già-la-đà-na).
Từ Jalandhra (Già-lan-đạt la), Ngài
đi hướng
đông bắc 700 lý, qua một ngọn núi
hiểm trở, và đến xứ Kuluta (Khất-lộ-đa).
Đoạn Ngài quay hướng nam
đi 700 lý, qua sông trèo núi
đến xứ Satadru (Thiết-đa-đồ-lư).
Đi 800 lý về hướng tây nam, Pháp sư
vào xứ Paratra (Ba-lý-dạ-đán-ha).
Đi khỏi Paryatra 500 lý về phía
đông, Ngài
đến xứ Mathura (Mạt-thố-la). Ngài
tìm thấy các tháp dựng để thờ các
đại đệ
tử của Đức Phật như ngài
Xá-Lợi-Phất, Ngài Mục-Kiền-Liên, ngài Ma-ha-Ca-chiên-diên, Ưu-ba-ly,
A-Nan, La-Hầu-La v.v... Đi hướng
đông chừng 5, 6 lý nữa, Pháp sư
đến một ngọn
đồi, ở
đấy Ưu-ba-cúc-ta (Upagupta) đã
dựng một ngôi chùa thờ móng tay Phật. Đi
hướng đông bắc thêm 500 lý, Pháp sư
vào xứ Sthanesvara (Tát-tha-nê-thấp-phát-la).
Đoạn Ngài
đi về hướng
đông 400 lý và
đến xứ Srughna (Tốt-lộc-cần-na), vẫn
hướng ấy đi thêm 800 lý Ngài gặp
nguồn sông Hằng. Ngài ở lại xứ này suốt mùa
đông và nửa mùa xuân năm sau
để nghiên cứu Phật pháp. Sau
đó Ngài qua sông
đến bờ phía
đông và vào xứ Matipura (Mạt-để-bổ-la).
Pháp sư ở lại xứ này nửa mùa xuân và trọn mùa hè
để nghiên cứu kinh
điển. Rồi Ngài lại lên
đường đi
300 lý về phía bắc đến xứ Brahmapura
(Bà-la-cốp-ma-bổ-la).
Từ Brahmapura, Ngài đi hướng
đông nam chừng 400 lý, qua xứ
Ahichhatra (A-hê-chế-đán-la) và
đi 200 lý nữa, Ngài qua sông Hằng,
đến xứ Vilasana (Tì-loa-sang-noa).
Đoạn Ngài
đi hướng
đông hơn 200 lý
đến xứ Kapitha (Kiếp-tỉ-tha).
Đi hướng tây bắc 200 lý, Pháp sư vào
xứ Kanyakubja (Yết-nhã-cúc-xà). Ngài đến
chùa Bhadra và ở lại đấy ba tháng
để học kinh
điển. Từ Kanyakubja, Pháp sư nhắm
hướng đông nam
đi hơn 600 lý, qua sông Hằng và
đến xứ Ayodhya (A-du-đà),
ở về hướng nam.
Sau khi chiêm bái các thánh địa ở
Ayodhya, Pháp sư xuôi thuyền ngược sông Hằng cùng với hơn 80 người
đi đến
Ayamukha (A-đà-mục-khư). Thuyền
đi chừng 100 lý, thì bị cướp. Tất cả
bị lột hết quần áo và đồ quí giá.
Bọn cướp thờ nữ thần Durga, nên họ chọn Pháp sư làm vật hy sinh tế thần.
Sự can đảm của Ngài trước cái chết,
sức thiền định sâu xa và bình thản
cao cả của Ngài làm cho bọn cướp ngạc nhiên và kinh sợ. Chúng càng ngạc
nhiên hơn khi một trận hắc phong bỗng nhiên nổi dậy, lật
đổ cây cối thuyền bè. Trước sự thịnh
nộ của thiên nhiên như báo điềm gỡ
ấy, bọn cướp hồi tâm và xin Pháp sư từ bi hỉ xả cho chúng.
Sau khi xuôi thuyền , Pháp sư đi
về hướng đông 300 lý, qua sông Hằng
vào phía bắc và vào xứ Ayamukha (Thiết khẩu).
Đoạn Ngài quay về hướng
đông nam
đi 700 dặm qua sông Hằng về phía bắc
sông Jumna. Ngài đến Brayaga
(Bạt-la-da-già). Từ Brayaga đi về
hướng tây nam Pháp sư gặp một khu rừng đầy
voi và thú dữ. Ngài đi 500 lý
đến xứ Kausambi (Kiều-thường-di). Từ
đấy Ngài
đi về hướng
đông 500 lý,
đến xứ Visoka (Bệ-sách-ka).
Đi về hướng
đông bắc 500 lý, Pháp sư
đến xứ Sravasti (Xá-vệ).
Từ Sravasti (Xá-vệ), Pháp sư nhắm hướng
đông nam đi 800 lý
đến xứ Ca-tỳ-la-vệ. Từ Ca-tỳ-la-vệ,
Ngài đi hướng
đông qua một khu rừng hoang hơn 500
lý và đến xứ Rama (Lam-ma). Từ chùa
Sa Di, Ngài đi hướng
đông qua một khu rừng lớn,
đi 100 lý qua khỏi khu rừng, Pháp sư
đến xứ Kusinagara
(Câu-thi-na-yết-la).
Cách đô thành 3 hay 4 lý về phía
tây bắc, Pháp sư qua sông Ajitavati (A-thị-đa-phạt-để)
và đến rừng Sala (Ta-la) ở bên bờ
sông. Từ đấy Ngài qua một khu rừng
đi hơn 500 lý
đến xứ Varanasi (Ba-la-niết-tư). Sau
khi qua sông Hằng ở Varanasi và đi
về hướng đông 10 lý, Ngài
đến chùa Lộc Uyển.
Rời chùa, Pháp sư dọc theo sông Hằng về phía
đông 300 lý
đến xứ Yuddhapati (Chiến-chư). Từ
đấy Ngài nhắm hướng
đông bắc, qua sông Hằng
đi 140 lý
đến xứ Vaisali (Tì-xá-ly). Ở phía
nam xứ này, Pháp sư qua sông Hằng và sau khi
đi hơn 100 lý, Ngài
đến đô
thị Svetapura (Phệ-đa-bổ-la).
Ngài lại qua sông Hằng đến xứ
Ma-kiệt-đà. Ngài lưu lại một
đô thị nhỏ
để chiêm bái các thánh
địa. Khoảng 6, 7 do tuần về hướng
tây nam, Ngài đến chùa Tiladha có
nhiều pháp sư ở. Họ đều ra
đón tiếp Ngài.
Đi hướng nam 100 lý, Ngài
đến cây Bồ
đề nơi
đức Phật đắc
đạo. Ngài
đảnh lễ cây Bồ
đề và tượng Phật kiết già, với tất
cả lòng thành khẩn. Ngài tự than trách ảo não vì
đã không
được sinh ra vào thời ấy. Lúc bấy
giờ mùa kiết hạ đã qua, nên cũng có
hàng ngàn người tụ tập ở chỗ chiêm bái và cùng khóc theo Ngài. Pháp sư ở
lại 9 ngày để chiêm bái tất cả những
nơi thánh địa trong vùng lân cận.
Sau ngày thứ 10, bốn vị Tỳ kheo đức
độ từ chùa Nalanda
đến chào mừng Pháp sư và rước Ngài
về thăm chùa. Khi Pháp sư
đi vào
địa phận chùa ở trong làng nơi sinh trưởng của Ngài
Mục-Kiền-Liên, 200 vị sư cùng với 1000 cư sĩ
đem cờ lọng hương hoa ra
đón Ngài. Họ
đi vòng quanh chúc tụng Ngài, và
cùng Ngài đi về chùa Nalanda.
Khi Pháp sư đến chùa, tất cả các
Tỳ kheo đều tụ tập
để đón
chào Ngài và đặt Ngài cạnh vị tọa
chủ. Sau khi tất cả đều an tọa, vị
Duy-na đánh một tiếng chuông công bố
rằng Pháp sư sẽ ở lại chùa, được
chia xẻ vật phẩm cúng dường và tiện nghi ăn
ở cùng với tất cả tăng chúng.
Đoạn 20 vị Tỳ kheo
đứng tuổi, thông hiểu Tam tạng và
giới hạnh tinh nghiêm, cùng theo Pháp sư đi
thăm Ngài Giới Hiền (Silabhadra).
Pháp sư đảnh lễ Ngài Silabhadra, vị
này tỏ vẻ hân hoan khi gặp Ngài.
Sau buổi gặp gỡ, Pháp sư lưu lại nhà Giác Hiền (Buddhabhadra) tầng
thứ tư, ngôi nhà nằm trong ngự viên của vua Ấu Nhật (Baladitya). Sau khi
được
đón tiếp trọng hậu trong 7 ngày, Pháp sư
được đưa
đến một nhà khách phía bắc ngôi nhà
của Hộ Pháp Bồ Tát (Dharmapala Bodhisattva), phẩm vật cúng dường mỗi
ngày một tăng. Ngài
được một người hầu và một vị
Bà-la-môn hầu hạ và Ngài không phải làm một việc gì trong tu viện. Mỗi
khi đi
đâu thì Ngài cưỡi voi. Đâu
đâu Ngài cũng
được nể vì quí trọng.
Khi Pháp sư ở chùa Nalanda, Ngài đến
Rajagaha để chiêm bái Cô-lặc-đà-la-củ-tra
(Linh Thứu Gadharkuta), rừng trúc Kalandaka (Trúc Lâm), nơi kết tập kinh
điển
đầu tiên và viếng nhiều thánh địa
khác. Pháp sư ở lại chùa Nalanda 5 năm
để nghiên cứu kinh
điển và vài bản kinh Bà-la-môn.
Từ Nalanda, Ngài đến nước
Hiranyaparrvata (Hạn-noa-bát-phạt-đà).
Trên đường
đi Ngài
đến viếng chùa Kapota (Ca-bố-đức)
và cúng dường hương hoa ở tượng Quán Âm Bồ tát. Pháp sư ở lại nước này 1
năm để
học kinh điển.
Từ đấy Ngài
đi dọc bờ phía nam sông Hằng hướng
về phía đông 400 lý và vào xứ
Kajangala (Yết-châu-ôn-chỉ-la), đi
thêm 600 lý Ngài đến xứ
Punnavaddhana (Bôn-na-phạt-đạn-na).
Ngài lại nhắm hướng đông nam
đi 900 lý và vào xứ Kamarupa
(Ca-ma-lũ-pa). Vẫn cùng hướng ấy Ngài đến
xứ Samatata (Tam-ma-đãn-tra). Từ
Samatata, Pháp sư đi về hướng tây
900 lý, Ngài đến xứ Tamralipti (Đam-ma-lật-đế)
ở gần vịnh biển. Đoạn Ngài
đi hướng tây nam về phía Uda (Ô-đà)
vì Ngài muốn viếng thăm xứ Simhala
(Tăng-già-la). Phía
đông nam của xứ Uda bên bờ bể là
Caritra, một độ thị thương cảng.
Đi hướng tây nam qua một khu rừng
rậm 1200 lý, Pháp sư đến xứ Konyadha
(Cung-ngự-đà). Cùng hướng ấy
đi thêm 1.400 dặm qua một rừng lớn,
Ngài vào xứ Kalinga (Yết-lăng-già).
Từ Kalinga, Pháp sư đi hướng tây
bắc 1.800 lý đến xứ nam Kosala
(Kiều-tát-la). Từ đấy Ngài nhắm
hướng đông nam qua một khu rừng 900
lý và đến xứ Andhra (Án-đạt-la).
Đi hướng nam chừng 1.000 lý, Pháp
sư vào xứ Dhanakataka (Đà-na-yết-kiệt-ca).
Ngài lưu lại nơi này nhiều tháng để
nghiên cứu kinh điển và viếng thăm
thánh địa.
Đoạn Pháp sư nhắm hướng tây
đi chừng 1.000 lý
đến xứ Culya (Châu-lị-la). Từ
đây qua một khu rừng phía nam, Ngài
đi 1.500 lý vào xứ Dravida (Đạt-la-tì-đà),
thủ đô là Kancipura
(Kiến-chí-bổ-la). Từ đấy người ta có
thể xuôi thuyền đến xứ Simhala trong
3 ngày. Nhưng người ta khuyên Pháp sư không nên
đến đấy
vì xứ ấy có nạn đói
đang hoành hành.
Từ Dravida, Pháp sư đi hướng tây
bắc cùng với hơn 70 Tỳ-kheo gốc ở Simhala
để chiêm bái thánh địa. Ngài
đi thêm 2.000 lý
đến xứ Konkanapura
(Cung-kiến-na-bổ-la). Nhắm hướng tây bắc, qua một khu rừng
đầy thú dữ,
đi chừng 2.400 lý, Pháp sư
đến xứ Mahàràstra (Ma-ha-lặc-sá).
Cách 1.000 lý về phía đông bắc,
Pháp sư qua sông Narbada (Nại-mạt-đà)
đến xứ Bharukaccha
(Bạt-lộc-yết-thiếp-bà). Đi hơn 2.000
lý nữa Ngài đến xứ Malava
(Ma-lạp-bà). Cùng hướng ấy đi thêm
2.400 lý, Ngài vào xứ Atali (A-tra-li) sau 3 ngày nữa, Pháp sư vào Kheda
(Khế-ha) và đi 1.000 lý
đến xứ Alabhi (Phạt-lạp-tì).
Vẫn hướng tây bắc, Pháp sư đi 700
lý đến xứ Anandapura (A-nan-đà-bổ-la).
Đi 500 lý nữa Ngài
đến xứ Suratha (Tô-lặc-xá), và
đi 1.800 lý xa hơn là xứ Gucchala
(Cụ-chiết-la). Quay hướng đông nam
đi chừng 2.800 lý, Ngài tới xứ
Ujjayinĩ (Ô-diễn-ni). Lại nhằm hướng đông
bắc đi 1.000 dặm, Ngài
đến xứ Chitore (Trịnh-chỉ-đà)
và 900 lý xa hơn, Ngài đến xứ
Mahesvarapura (Ma-hê-thấp-phạt-la-bổ-la). Từ
đấy Pháp sư một lần nữa
đi vào xứ Suratha (Tô-lặc-xá) về
phía tây. Đi xa hơn Ngài
đến xứ Adinavachila (A-điểm-bà-súy-la).
Đi hướng tây 2.000 lý, Ngài vào xứ
Langala (Lang-yết-la). Từ đây
đi hướng
đông bắc 700 lý, Ngài
đến xứ Pitasila (Ti-đa-chế-la).
Lại đi hướng
đông bắc 300 lý Ngài
đến xứ Avanda (A-xa-đà).
Đi thêm 700 lý
đến xứ Sindh (Tín-độ).
Nhắm hướng đông
đi 700 lý Ngài qua bờ sông phía nam
đến xứ Morasampuru
(Mậu-la-tam-bộ-lô). Đi hướng
đông bắc 700 lý, Pháp sư vào xứ
Parvata (Bột-phạt-đa). Ngài ở lại
đấy 2 năm
để học kinh
điển. Từ Parvata, Pháp sư trở về
chùa Nalanda, rồi từ Nalanda, Ngài viếng chùa Tilandha (Đê-la-trạch-ca)
ở lại hai tháng để học hỏi.
Đoạn Ngài
đi đến
đồi Trượng Lâm ở lại hai năm
để học kinh
điển.
Pháp sư lại đi
đến chùa Bồ
Đề để
xem triển lãm xá lỵ Phật. Sau khi chiêm bái cây Bồ
đề và những thánh cảnh khác trong 8
ngày, Pháp sư quay về chùa Nalanda. Bấy giờ Pháp sư quyết
định hồi hương nên sắp
đặt cuộc hành trình về Trung Quốc.
Vì vua Kumara (Cưu-ma-la) ở Đông Ấn
mời Ngài, Ngài liền đến
đấy và
được vua và đình thần tiếp
đón trọng thể trong hơn một tháng.
Trước sự khẩn khoản của Vua Siladitya (Giới-nhật), Pháp sư và vua
Kumara (Cưu-ma-la) xuôi thuyền dọc Hằng hà cùng với 20.000 ngàn thớt voi
và 30.000 thuyền đến xứ Kajangala
(Yết-châu-ôn-chỉ-la) để thăm
vua Silàditya. Vị vua này cung nghênh Ngài rất trọng thể và không ngớt
lời tán dương công đức Ngài. Vua rất
bằng lòng cuốn sách của Ngài nhan đề
"Chế ác luận", nên vua tổ chức một cuộc thảo luận vĩ
đại ở Kanyakubja (Khúc-Nữ thành)
để Pháp sư có thể
đối đáp
với những ai phỉ báng Đại thừa. Vào
đầu tháng 11, Pháp sư xuôi thuyền
ngược sông Hằng cùng với nhà vua và đến
địa điểm
hội thảo vào tháng Chạp. Trong cuộc thảo luận này, hiện diện có 18 vị
vua của 5 xứ Ấn Độ, 3.000 vị Tỳ-kheo
uyên thâm cả Đại thừa và Tiểu thừa
giáo, hơn 2.000 tà phái Bà-la-môn và Nirgrantha (Ni-kiền-đà)
và hơn 1.000 người Tỳ-kheo của tu viện Nalanda. Trong 18 ngày, không ai
dám bác lời Pháp sư và Ngài đã
được cử làm chủ tọa cuộc thảo luận
để truyền bá
Đại thừa và trình bày ý nghĩa cuốn
sách Ngài đã viết.
Sau cuộc thảo luận, Pháp sư muốn từ giã vua
để trở về Trung Quốc vào ngày 19.
Nhưng vua Siladitya yêu cầu Ngài dự một trai
đàn lớn do vua tổ chức tại xứ
Prayaga (Bạt-la-da-già). Vua rất mừng rỡ
được Ngài nhận lời hoãn lại cuộc hồi hương và
đến ngày 21, Ngài cùng vua
đi đến
chỗ trai đàn. Ở
đấy 500.000 người gồm cư sĩ và tu sĩ
hiện diện. Vua Silàditya hạ trại ở bờ phía bắc sông Hằng, vua
Dhruvabhata (Đổ-lô-bà-bạt-tra) nam
Ấn hạ trại ở phía tây của sông Hằng và sông Jumnà (Diêm-mâu-na), vua
Kumana (Cưu-ma-la) cắm trại ở rừng hoa bờ phía nam sông Jumna còn những
thí chủ thì hạ trại ở phía tây của trại vua Dhruvabhata và những cấp bậc
dưới nữa đi thành hàng theo sau.
Vào ngày đầu, họ dựng tượng Phật
trong thảo đường trong trai
đàn, và cúng dường những phẩm vật
quí giá nhất gồm vàng bạc châu báu, y thực. Trong lễ cúng dường, có trỗi
nhạc và rắc hoa. Chiều đến người nào
về chỗ người ấy. Vào ngày thứ hai, họ lại dựng tượng Surya (Nhật-thiên)
và cúng dường nủa số lượng phẩm vật nói trên, và ngày hôm sau dựng tượng
thần Isvara (Tự-tại-thiên), và cúng dường cũng
đồng số lượng như thần Surya.
Ngày thứ tư là lễ cúng dường 10.000 Tỳ-kheo. Mỗi người nhận 100
đồng vàng, một hạt ngọc trai, một bộ
áo nỉ dạ cùng với ẩm thực, hương hoa. Nhóm thứ năm
là những người Bà-la-môn, lễ cúng dường cho họ mất 20 ngày. Những người
ngoại đạo hợp thành nhóm thứ sáu;
phân phát phẩm vật cho họ mất 10 ngày. Nhóm thứ bảy gồm những người
nghèo cực, cuộc phát chuẩn mất một tháng.
Khi lễ tín thí đã xong, thể lời
mời của vua Siladitya, Pháp sư lại ở thêm 10 ngày. Rồi Ngài quyết
định khởi hành cuộc hồi hưong mặc dù
hai vua Siladitya và Kumara khẩn khoản. Ngài từ chối tất cả tặng vật của
hai vua này và lên đường. Hai vị vua
cùng với nhiều người theo tiễn Ngài nhiều dặm, rồi họ từ biệt nhau. Lúc
chia tay họ không khỏi bùi ngùi rơi lệ.
Pháp sư đi cùng với vua miền bắc
Ấn là Udita (Ô-địa-đa)
mang theo nhiều kinh tượng. Vua Siladitya gởi một con voi lớn, 3.000
đồng tiền vàng, 10.000
đồng tiền bạc cho vua Udita
để trả lộ phí cho Pháp sư. Ba ngày
sau, Vua cùng với vua Kamara và vua Dhruvabhata lại
đến bái biệt Ngài. Vua Siladitya
cũng phái 4 viên quan đem thư viết
trên lụa bạch ấn triện son gởi đến
nhiều xứ ở trên đường Pháp sư sẽ
đi qua, yêu cầu các quan sở tại cung
cấp cho Pháp sư ngựa và người tùy tùng để
đến đất
Hán (Trung Quốc).
Bấy giờ Ngài lên đường về Trung
Quốc. Từ xứ Prayaga, Ngài đi hướng
tây nam, qua một khu rừng rộng, đi
trong bảy ngày vào xứ Kausambi (Kiều-thường-di). Sau khi viếng các thánh
địa, Ngài lại cùng vua Udita
đi về phía tây bắc, qua nhiều xứ và
trở lại thăm thánh tích Thiên Thê.
Chuyến đi này mất hơn một tháng.
Ngài lại nhắm hướng tây bắc đi 3
lý đến thủ
đô xứ Vilasana (Tì-la-na-noa). Ngài
lưu lại hơn hai tháng, gặp hai bạn học cũ Simhaprabha (Sư-tử-Quang) và
Simhacandra (Sư-tử-Nguyệt) rất mừng rỡ đón
tiếp Ngài. Lại đi hướng tây bắc hơn
một tháng, Ngài đi qua nhiều xứ và
đến xứ Jalandhara (Xà-lan-đạt),
Ngài ở lại một tháng. Ở đây Ngài từ
biệt vua Udita (Ô-Địa), vị vua này
cho một người tùy tùng theo hộ vệ Ngài đi
về phương Đông.
Hai mươi ngày sau, Ngài đến xứ
Simhapura (Tăng-ha-bổ-la). Ở
đấy có chừng 100 vị sư theo Ngài,
tất cả đều là người bắc phương, họ
mang theo kinh tượng giúp Ngài đem
về nước. Trong hai muơi ngày, Ngài phải qua một vùng núi non hiểm trở,
có gặp cướp, nhưng đoàn lữ hành
không bị hại gì. Hai mươi ngày sau, họ đến
xứ Takshasila (Đát-xoa-thỉ-la). Ở
đấy vua xứ Kashmir phái một sứ giả
đi mời Pháp sư nhưng Pháp sư từ chối
lấy cớ vì hành lý cồng kềnh. Ngài ở lại đấy
7 ngày rồi nhắm hướng tây bắc thẳng tiến. Trong 3 ngày họ
đến sông Indus (Tín-độ)
rộng 5, 6 lý. Pháp sư cỡi voi lội qua sông, còn bạn
đồng hành và kinh
điển cùng với một ít hạt giống hoa
quý của Ấn Độ thì
đi thuyền qua. Khi thuyền ra giữa
sông, một trận cuồng phong nổi lên suýt
đánh chìm thuyền. Người giữ kinh quá sợ hãi nên té xuống sông
nhưng may được cứu thoát. Năm
mươi bộ kinh bị mất cùng với các hạt giống, số kinh còn lại khỏi mất như
nhờ một phép mầu.
Vua Kapis (Ca-tất-thí) ở đô thị
Udakakkhanda (Ô-đạt-ca-hán-dà) thân
hành đến hỏi thăm
về việc rủi ro này và thỉnh Pháp sư cùng về kinh ở lại hơn 50 ngày.
Để thay thế kinh
điển bị mất, Pháp sư phái vài người
trở lại xứ Udyana (Ô-trưởng-na) để
chép tam tạng giáo điển của môn phái
Kasyapiya (Ca-diếp-tí-da). Khi Pháp sư ở lại
đô thị Udakakkhanda, vua Kashmir
thân đến bái yết và ở lại một ngày
bên Ngài.
Đoạn Pháp sư cùng Vua Kapisa
(Ca-tất-thí) đi về hướng tây bắc hơn
một tháng và đến xứ Lampaka
(Lam-ba). Vua cho hoàng tử đi trước
về để sửa soạn
đón tiếp Pháp sư cho thật trọng hậu.
Khi Pháp sư đến kinh
đô, hàng ngàn người gồm xuất gia và
cư sĩ, cầm cờ lọng ra đón rước, và
ai nấy đều mừng rỡ
được thấy Ngài. Họ quây quần xung
quanh Ngài và không ngớt chúc tụng tán thán Ngài. Pháp sư
được mời ở lại trong một ngôi ngùa
đại thừa và vua tổ chức một trai
đàn trong 75 ngày
để mừng Ngài.
Ngài đi về phía nam trong 15 ngày
và đến xứ Varana
để chiêm bái các thánh tích. Rồi
đi hướng tây bắc, Ngài qua vùng
Avakan. Từ đây, Ngài
đi về hướng bắc suốt 83 dặm và
đến xứ Vrjisthana,
đoạn đổi
sang hướng đông vào tận
địa phận xứ Kapisa. Nhà vua tổ chức
một lễ trai đàn lớn trong 7 ngày.
Sau đấy Ngài
đi về hướng
đông bắc một dặm và
đến đô
thị Grosapam, ở đấy Ngài từ biệt vua
Kapisa. Vị vua này sai cận thần cùng với hơn một trăm
người đem theo lương thực
đi hộ vệ Ngài, vượt qua núi tuyết.
Sau bảy ngày leo núi gian khổ, Ngài đến
đỉnh ngọn Tuyết sơn. Thật không bút
nào tả cho hết nỗi gian lao của Ngài trong chuyến
đăng sơn hiểm nguy này. Ngài phải
dùng gậy để
đi vì không thể cỡi ngựa.
Sau bảy ngày, Ngài đến một dãy
núi cao và xuống một khu làng dưới chân núi, ngủ lại
đấy. Đến
nửa đêm, Ngài lại tiếp tục hành
trình và nhờ một người dân làng làm hướng
đạo, Ngài tránh được những hố
băng, những dòng suối và cuối cùng
qua khỏi dẫy băng sơn ngày hôm sau.
Lúc này đoàn lữ hành chỉ còn lại 7
thầy tu, 20 người hộ vệ, 1 voi, mười lừa, 4 ngựa.
Ngày hôm sau Ngài đến chân núi,
đi qua con
đường khúc khuỷu, Ngài leo một dãy
núi khác ở xa trông như có tuyết phủ, nhưng
đến gần thì chỉ là một dãy núi đá
trắng. Đây là dãy núi cao nhất Ngài
gặp phải mà mây, tuyết không che phủ nổi ngọn
đỉnh. Về chiều, Ngài
đến đỉnh
núi. Đoàn lữ hành lạnh cóng vì gió
và không đứng vững
được. Không có cây cối, thảo mộc,
chim chóc gì, chỉ thuần những khối đá
khổng lồ hiện lù lù cao vòi vọi.
Pháp sư xuống núi từ phương tây bắc và sau khi
đi nhiều dặm Ngài gặp một vùng
đất phẳng và hạ trại ở
đây và nghỉ
đêm. Sáng hôm sau lại khởi hành
đi trong 6 ngày. Ngài xuống núi và
vào xứ Antarava.
Ngài lưu lại 5 hôm, rồi đi về
hướng tây bắc 67 dặm, đến xứ Khost
(Hoát-tất-đa), lãnh thổ cũ của
Tukhara. Tiếp tục hướng tây bắc 50 dặm nữa qua một vùng núi non, Ngài
đến xứ Kunduz (Hoạt-quốc). Pháp sư
được người con cả của Shê-hu Khan
(Diếp-hộ-khả-hãn) đón tiếp và mời ở
lại một tháng. Ông ta cho một người hộ vệ theo Ngài và sau khi
đi về hướng
đông 2 ngày với vài người thương
gia, Pháp sư đi vào xứ Munjan.
Từ Mujan (Măng-kiện), Ngài
đi về hướng
đông 50 dặm Anh qua núi
đồi, và
đến xứ Himatala (Hê-ma-đát-la),
vẫn hướng đông
đi thêm 33 dặm Anh, Ngài gặp xứ
Bakaksan (Bạ-sáng-na). Ngài ở lại đấy
hơn một tháng vì bão tuyết.
Đoạn Ngài
đi về hướng
đông nam thêm 33 dặm Anh,
đến xứ Yamgan (Dâm-bạc-kiện), và 50
dặm đường nguy hiểm khác
đưa Ngài
đến xứ Kurana (Khuất-lang-noa). Từ
Kurana đi về hướng
đông bắc thêm 83 dặm
đường núi, Ngài
đến xứ Termistat (Đạt-ma-tất-thiết-đế).
Từ đấy Ngài
đến xứ Shighni (Thi-diệp-ni) và
Sgamaka (Thương-di), đoạn
đi về
đông 117 dặm đường núi Ngài
đến vùng thung lũng Pamir.
Từ thung lũng này, Pháp sư đi qua
một vùng tuyết phủ hiểm nghèo lối 83 dặm,
đến xứ Kabhanda. Ở đấy Ngài
lưu lại hơn 20 ngày.
Ngài lại tiếp tục hướng đông bắc
trong 5 ngày thì gặp cướp, các bạn đồng
hành của Ngài chạy trốn vào núi và con voi của Ngài bị chết
đuối. Sau khi bọn cướp
đi khỏi, Ngài lại tiếp tục
đi cùng với những thương gia và sau
khi đi 134 dặm Anh, Ngài ra khỏi
thung lũng Pamir đến xứ Usa. Từ
đây Ngài
đi về hướng bắc 83 dặm
đến xứ Kashgar,
đoạn Ngài
đi hướng
đông nam 83 dặm nữa, qua sông Sita,
trèo một dãy núi lớn và đến Chekuka.
Đi hướng
đông hơn 134 dặm nữa, Ngài
đến xứ Kustana, và lưu lại trong 7
ngày. Vua xứ này thân hành đến thăm
Ngài. Hai hôm sau Ngài đi về phía
kinh đô. Vua
đã trở về kinh trước nhưng
để lại hoàng tử
để bảo vệ Ngài. Khi Ngài
đến kinh, vua cùng các Tỷ kheo và cư
sĩ đón tiếp Ngài long trọng bằng âm
nhạc, hương và hoa. Ngài ở lại trong một ngôi chùa thuộc Nhất thế hữu
bộ. Ở đấy Ngài cho vài người tới
Kucha và Kashgar để tìm một ít kinh
điển của Ngài
đã đánh
mất khi qua vùng Indus. Vua xứ Kustana yêu cầu Ngài ở lại ít lâu. Từ
Kustana, Ngài cho một thanh niên ở Cao Xương
đi cùng với thương gia
đem thư về cho Hoàng
đế Trung Quốc báo tin Ngài sắp về.
Sau 7, 8 tháng, sứ giả trở lại với một chiếu chỉ triều
đình,
đại ý nhà vua hết sức mừng nghe Ngài trở về và
đã ban lệnh cho các quan sở tại hộ
vệ và đón rước Ngài. Khi nhận
được chiếu chỉ, Pháp sư lập tức khởi
hành; vua Kustana cúng dường Ngài những thức cần thiết cho cuộc hành
trình.
Sau khi đi 50 dặm, Ngài
đến đô
thị Bhima (Bễ-ma-thành) về phía đông.
Từ đấy Ngài
đi hướng
đông, qua một bãi sa mạc và sau 33
dặm, đến thành Niya vẫn hướng
đông, Ngài gặp sa mạc
Đại Lưu. Nơi
đây không có nước, không có
đồng cỏ,
đường sá, ngoài những bộ xương người
và vật trên lối đi. Sau 67 dặm, Ngài
đến xứ Tukhara cũ, và
đi thêm 100 dặm,
đến xứ Calmadana (Chiết-ma-đà-na)
lãnh thổ của Chemo (Tự-mạt). Đoạn
Ngài đi về hướng
đông bắc 166 dặm nữa
đến xứ Navapa (Nạp-phược-ba-đất)
của Loulan (Lâu Lan), cuối cùng Ngài đến
địa phận Trung Quốc và các người hộ
vệ của Kustana trở về. Khi đến Sa
Châu, Ngài viết thêm một bức thơ cho Hoàng
đế. Vua sai Lương quốc công Phòng Huyền Linh sắp xếp việc
đón tiếp Ngài.
Khi hay tin vua sắp sửa đi viễn
chinh gần sông Liêu, Ngài vội vã trở về gấp và
đến kênh Tào Thượng (Canal). Chính
quyền địa phương không biết cách
đón tiếp ngài nhưng dân chúng nghe
Ngài đến thì hàng ngàn người kéo
đến đảnh
lễ. Những con đường
đông nghẹt không có lối
đi. Pháp sư phải ở lại một
đêm tại Tào Thượng.
Vào tháng giêng mùa xuân niên hiệu Trinh Quán thứ 19 (A, D 645), Tể
tướng Phòng Huyền Linh cử Hầu Mạc Trần Thật,
Đại tướng xứ Hữu Võ Hầu, Lý Thúc
Thông, Tư mã ở Ung Châu, và Lý Càn Hựu, Huyện lệnh ở Tràng An
đi đón
Ngài. Ngài đến Tào Thượng, theo sau
là vô số người, và ở lại tại khách xá ở kinh
đô.
Vào ngày ấy, theo lệnh của chính quyền, nhiều ngôi chùa trong kinh
đô đều
sửa soạn đón tiếp Ngài và rước xá
lợi Phật cùng kinh tượng do Ngài thỉnh về. Dân chúng vô cùng hân hoan,
tranh nhau đến bái yết Pháp sư. Hàng
trăm hương án sắp hàng
để cung nghênh những kinh tượng.
"Vào ngày ấy, các chùa chiền được
lệnh đem cờ lọng và các lễ khí
đến tụ họp ở
đường Châu Tước hôm sau, nghĩa là
ngày 28, để cung nghênh kinh tượng
về chùa Hoằng Phước. Dân chúng hân hoan tranh nhau phô bày các cờ lọng
hương án, xe hoa đẹp
đẽ. Khi các chùa
đã sửa soạn những thứ kể trên
để dùng trong
đám rước, tăng
ni đắp y
đi theo sau, cử nhạc và
đốt hương. Khi họ
đến con
đường đã
định, họ trưng bày hàng trăm
lễ cụ và mang kinh tượng đi thành
hàng cùng với ngọc ngà châu báu và rắc hoa. Không ai trong
đám rước này mà không ca ngợi rằng
đây là một cảnh tượng chưa từng có.
Họ quên cả mệt nhọc bụi bặm trước cơ hội hi hữu này. Từ
đường Châu Tước
đến cổng chùa Hoằng Phước, dân chúng
trong thành phố gồm cả các văn nhân
và quan triều đứng sắp hàng hai bên
đường suốt hơn một dặm
để xem
đám rước. Vì đường quá
đông nên chính quyền ra lệnh dân
chúng không được xê dịch sợ
đạp dẫm lên nhau. Họ
được lệnh
đứng yên chỗ
để rắc hoa và
đốt hương cúng dường. Những làn khói
hương bay lên nghi ngút và những lời chúc tụng vang rền khắp nơi không
ngớt. Ngày xưa khi đức Như Lai giáng
sinh ở thành Ca-tì-la-vệ và khi Bồ tát Di-lặc lần
đầu tiên bay lên cung trời
Đâu Suất, chư thiên
đăng lễ vật cúng dường và
đông đảo
dân chúng vây quanh. Mặc dù dịp này không thể so sánh với những biến sự
lớn ấy của ngày qua, nhưng cũng thật là kỳ diệu, kể từ ngày
đức Thế Tôn nhập diệt."
Pháp sư đã mang về Trung Hoa:
1. 150 hột xá lợi Phật.
2. Một tượng Phật bằng vàng theo mẫu bóng trong hang Long-Khốt
trên núi Chánh Giác ở Ma-kiệt-đà
cao ba bộ bốn tấc Anh gồm cả đế.
3. Một tượng Phật bằng gỗ trầm hương, trình bày
Đức Phật chuyển pháp luân lần
đầu tiên ở Varanasi. Tượng cao 3
tấc 5 Anh kể cả đế.
4. Một tượng Phật bằng gỗ trầm hương mô phỏng tượng trầm hương do
vua Udayana xứ Kausambi tạc, cao 2 tấc 9 Anh gồm cả
đế.
5. Một tượng Phật bạc cao 4 tấc Anh cả
đế, tạc hình
đức Như Lai từ cung Trời giáng
xuống Ca-tỳ-la-vệ.
6. Một tượng Phật vàng cao 3 tấc 5 Anh kể cả
đế, tạc hình
đức Phật
đang thuyết Kinh Pháp Hoa và
những kinh khác trên đỉnh núi
Thứu phong xứ Ma-Kiệt-Đà.
7. Một tượng Phật gỗ trầm hương cao 1 tấc 3 Anh kể cả
đế, tạc hình
đức Phật khắc phục mãng xà ở
Nagaraha.
8. Một tượng Phật gỗ trầm tạc hình Ngài
đi khất thực quanh thành Vaisali
và vài tượng khác.
Về kinh điển, Ngài mang về 224 bộ
kinh đại thừa, 192 bộ luận
Đại thừa, 15 bản của phái Thượng tọa,
15 bản của phái Đại chúng, 15 bản
của pháp Chánh lượng, 22 bản của phái Di-sa-tắc, 17 bản của phái Ca-diếp-tỉ-la,
42 bản của phái Pháp mật, 67 bản của phái Nhất thiết hữu, 36 bộ Nhân
minh luận, 13 Thanh minh luận, tổng cộng 520 hòm có 675 cuốn. Ngài phải
dùng 20 ngựa để mang tất cả.
Và thế là chấm dứt cuộc tây du thần kỳ hy hữu của Pháp sư. Ngài ra
đi vào tháng tư niên hiệu Trinh Quán
thứ 3 (629 sau kỷ nguyên) vào lúc 26 tuổi từ Tràng An cho
đến Vương Xá. Ngài
đã đi
hơn 8.333 dặm Anh (khoảng 10.000km) và đã
mất tất cả 17 năm trước khi về
đến Trung Quốc.
---o0o---
|
Phần 1 |
Phần
2 |
Phần
3 |
Phần
4 |
Phần
5 | Phần
6