|
. |
ĐỨC
PHẬT
VÀ HÀO QUANG CHÂN LÝ
(The light of truth)
The Singapore Maha Bodhi School xuất bản
***
Giảng sư
LOKANATHA
Phỏng dịch TT Thích
Giải Thông
--- o0o
---
06
ÐẠO PHẬT:
TÔN GIÁO CỦA BIỆN CHỨNG
VÀ KHOA HỌC.
Tối hôm nay, tôi đã được yêu
cầu thuyết giảng bài Pháp sâu sắc hơn bởi vì họ nói có một số học giả
đến nghe, và các vị này cũng đã nghe mãi đề tài Tứ Diệu Ðế của các giảng
sư khác rồi. Vì vậy đêm nay chúng ta sẽ cống hiến cho họ điều gì mới mẽ,
điều gì kích động tâm tư của họ để họ có thể tư duy làm sung mãn thêm
kiến thức của mình.
Người ta cho rằng–theo Kinh
Phật–ai hiểu được Thập Nhị Nhân Duyên, người đó mới hiểu được Giáo Pháp
của Như Lai. Nhưng nếu vị đó không hiểu 12 nhân duyên tức là vị đó
chưa hiểu Phật Pháp. Tôi sẽ không đi sâu vào 12 khâu nhân duyên
mà tất cả quý vị đã biết. Tôi sẽ cố gắng nêu lên một cách giải thích
theo khoa học kiểu Tây phương. Tôi sẽ cố minh họa bằng những từ hóa học
vật lý luật Nhân duyên sinh cổ điển được
Ðức Phật giảng cách đây 2500 năm.
Ðức Phật khởi đầu
bằng câu nói: “Mọi hiện hữu đều bất nguồn từ Vô minh”. Chúng ta hãy
phân tích toàn thể vũ trụ một cách khoa học, chúng ta tìm thấy gì: Thế
giới bao gồm nhiều phân tử, phân tử bao gồm nhiều nguyên tử. Nguyên tử
có điện tử và Proton. Ðiện tử và Proton là phần nhỏ của điện lực. Ðiện
lực là gì? Ðó là năng lượng. Năng lượng đến
từ đâu? Từ sự chuyển động. Nếu mọi vật đều đứng im sẽ không có năng
lượng. Vậy chuyển động từ đâu mà đến.
Chuyển động đến từ lực hút và lực đẩy, tức là đến và đi. Lực hút
và đẩy đến do đâu? Do từ ái dục. Bởi vì
bậc Alahán không có ái dục nên các Ngài không bị lực hút và đẩy.
Ái dục đến từ Vô minh. Vô minh là gì? Vô minh là không có trí
tuệ. Trí tuệ là gì? Trí tuệ là có. Không có cái có là gì? Không có cái
có là không. Chẳng phải kỳ diệu sao! Bằng phương tiện hóa lý, chúng ta
đã đi đến vô minh như là cội nguồn của thế
giới một cách chính xác, tương tự như đường lối của Ðức Thế Tôn cách đây
2500 năm. Ngài cũng bắt đầu bằng vô
minh và trói buộc với thế giới trần gian trong đau khổ. Trong khoa học
cũng vậy, chúng ta khởi đầu từ vô minh. Vô minh sinh khởi ái dục. Ái dục
phát sinh sức hút và đẩy. Sức hút và đẩy phát sinh lực chuyển động.
Chuyển động sinh khởi điện lực. Ðiện lực bao gồm điện tử và
Proton. Ðiện tử và Proton tạo thành nguyên tử. Nguyên tử tạo thành phân
tử và phân tử tạo thành thế giới. Có kỳ lạ không! bằng cách nào mà khoa
học hiện đại lại đồng ý với Phật Giáo cổ
xưa.
Ðức Phật thuyết giảng sự không
hiện hữu của linh hồn. Không có linh hồn đối
với Phật Giáo. Bởi vì Đức Phật nói: mọi
trạng thái tâm thức đều vô ngã. Không có cái Ta thường hằng bất
tử. Chỉ có một ý thức hằng chuyển, không bao giờ giống nhau trong hai
khoảnh khắc liên tục. Con người là ngọn lửa đang
cháy, nó có nhiều nhân tố cũng đang bừng cháy. Nhân tố nào? Thân xác,
cảm giác, cảm nhận, rung động và ý thức. Chúng không bao giờ
giống nhau trong hai khoảnh khác liên tiếp, bởi vì sự sống là động
chứ không phải tịnh. Tất cả đều trôi chảy. Hãy nhớ, các nhà tâm
lý học người Mỹ đồng ý rằng con người chỉ là một ý thức hằng biến. Không
có gì bất biến cả. Vì vậy khi qua Mỹ, điều
đó sẽ không khó cho tôi để hóa đạo cho người Mỹ. Bởi vì các nhà
khoa học và tâm lý học đã nhất trí rằng không có gì thường hằng nơi con
người. Các yếu tố thân xác, cảm giác, tri giác, tư duy và ý thức đều
luôn luôn trôi chảy, chúng chẳng bao giờ giống nhau trong hai khoảnh
khắc liên tục, không có gì mà không thay đổi. Bởi vậy khi tôi nói với
các nhà tâm lý học bên Mỹ rằng không có gì bất diệt nơi con người và
rằng tất cả yếu tố đó đang trôi chảy liên
tục. Những nhà tâm lý đó sẽ nắm được vấn đề
ngay lập tức. Ðiều làm cho các nhà khoa học mất 2500 năm
mới đạt được và đi đến cùng quan điểm
với Ðức Phật đã đạt được cách đây 2500 năm
trong ánh sáng Giác Ngộ độc đáo.
Trên thế giới có vô số tôn
giáo. Mỗi tôn giáo đều dạy học thuyết linh hồn bất diệt. Phật Giáo là
tôn giáo duy nhất dạy Giáo Pháp vô ngã–không có linh hồn. Không có gì
bất diệt nơi con người, bởi vì mọi vật đều chịu quy luật vô thường. Từ
đó, Phật Giáo là một tôn giáo độc
đáo trong số các tôn giáo trên thế
giới. Bởi vì nó là tôn giáo duy nhất đồng ý
với khoa học hiện đại. Nghĩa là con người chỉ là một ý thức luôn
luôn biến đổi, không bao giờ giống nhau trong hai niệm tưởng liên tục.
Thế nên khoa học hiện đại
đã trải đường cho công cuộc hoằng Pháp của tôi. Thật dễ dàng cho
tôi làm sao! Khi sang Mỹ, tôi sẽ nói với các nhà tâm lý học Mỹ: những gì
mà quý vị đã đạt được hôm nay thì
Ðức Phật đã đạt được cách đây 2500 năm.
Bạn không tin vào một linh hồn bất diệt. Phật tử chúng tôi cũng không
tin vào linh hồn bất diệt. Vì vậy nếu bạn muốn một điều gì đó có tính
khoa học thì hãy trở thành Phật tử. Bởi vì Phật Giáo là tôn giáo khoa
học dành cho những đầu óc khoa học.
Thế còn
vấn đề Niết Bàn? Niết Bàn là gì? Trong Phật Giáo Niết Bàn là điều
tối quan trọng. Người ta thường ngộ nhận về ý niệm Niết Bàn. Họ không
biết Niết Bàn là gì. Tối hôm nay tôi sẽ cố nêu lên cho quý vị một cái
nhìn khái quát về ý nghĩa Niết Bàn. Tôi đã nói với
quý vị ngay từ đầu rằng thế giới bắt nguồn từ vô minh. Tôi đã nói
vô minh là không có trí tuệ. Trí tuệ là có. Vắng mặt cái có là không.
Vậy thế giới này là không.
Không có gì trong bàn tay tôi
cả. Tôi muốn hủy diệt cái không trong bàn tay. Làm thế nào
đây? Chỉ có một cách có thể chấp nhận được. Ðó là chúng ta hủy
diệt cái không trong bàn tay không phải bằng các phương tiện
không, bởi vì không thì không thể trừ cái không
được. Chúng ta diệt trừ cái không chỉ bằng cái có. Ðó, các
vị thấy! Tôi đã đặt vật có trong tay
tôi và cái có này giờ đây đã
diệt trừ (làm mất) cái không trong tay tôi trước đó. Bởi vì cái có
(tương đối) là
vắng mặt cái không.
Thế gian là không, Niết Bàn là
có thực. Thế gian là giấc mơ, Niết Bàn là trạng thái thức tỉnh. Thế gian
là bóng tối, Niết Bàn là ánh sáng. Vì vậy nếu tất cả từ bỏ cõi đời này
thì trần gian bị hủy diệt, tức là vô minh bị hủy diệt. Sự hủy diệt này
gọi là thiện Pháp. Hủy diệt vô minh là trí tuệ. Hủy diệt cái hư ảo là
thực. Lúc thế gian bị diệt trừ, lúc tất cả người ta trở trành những nhà
tu thì quả lợi lạc vô cùng. Bởi vì diệt trừ được cái không thực là đạt
được Niết Bàn đích thực. Ðó là một sự chuyển hóa hạnh phúc. Chúng
ta hân hoan diệt trừ bóng tối để được ánh
sáng. Chúng ta vui mừng đoạn diệt cơn mơ để tận hưởng trạng thái
tỉnh thức của Niết Bàn tối thượng. Chúng ta phấn khởi loại bỏ được
trần gian trống rỗng để đạt Niết Bàn chân thực. Ðó là sự chuyển
đổi thuận lợi. Mong rằng ngày đó sẽ đến khi
mà tất cả chúng ta đều là những nhà Sư và trần gian bi thảm này
sẽ nhường bước cho Niết Bàn an vui. Niết Bàn là hạnh phúc thù thắng.
Nguyện cầu tất cả quý vị sớm hưởng được hạnh phúc tối thượng!
Tôi vừa trình bày phần giới
thiệu ngắn có tính khoa học để vài nhà khoa học trong số thính chúng hôm
nay có thể mãn nguyện những ưu tư mà quý vị đó mang
đến đây. Nhưng nếu cứ tiếp tục giảng giải như thế này suốt một giờ chỉ
nói về những đề tài khoa học trừu tượng, tôi e ngại đa số sẽ không nắm
bắt được những ý nghĩa của khoa học.
Tôi còn nhớ một vị Cao Tăng nọ
ở Tích Lan tên là Thượng Tọa Vajiranyana, một hôm Ngài thuyết bài Pháp
rất sâu về tâm lý Phật Giáo, sau khi giảng xong, các bà lớn tuổi vừa rời
phòng giảng vừa cằn nhằn: "Ối! Học thức gì vị Cao Tăng
đó, chúng tôi không hiểu một chút gì trong bài giảng của ông ta
cả".
Giờ đây, tôi không muốn đưa ra
một ấn tượng tương tự đối với thính chúng như vị thượng Tọa Cao Tăng đó.
Tôi không muốn có người bỏ ra về và nói: "Ối? Tài ba, uyên bác gì
nhà Sư đó. Chúng tôi không hiểu lấy gì một lời nói bài Pháp của ông ta".
Nhớ rằng Ðức Phật thuyết Pháp cho số đông
quần chúng chứ không phải chỉ dành cho một số ít trí giả. Thế
nên, vì lòng từ bi tôi phải làm hoan hỷ mọi người. Tôi đã tặng thức ăn
khoa học cho bậc trí giả và giờ đây tôi bắt
đầu tặng cho quần chúng bình dân.
* DIỆT TRỪ THAM ÁI
Tham ái là mối nguy hại của
thời đại. Làm sao diệt trừ được?
Người ta diệt trừ tham ái bằng
cách ăn ít, ngủ ít, sống chay lạt, đạm bạc, đọc Kinh sách Phật, sống
trong môi trường thanh thoát, thân cận bậc Chân Tăng cao thượng, thiền
quán về sự ghê tớm của thân xác lúc sống và khi chết. Quan sát
trong chánh niệm (thiểu dục, tri túc–ít muốn, biết đủ). Tham ái sanh
khởi vì nghĩ rằng thân này đáng yêu. Khi chúng ta nhận ra rằng thân này
chỉ là phân thối, tham ái tan biến ngay. Thân thể chúng ta đây bao gồm
32 phần bẩn thỉu như sau: tóc trên đầu, lông trên thân, móng, răng, da,
thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, bầy nhầy, lá lách, phổi, ruột
non, ruột già, bao tử, phân, óc, não, mật, đờm, máu mũi, mồ hôi, chất
béo, nước mắt, mỡ, nước miếng, nước mũi, nhớt, nước tiểu...
Nếu tóc trên đầu rơi vào cơm,
canh, nhất định cơm, canh sẽ bị đổ đi vì
ghê tởm. Vì vậy những bộ phận của cơ thể mà rơi vào đều làm cho ta chán
ghét. Vậy mà những bộ phận còn dính trên thân thể thì có vẻ xinh đẹp là
do tham ái làm mờ mắt.
Tôi phải nêu lên câu hỏi. Bởi
vì có đặt câu hỏi chúng ta mới kích động ý
tưởng. Quý vị giải thích thế nào về sự kiện tóc ở trên đầu
có vẻ đáng yêu. Trong khi thực sự cũng loại tóc đó rơi vào dĩa
súp, cơm, canh làm ta ghê tởm, chán ghét? Theo quan điểm khoa học
cả hai loại tóc đều là giống nhau, dù rằng nó còn dính trên
đầu hay rơi vào thức ăn, tóc vẫn là tóc.
Làm thế nào người ta ngưỡng mộ
tóc trên đầu nhưng lại ghê sợ tóc trong thức ăn?
Khác nhau điều gì? Xét về phương diện hóa chất, chúng rõ ràng
giống nhau. Nhưng tại sao chúng ta lại yêu thích cái này nhưng lại ghét
bỏ cái kia? Tôi không hiểu là có nhà khoa học nào trong số thính chúng
tại đây có thể nói lên một sự giải thích khoa học nói về hiện tượng kỳ
lạ này. Bởi vì đề tài thuyết giảng hôm nay là "Phật Giáo là tôn giáo của
biện chứng khoa học". Vì vậy tôi hy vọng các nhà khoa học trong số thính
chúng đây nêu lên câu giải thích cho hiện tượng kỳ lạ này. Vị nào có thể
giải thích được tại sao? Không ai
trả lời cả. Dù sao đây là câu trả lời vì đó là phận sự của tôi phải giải
thích. Ðây nhé! Nếu bạn dùng một nồi nấu nước, khi nước bắt đầu sôi, bạn
khó mà thấy rõ được cái bọt của nước. Chừng nào nước nguội, lặng ta mới
có thể thấv rõ các bọt nước bên dưới.
Tương tự khi tóc đang sôi sục
khắp nơi vì tham ái, khó mà nhận rõ chúng đúng như thật tướng. Do
vì con mắt đang bừng cháy cuồng nhiệt với lòng tham ái, bám chặt vào tóc
uế nhiễm ghê tởm trên đầu con người, tóc có
vẻ xinh đẹp. Trái lại khi người ta tìm thấy trong
đĩa súp, tóc có vẻ uế nhiễm ghê tởm. Vì tâm lúc
đó nguội lạnh không có tham ái chen vào thế nên dĩa súp ghê tởm
phải đổ đi. Chính sự đam rnê đã che
mờ con mắt, khiến mắt không thấy rõ.Vì vậy khì ta nhìn tóc trên đầu với
con mắt bị che mờ. Nên không nhìn rõ các sự vật uế nhiễm đúng như thực
tướng của chúng.
Khi tóc thực sự ghê tởm, nó lại
có vẻ xinh đẹp, nhưng khi tóc nằm trong
thức ăn–không có tham dục trong mắt–lúc mở mắt ra ta thấy rõ tóc như
thực trong canh nhờ diệt bỏ đam mê
cảm xúc, và nhờ vậy ta thấy rõ tính chất ghê tởm của tóc–do khi ăn ta không
khởi tham ái. Từ đây trở đi, chúng ta thấy tóc là phát khiếp, rồi
lập tức hoặc là đổ bỏ thức ăn, hoặc là
vớt tóc ra nếu muốn tiết kiệm. Nhưng chưa hết bất hạnh, ngay khi ta vớt
tóc ra rồi ta vẫn còn cảm giác ghê sợ dù rằng lúc đó không còn tóc trong
thức
ăn. Bởi vì ta vẫn còn ấn tượng rằng tóc vẫn còn ở đó trước kia. Quý
vị có thấy không, khi ta mở mắt, viễn ly tham ái khiến ta thấy rõ các sự
vật đúng như thực tướng của chúng. Mặt khác, khi bị tham ái che khuất
mất. Ta ngưỡng mộ mái tóc trên đầu. Nhưng nhớ rằng tóc vẫn là tóc dù nó
ở trên đầu hay trong thức ăn. Nó thực sự có
cùng bản chất uế nhiễm như nhau.
Ðiều tương tự không phải chỉ
cho tóc trên đầu mà còn áp dụng cho lông trên thân, răng,
móng, da. Khi răng còn nằm trên những lỗ chân lông (nướu răng)
của một cô gái đẹp chẳng hạn, các thi sĩ sẽ đánh bóng lên đầy vẻ đam mê
ngưỡng mộ. Lúc đó thi sĩ sẽ diễn tả: Nàng có hàm răng
tuyệt đẹp như vòng ngọc trai. Vậy mà khi chiếc răng rơi vào tô
canh, bạn sẽ phải đổ đi vì cảm giác
ghê rợn. Hãy nhớ răng thực sự đều giống
nhau dù nằm trên nướu răng ở miệng hay khi nó rơi ra. Trong một
trường hợp là do có sự đam mê, trường hợp kia không có đam mê chen vào.
Vì vậy, chúng ta nên nhìn sự vật theo đúng
thật tướng của chúng. Có vậy sau đó bạn mới ghê tởm 32 phần còn
lại trong thân thể dù là chúng đang còn trên thân thể hay rơi ra ngoài,
chúng đều như nhau. Vậy thì nhờ xả bỏ chứ không phải chấp thủ thân của
người khác không chấp thủ thân mình. Chúng ta trở nên ly dục hoàn toàn.
Dục vọng khi bị tiêu trừ, chúng tà sẽ đạt
được niềm an vui an sung mãn, đó là Niết Bàn tối thượng.
Một xác chết được phơi bày
ra ngoài trời vài ngày là một đề tài tham thiền tuyệt diệu. Cái xác chết
chướng phồng lên, tím đen với những bầy côn trùng nhun nhúc từ 9 lỗ bò
ra làm cho ta ghê tởm bản chất ô nhiễm của thân xác. Chúng ta nên ngồi
xuống và tự đồng hóa mình với thi thể khiếp đảm, quán chiếu như sau:
Như ta nay còn đây,
vị kia đã có lần như ta. Như vị ấy bây giờ, ta cũng lại như thế!
Do quán chiếu cách này, niệm tưởng sau cùng sẽ bừng dạy trong ta rằng
thân này là cái xác buộc vào cổ chúng ta, chúng ta chán ghét cái thân
này và thân người khác. Ðây là cách diệt trừ tham ái vĩnh viễn.
Cái thân còn sống này được
nung nấu bằng chất đốt và tiến trình trao đổi
chất. Nhờ vậy tránh được sự phân hủy làm mục rữa. Nhưng thật ra
cái thân còn sống hay thân chết đều có như nhau, tính chất ghê tởm đáng
được ghét bỏ. Hãy nhìn những thân thể người cùi hủi. Họ nhơ nhớp
làm sao.
Khi mọi tham ái được diệt trừ
hoàn toàn, người ta chứng đạt Niết Bàn, có nghĩa là không còn
tham ái.
Niết Bàn là trạng thái tươi mát
tối thượng. Tham ái là ngọn lửa dữ dội trong các ngọn lửa. Khi tham ái
chấm dứt, ta đạt được trạng thái tối
thượng. Trong Phật Giáo có 40 đề mục thiền quán được gọi là Quán về
thân. Trong số 40 đề mục thiền quán, không dưới 10% hay 25% được ngưỡng
mộ là tham thiền nơi nghĩa địa. Ngày xưa, xác chết được ném ra bãi tha
ma, nghĩa địa. Các nhà Sư có được cơ may tuyệt vời để thực hành
tu tập quán tử thi hay là thiền định về xác chết uế nhiễm, hôi tanh
trong tất cả 10 giai đoạn phân hủy thi hài.
Nhưng ngày hôm nay do những luật lệ vệ sinh, xác chết không được
quăng ra ngoài nữa. Họ phải chôn hay hỏa táng. Và do vậy mà các
nhà Sư mất đi cơ hội tuyệt vời thiền quán trên xác chết ghê tởm trải qua
10 giai đoạn phân hủy, tan rã thân xác. Từ đó
trở đi, ta thấy rằng các vị Alahán ngày nay rất ít, bởi vì họ đã
bị tướt đoạt cơ hội thực hành quán tử thi.
Tuy nhiên, lúc tôi còn ở
Rangoon, tôi quyết định thực hành pháp Quán tử thi. Tôi nghĩ, nếu một
sinh viên y khoa bình thường được có một
xác chết trong phòng thí nghiệm giải phẫu để thí nghiệm cơ thể con người
thì tại sao những Bác sĩ tinh thần, tức là những nhà Sư lại không
được có những cơ hội tương tự để nghiên cứu
những xác chết trong khi đang còn trong tình trạng phân hủy. Tôi
cố gắng hết sức mình để xin nhà cầm quyền Miến Ðiện thiết lập một nghĩa
địa tại nghĩa trang, nơi đó có nhiều xác
chết có thể được phép phân hủy một cách tự nhiên để cho các nhà
Sư diệt trừ tham ái nhờ thiền quán về sự uế nhiễm của thân xác. Tôi
đã hầu như sắp thành công trong việc thành lập những phòng mổ thiền
định. Lúc chiến tranh đã xảy ra, tuy
nhiên ngay trước chiến tranh, tôi đã hợp đồng với Bác sĩ phẫu thuật của
Tổng Y viện ở Rangoon và nói với ông ta: "Bất cứ khi nào Bác sĩ tìm thấy
một xác chết dưới sông, vui lòng gọi cho tôi biết, tôi sẽ xuống nhận,
bởi vì tôi phải thực tập 10 đề mục quán tử thi do Ðức Thế Tôn chỉ dạy
nhằm hủy diệt tham ái". Bác sĩ phẫu thuật trả lời: "Vâng! Thưa Thượng
Tọa, tôi sẽ gọi Ngài chắc chắn mà!". Ðủ bảo đảm lời hứa của ông ta. Và
một ngày nọ tôi vội vã đến Tổng Y viện, tôi
gặp vị Y sĩ phẫu thuật, ông ta hướng dẫn tôi đến nhà xác. Ở đó có một
xác chết trương phình lên dễ khiếp! Một thi hài trương phình lên
là mẫu hiếm có, bởi vì nó chỉ kéo dài 24 tiếng thôi. Xác chết phồng lên
như quả bong bóng, hai mắt phồng lên, hai gò má phồng lên, cái bụng
phồng lên, chân tay cũng phồng lên. Tôi bảo Bác sĩ đặt
một chỗ ngồi không xa lắm, đóng cửa phòng và cho phép tôi tập
trung về xác chết ghê tởm. Tôi muốn chụp một bức ảnh nhưng không có máy.
Vì vậy tôi sáng chế máy ảnh tâm thức bằng cách tập trung chú ý vào tử
thi. Tử thi thì đầy những ruồi, tôi che kín thân bằng chiếc y của tôi,
bởi vì những con ruồi cứ bay lãng vãng quanh tôi. Có lẽ chúng nghĩ rằng
tôi là xác chết. Tuy nhiên tôi vẫn tiếp tục tập trung chú ý vào tử thi
khoảng nửa giờ. Tôi đã thực hiện xong bức ảnh tâm thì đến
giờ ăn sáng. Tôi bước ra khỏi xác phồng. Và khi tôi khởi sự thọ trai
dưới bóng cây tôi cảm thấy tôi đang ăn cái xác phồng đó, cho nên
ăn không ngon chút nào. Ðó là bài Pháp của Ðức Phật rằng mọi thể xác đều
uế tạp, ghê tởm. Chúng ta phải nhận thức được
bản chất tử thi, bản chất đáng ghê tởm của thân xác. Và vì vậy,
hãy từ bỏ thân xác, từ bỏ tham ái. Ðó là Niết Bàn, là sự vắng bóng tham
ái.
Phật Giáo là gì? Phật Giáo là
sự rèn luyện tâm. Ðức Phật tặng ta cục xà phòng tinh thần để
tẩy đi những ý tưởng nhơ bẩn. Xưa có một nhà Sư không thể tập được quá
nhiều giới luật, muốn về đời, Ðức Phật hỏi: "Một mình con có thể
thực hiện được một điều không?”. Sư trả
lời: “Thưa được! Bạch Ðức Thế Tôn". Ðức phật dạy: "Hãy quán sát
tâm, hãy kiên trì với phạm hạnh của mình". Vì vậy Sư làm theo lời dạy
của Phật, nghiêm mật canh chừng tâm, không bao lâu Sư chứng Alahán. Nếu
bạn quán sát tâm bạn cũng sẽ đạt Niết Bàn. Tôi sẽ giải
thích đoạn kế tiếp bằng cách nào để quán sát tâm.
Cái tâm thức lang thang dong
ruổi–trạng thái trạo hối như nạn nhân đang nằm giữa hai hàm răng nanh
của dục vọng–tính lười biếng, hôn trầm là cơ xưởng của ma quái.
Vậy bạn phải quán sát tâm cho
đến khi tâm thuần tịnh. Ta sẽ đắc chứng Niết Bàn vĩnh cữu.
Chúng ta lại cũng nên ăn càng
ít càng tốt, cốt giữ cho thân xác sống còn. Bởi vì cũng như ta ném quá
nhiều than vào lò, thì lò trở nên nóng hực, sức nóng của dục càng dâng
cao. Một ngày chỉ dùng một bữa trước giờ ngọ.
Đó là quy luật an toàn nhất. Nếu ta ăn nhiều vào ban đêm chỉ làm
cho khát dục càng tăng trưởng mà thôi.
Hãy sống và để cho người khác
sống yên lành. Hãy coi mọi sinh vật như là bà con láng giềng của ta. Tất
cả sinh mạng đều như một, yêu thương hàng xóm tức là yêu thương chính
mình. Thù ghét người bên cạnh là ghét bỏ chính mình.
Vấn đề ngủ cũng cần giới hạn.
Chúng ta ngủ càng ít càng tốt. Bạn thử quán chiếu, thế giới đang
bừng cháy, làm sao ta ngủ được trong căn
nhà đang bốc cháy đó. Lại nữa, trái tim của con người không bao
giờ ngủ, tại sao tâm thức cứ ngủ mãi. Tâm thức không mạnh bằng trái tim
sao. Khoa học đã chứng minh rằng tâm là kẻ độc
quyền điều hành cơ thể. Tại một cơ quan tổ chức xã hội Smith
Sonian ở Washington người ta làm một cuộc thử nghiệm bằng con người. Cho
anh nọ vào khung chuồng và nhịn đói trong 40 ngày. Dĩ nhiên tổ chức phải
trả thù lao xứng đáng cho anh ta với số
tiền đó anh ta mới chịu cho cuộc thử nghiệm kỳ lạ này. Các bộ phận cơ
thể được cân đo trước và sau đó. Kết quả sau 40 ngày tuyệt thực,
người ta thấy gan thận và các bộ phận khác lại giảm đi
phân nữa so với lúc đầu, trong khi não bộ hoàn toàn không khác
trước kia. Tất cả bộ phận đã tự hy sinh để giữ cho não bộ còn nguyên
vẹn.
Như vậy não bộ mạnh hơn trái
tim, lẽ ra phải hoạt động ít nhất không
thua gì trái tim thường xuyên vận động. Bởi vậy tâm thức phải làm
việc chứ không nên ngủ nhiều.
Bạn thấy đó, ngủ quả là
một thói quen xấu của tâm. Ðức Phật xưa kia mỗi ngày chỉ ngủ một giờ 20
phút và suốt trong thời gian 1g20 phút này. Ngài vẫn thức tỉnh hoàn
toàn. Ban đêm không phải để ngủ mà là để tu tập. Hãy nhớ rằng tất cả bậc
Thánh vĩ đại đều chứng ngộ Ðạo quả
vào ban đêm.
Suốt đêm, Ðức Phật thành
Ðạo tối thượng thừa dưới cội cây Bồ Ðề tại Buddhagaya. Khởi đầu của thế
giới, nếu không có ban đêm, tôi đoán chắc người ta có thói quen ngủ mãi.
Nhờ sự kiện mặt trời lặn và bóng tối tràn khắp. Những lớp người đầu tiên
cõi trần gian sơ khai này nói: "Ôi! Mặt trời đã đi rồi, chúng ta nằm
xuống chờ ông ta trở lại, bởi vì trời đang
tối. Nhưng nếu lúc đó có hai mặt trời. Một có suốt ban ngày và
một có suốt ban đêm thì chắc là trời chỉ có ban ngày chứ không bao giờ
có ban đêm. Napoléon Bonaparte chỉ ngủ có bốn giờ một ngày. Vì vậy nếu
bạn muốn tiến lên tầm mức cao hơn, hãy tự tập ngủ càng ít càng tốt. Bởi
vì bạn nhớ rằng, kẻ cướp thường lấy cắp vào ban đêm. Tài sản lớn nhất
của bạn là gì? Ðó là Ðức Hạnh. Ðức Hạnh là tài sản vĩ đại nhất. Vậy thì
tại sao bạn lại cho phép kẻ khát ái–một thứ cướp nguy hại nhất–vào nhà
ban đêm để cướp Ðức Hạnh– thứ tài sản cao quý nhất của bạn. Nếu trái tim
bắt đầu ngủ, bạn sẽ được đưa ra lấp đất tại
nghĩa trang. Còn tâm sao lại không. Sao bạn không cho phép tâm nghĩ. Nếu
trái tim đập nhồi máu cả ngày lẫn đêm, cả đêm lẫn ngày thì tại
sao não bộ lại không hoạt động cả đêm
lẫn ngày, cả ngày lẫn đêm. Nếu trái tim có thể làm việc liên tục thì tâm
thức cũng có thể làm việc không cần nghỉ chứ. Giản dị là ta cần bỏ thói
quen ngủ nhiều.
Cố gắng rèn luyện tâm, tinh tấn
làm việc, bạn sẽ hiểu cách ngủ ít nào mà tâm
thực sự cần đến. Bởi vì như Ðức Phật đã dạy trong lời sau cùng.
Nhờ nhiệt tình mà thành đạt mục dích. Ðây là tinh hoa của Ðạo Phật. Toàn
bộ Phật Giáo có thể giải thích bằng một từ Pali "Appamada" nghĩa là
"tinh tấn mãnh liệt". Không có tinh tấn sẽ không có Niết Bàn. Hãy tinh
tấn rèn luyện tâm thức tu tập đêm ngày bạn sẽ thành tựu những gì mà Ðức
Phật đã thành tựu.
Có 13 phép tu khổ hạnh đặc biệt
trong Phật Giáo gọi là Hạnh Ðầu Ðà (Dhutanga). Pháp tu khổ hạnh
do Ðức Phật chỉ dạy trong số 13 pháp là ngủ trong tư thế tọa thiền. Ðức
Phật cho phép ngủ trong tư thế tọa thiền. Bởi vì ngủ trong tư thế này
thì đầu trở nên nhẹ, máu và các phần tử nặng chảy xuống do lực hấp dẫn,
con người luôn luôn tinh tấn, sẵn sàng tọa thiền mà không hề bị hôn trầm
(buồn ngủ).
Hôm nay tôi đang trải qua với đề
tài "Bất Hại". Tôi đã thuyết giảng đề tài này trong 2 giờ đồng hồ rồi,
một giờ cho tôi và một giờ cho thông dịch viên. Nhân đây
tôi xin kể cho quý vị nghe câu chuyện về một bé trai người Singapore bị
rắn độc cắn. Người cha cầm cái rìu định
giết con rắn độc. Ðứa con sắp chết liền xin cha tha mạng cho rắn,
và vì lời cầu mong lúc sắp chết của đứa
con, người cha bắt buộc phải tuân theo. Con rắn bỏ đi mất và người con
chết liền sau lúc đó. Người con chết vì nọc rắn, đã cứu mạng con
rắn cắn mình. Ðây là quy luật "Bất hại". Bé trai đó tha mạng sống và
không muốn kết oán thù. Ðây là bài học chúng ta nên noi gương hành động
như người Phật tử chân chính. Chúng ta sẵn sàng cống hiến mạng sống của
mình cho mọi sinh vật và không nên nuôi dưỡng hận thù trong tâm mình.
Như quý vị đã biết, chúng tôi
đang trên đường hoằng pháp tại Mỹ, khắp cả nước Mỹ. Có thể quả là
niềm vui chung khi thấy Phật Giáo phát triển khắp thế giới nhờ công tác
hoằng pháp lợi sinh. Chúng ta nên cổ vũ bất kỳ một Phật tử nhiệt tình
nào hộ trì đối với hoạt động vinh quang này.
Không có công tác hoằng pháp sẽ không tôn giáo nào lâu dài. Phát triển
là khỏe mạnh, thiếu thốn là bệnh hoạn. Chúng ta hãy phát triển để
được khỏe mạnh. Món quà chân lý là món quà vĩ đại nhất trong tất
cả. Phật Giáo là một tôn giáo khoa học cho tâm thức khoa học.
Giờ đây là thời điểm lý tưởng,
sau thế chiến thứ hai, những người Mỹ có đầu óc khoa học sẽ sẵn sàng
ôm lấy Phật Giáo khoa học. Họ nồng nhiệt mong chờ quả bom nguyên tử của
tình yêu. Ngôi chùa cao chọc trời vô song của chúng ta tại Nữu ước cống
hiến cho hòa bình thế giới, chắc chắn sẽ đưa thế giới lên đỉnh
cao. Những năm 2500 chúng ta sẽ thấy Phật Giáo vươn lên và chúng
tôi phải khởi hành ngay từ bây giờ bằng cuộc hoằng pháp sang Mỹ và trên
khắp thế giới để làm cho sự phát triển này thành một hiện thực sống
động.
Hãy nhớ rằng chúng tôi sắp phải
qua phương Tây, mang thông điệp vô song này của Ðức Thế Tôn cho người Mỹ
đang khát khao Phật Pháp. Trái lại những nhà truyền giáo Thiên Chúa đi
đến
phương Đông để tặng tôn giáo của họ cho chúng
ta. Chúng tôi sắp qua các nước phương Tây để trao đổi cho nhau hay dâng
tặng món quà tín ngưỡng Phật đạo tại nơi đó. Nhờ sự trợ duyên
thích hợp này tạo thêm thiện chí và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc
gia trên thế giới. Nhớ rằng sự thiếu thốn về thực phẩm tinh thần là
nguyên nhân của chiến tranh. Thực phẩm tinh thần cần có mỗi ngày cho tâm
thức. Ðừng bận lòng chỉ lo có thực phẩm vật chất, bởi vì một người không
phải sống chỉ có ăn. Mỗi ngày trẻ em nên tiếp
nhận thực phẩm tinh thần. Chúng phải được huấn luyện trong tình
thương yêu của Ðức Phật. Trẻ em phải được
dạy dỗ giáo pháp. Chúng phải được đi học ở các trường Bồ Ðề. Tâm hồn mềm
yếu của chúng không để cho bị lợi dụng làm mốt thời trang hay bị
uốn nắn bởi
ý đồ của ngoại nhân. Vì họ có thể trao đổi ngay cả tín ngưỡng của họ cho
chúng ta do ảnh hưởng ngoại lai.
Vì vậy quý vị hãy gởi con em
của mình đến học tại các trường Phật học Bồ Ðề để trường có thể giữ mãi
những đứa con Phật của quý vị. Ðạo Phật nhờ vậy sẽ mãi mãi phát huy và đứng
vững. Tôi đang hoạt động ở các nước phương Tây để chuyển hóa đạo Phật
đến với họ. Còn quý vị đang sinh hoạt ở phương Ðông làm sao bảo
đảm rằng các con em của mình tiếp thu được
một nền giáo dục Phật đạo hoàn hảo. Bởi vì Ðức Phật là bậc Thầy
vĩ đại nhất trong tất cả các bậc Thầy.
Ðể kết thúc bài giảng, tôi xin
có lời tán thán hạnh nguyện kiên trì cao đẹp của quý vị. Trong khi lắng
nghe rất lâu bài Pháp thật dài này, chắc chắn quý vị sẽ hưởng được
nhiều công đức nhờ thưởng thức được món ăn tinh thần, mà tôi đã không
cống hiến được bao nhiêu, lại nữa, quý vị còn phải tiêu hóa món ăn
tinh thần đó, nên khi về nhà phải tư duy một số việc đã tiếp thu
hôm nay và cố gắng tiêu món ăn tinh thần đó
mỗi ngày cho đến khi tất cả các ngọn lửa của sáu giác quan đều dập tắt.
Lúc đó quý vị sẽ tận hường niềm hỉ lạc tịch tĩnh, nơi không còn
tham ái. Ðây là Niết Bàn: niềm an vui tối thượng.
--- o0o
---
Mục Lục|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|7
|
8
|
9
|
10|
11|
12
|
13
--- o0o ---
|
Thư Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính : Mỹ Hồ
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật
ngày: 01-05-2002
|
|