|
. |
ĐỨC
PHẬT
VÀ HÀO QUANG CHÂN LÝ
(The light of truth)
The Singapore Maha Bodhi School xuất bản
***
Giảng sư
LOKANATHA
Phỏng dịch TT Thích
Giải Thông
--- o0o
---
11
GIÁO PHÁP BẤT DIỆT
Thật khó được tái sanh làm
người. Nếu bạn chỉ nhận biết tái sinh làm người quả là một đại nhân
duyên thì chắc chắn bạn sẽ tận dụng hết đời mình như một con người có
được ngày hôm nay. Bởi vì nếu một người bị tái sinh làm con vật, chỉ
biết nhai nuốt thì vị đó sẽ đi từ cảnh giới
đọa lạc này sang cảnh giới đọa lạc
khác còn tệ hại hơn, hoặc từ tình trạng bi đát này đến tình trạng
bi đát hơn nữa, cho đến khi vị đó lạc dần
đến tầng đá sâu thẳm của trạng thái hiện hữu gọi là địa ngục. Tại sao
vậy? Bởi vì khi một người tái sanh làm con vật, vị đó không thể
nào tu tập năm học giới được.
Tôi đoan chắc rằng một con sư
tử không biết năm học giới là gì; cả loài dê, loài cá hay cá sấu
cũng vậy. Chúng chỉ đơn giản biết rằng phải
đấu tranh để sống còn; vì mọi sự đều
đúng luật theo tính cách luật rừng của chúng. Thế nên bạn phải cố
gắng hết sức mình. Giờ đây bạn đã được tái
sinh làm người, đừng dể bị đọa xứ ở một cảnh giới thấp kém hơn. Hãy đảm
bảo cho sự giải thoát của mình. Nếu bạn không thể nỗ lực chứng đạt Phật
quả tối thượng thì ít nhất bạn cũng quyết tâm
để trở thành một bậc Nhập Lưu–Tu Ðà Hườn. Như vậy bạn mới có thể
được cứu thoát khỏi những kiếp tái sanh thấp kém hơn trong những tình
huống xấu hơn. Bởi vì nếu bạn trở thành một bậc Tu Ðà Hườn (Nhập Lưu)
bạn sẽ còn tái sinh nhiều nhất 7 lần nữa và luôn luôn
được tái sinh kiếp người chứ không bị bất hạnh tái sinh làm loài
vật.
Ðạo Phật không phải là tôn giáo
vô thần hay hữu thần. Nếu bạn nói đạo Phật là vô thần thì vô thần với ý
nghĩa rằng Ðức Phật không phải là người sáng thế. Nếu bạn định nghĩa
thần như là người tạo ra trời đất thì Ðạo Phật là đạo vô thần. Bởi vì
trong Ðạo Phậl chúng ta không có thần là kẻ sáng tạo. Nếu như bạn nóỉ
thần là người tự làm cho mình toàn hảo thì đạo Phật là tôn giáo duy nhất
có Thần. Bởi vì trong Ðạo Phật chúng ta có Thái Tử Tất Ðạt Ða; Người đã
tu tập và chuyển hóa chính mình thành Phật. Và Ngài là vị thần thanh
tịnh, vì Thần tối cao trong tất cả. Vì lẽ đó chúng ta gọi Ðức Phật là
Trời của các Trời, Thần của các vị Thần. Vậy thì kẻ sáng tạo là ai? đó
là lòng tham ái tạo ra. Sự sáng tạo này đồng
nghĩa với khổ đau. Bất cứ lúc nào, việc gì được tạo nên thì đau
khổ được tạo nên (cái này sinh thì cái kia sinh). Ðạo Phật không
sáng tạo mà đoạn trừ sáng tạo và đau khổ.
Chúng ta phải đoạn diệt trần gian để đạt Niết Bàn, phẩm hạnh đoạn dỉệt
đau khổ và cống hiến hạnh phúc vĩnh cửu. Người ta đạt được Niết Bàn
bằng cách nào? Niết Bàn là đoạn tuyệt tham, sân, si. Làm sao chấm dứt
được tham ái, sân hận và ngu si? Bằng phương pháp bố thí, trì giới và
thiền định, chúng ta đạt được tâm không tham,
tâm không sân, tâm không si. Ðó là Niết Bàn, hạnh phúc cao vời nhất.
Chúng ta đạt được Niết Bàn
bằng cách quán sát tâm. Bởi vì lời dạy của chư Phật là làm trong sạch
tâm. Một khi tâm được chuyển hóa ta mới đạt
được Niết Bàn. Niết Bàn cũng đạt
được nhờ sự nhận thức rằng con ngườì chỉ là năm hợp thể (ngũ
uẩn). Khi nào chúng ta nhận thức được con người chỉ là năm hợp thể, và
biết từ bỏ năm hợp thể đó ta sẽ đạt được
phước lạc vô biên. Tại sao năm hợp thể này phải nên từ bỏ, bởi vì
chúng vốn vô thường, khổ, vô ngã. Thân này không phải của ta, cảm thọ
(cảm xúc) này không phải của ta, tri giác (cảm nhận) này không phải của
ta, rung động (khuynh hướng) này không phải của ta và ý thức này không
phải của ta.
Sáng nay vị thông dịch viên của
tôi nói rằng anh ta bị con chó cắn nơi tay, nhưng vốn là một Phật tử,
khi nhận ra rằng "sắc" này không phải của mình, anh ta hoàn toàn tự tại
coi thường vết chó cắn. Nếu anh ấy nói: "sắc này không phải của tôi.
Thân xác này không thuộc về tôi. Cái đầu này không thuộc về tôi, tay
chân này cũng không phải của tôi". Tại sao sắc uẩn lại không phải của
anh ta? Bởi vì thân thể là đất nước, gió, lửa, và khoảng không. Quý vị
có thể nói: "Ðây là nước của tôi hay đây là đất,
hoặc đây là gió, đây là lửa, là khoảng không của tôi" không? Vì
vậy người thông dịch vốn biết rõ rằng năm hợp thể này không phải của anh
ta, liền từ bỏ 5 hợp thể. Năm hợp thể này cắn năm hợp thể kia. Tại sao
lại phiền não về năm hợp thể vốn chúng là vô ngã. Không có chủ nhân và
không có tự tính nên năm uẩn này không phiền não năm uẩn kia. Dĩ nhiên
anh ta đã đến y sĩ, tôi cho rằng anh ấy đã
thực hiện điều đó một cách buông xả, hoan hỷ.
Tuy nhiên nếu chúng ta nhận
thức được rằng năm uẩn (năm hợp thể) không
phải là của ta thì chúng ta sống một cách an lạc, vô nhiễm không
còn sự đau khổ nào.
Một hôm Ðức Phật ngỏ lời với
Chư Tăng, Ngài dạy: "Này các vị Tỳ Kheo! Các ông có thấy những cành cây,
các ông có thấy những nhánh cây và lá cây nơi Ðại Tu Viện Savatthi
không?" Chư Tăng trả lời: "Thưa có thấy, bạch Ðức Thế Tôn". Ðức
Phật hỏi tiếp: “Giả sử có người phải đốt lửa và góp nhặt những nhánh cây
để đốt, các ông có phiền não gì không?". Chư Tăng trả lời: "Thưa
không, bạch Ðức Thế Tôn! Chúng con không giao động gì nếu các cành, các
nhánh cây bị đốt". Ðức Phật dạy thêm: "Tương tự như vậy này các Tỳ Kheo?
Thân này không phải của các ông. Vì thân này không phải của các ông nên
đừng phiền não nếu có vấn đề gì xảy ra cho thân thể mình".
Nếu các uẩn đều vô thường, nếu
các uẩn (các tập uẩn) vào ra thì có một sự cải biến liên tục nơi
các hợp thể; các hợp thể này trôi chảy liên tục trong thân và ngoài thân
từng phút giây do hơi thở, do bay hơi, do trả lời tiếng gọi của thiên
nhiên, các hợp thể luôn luôn lá vào nơi thân xác. Vì vậy khi nhận thức
được sự trôi chảy liên tục của các hợp thể,
ngay cả lúc đó phải nên buông bỏ các hợp thể, và nhờ buông xả ta
được giải thoát an lạc. Không những chỉ có xác thân này được từ bỏ mà
cảm giác, tri giác, tư duy, ý thức cũng vậy. Chúng đều vô ngã như những
cành nhánh ở ngoài sân giống như chúng ta không chấp thủ bám víu vào
việc đốt các cành cây thì chúng ta không bận tâm gì việc đốt cháy thân
xác này. Vì rằng nếu chúng ta có bị thiêu sống trên giàn hỏa, chúng ta
chỉ hồn nhiên, không xúc động, không bị ràng buộc vào sự việc. Chúng ta
bị trừng phạt trên thế gian này là do chúng ta bám víu vào những vấn đề
không thuộc về chúng ta. Chúng ta bị trừng phạt vì chúng ta còn bám vào
sắc thân gọi là cái của chúng ta. Nếu tôi hỏi: "Bạn đã trả bao nhiêu
tiền cho thân xác của mình, bạn sẽ trả lời sao?"
Bạn mua nó không tốn tiền và vì
mua thân này không tốn tiền thì làm sao bạn gọi nó là của mình. Bạn đã
không mất đồng nào mua nó vì không tốn tiền mua, nên nó không thuộc về
bạn và bạn không nên bám víu vào nó. Bạn phải luôn luôn sẵn sàng đánh
mất thân này, cái thân mà bạn không phải trả tiền. Hãy nhớ, nếu bạn đánh
mất thân này thì lập tức bạn sẽ có một thân khác. Tại sao buồn lo về
việc mất thân khi bạn có thể có nhiều thân khác. Ðã có bao nhiêu thân
xác mà bạn đánh mất trong nhiều kiếp qua? Vô số thân. Nếu số xương
cốt của bạn trong nhiều kiếp qua được thu góp lại, chúng sẽ tạo thành
một hòn núi to hơn những hòn núi ở Hy Mã Lạp Sơn. Nếu những giọt nước
mắt mà bạn đã tuôn ra được gom chứa lại chúng sẽ tạo thành nhiều hơn bốn
biển đại dương. Nếu những dòng máu của bạn
tuôn ra được gom chứa lại, chúng sẽ tạo thành nhiều hơn bốn biển
máu mà bạn đã mất trong nhiều kiếp qua. Vì lẽ đó bạn nên viễn ly hoàn
toàn và đừng quan tâm về thân xác.
Không ai có thể sát hại Ðức
Phật. Vị Phật tối thượng thì không thể bị sát hại. Bạn có thể gom 100
súng máy bắn ra cùng một lượt vào Ðức Phật, điều này không có hiệu quả
gì cả. Tại sao? Bởi vì một vị Phật tối thượng chỉ tịch diệt do năng lực
ý chí của Ngài. Chỉ khi nào Ðức Phật quyết định nhập diệt, Ngài sẽ nhập
diệt, còn trước đó thì không. Ðó là lý do tại sao khi Ma vương, ác ma
cám dỗ, tiến gần đến Phật, yêu cầu Ngài nhập diệt, Ðức Phật sau khi
chứng ngộ đã nói: "Ta sẽ không bao giờ nhập diệt cho đến khi nào khắp
thế gian được quy y Phật đạo và các nam nữ
đệ tử của Ta quán triệt Giáo Pháp một cách thông suốt từ đầu đến cuối
thì lúc đó và chỉ lúc đó ta mới nhập diệt”.
Ma vương là một kẻ rất quỷ
quyệt. Hắn vốn không thích Ðức Phật, bởi vì hắn muốn là kẻ thống trị thế
gian này. Ma Vương là ai? Hắn là Thiên ma, vị thần của sáu giác quan. Hắn
muốn mọi người đều dưới quyền lực cai trị của mình. Ðức Phật vẫn
nỗ lực cứu vớt mọi người thoát khỏi nanh vuốt của hắn và vì vậy đã có
một cuộc so tài bất hạnh. Ma Vương sẽ rất vui vẻ nếu Ðức Phật tịch diệt.
Năm Ðức Phật 80 tuổi, Ma vương
lại đến một lần nữa và nhắc Ðức Phật về lời hứa của Ngài dưới cội
Bồ đề trước kia. Ðức Phật trả lời: "Lành thay Ma Vương? Vui lên đi,
ta sẽ tịch diệt trong sáu tháng nữa kể từ đây”. Ma Vương trả lời: “Thưa
Ngài! Ngài đã nói với tôi rằng khi nào các đệ tử của Ngài liễu
ngộ toàn bộ Phật Pháp Ngài sẽ nhập diệt. Giờ đây
tất cả đệ tử đã thấm nhập Giáo Pháp, xin Ngài giữ lời hứa mà Ngài
đã nói với tôi dưới cội Bồ Ðề. Xin Ngài hãy nhập diệt". Ðức Phật trả
lởi: "Hãy vui lên Ma Vương! Ta sẽ nhập diệt sau ba tháng nữa". Và khi
Ðức Phật tuyên cáo điều này, trái đất rung
động nhiệm mầu. Ðúng ba tháng sau Ðức Phật nhập diệt. Ngài đã giữ
lời hứa. Ðức Phật biết bằng thần lực như ý túc, ngài nhập diệt không
phải do thức ăn hay vật gì. Ðó là năng lực ý chí của Ngài. Ngài phải
nhập diệt vì Ngài đã quyết định nhập diệt chứ không ai có thể làm cho
Ngài phải nhập diệt, ngoại trừ chính Ngài. Ngài nhập diệt bằng cách nào?
Ngài nhập Thiền–xuất nhập Thiền và đi sâu vào Tứ thiền và rồi Ngài tự
mình tịch diệt.
Có một câu hỏi: "Nếu Ðức Phật
là một con người, tại sao Ngài lại hành động như một vị thần?". Ngài là
vị thần vì Ngài đã hành động như một vị thần.
Thế còn Niết Bàn là gì? Niết
Bàn là dập tắt ngọn lửa tham, là trạng thái tuyệt đối
tươi mát, nơi đó tuyệt đối không có lửa. Vì vậy khi ta đạt được Niết Bàn,
không có gì bị hủy diệt cả, ngoại trừ những ngọn lửa, nghĩa là lửa tham,
lửa sân, lửa si, lửa buồn rầu, kêu ca, khổ đau và tuyệt vọng. Bởi vì sự
sống không khác gì hơn là sự bừng cháy. Người nào thích sống, thích cháy
liên tục, điều đó có nghĩa là vị đó
thích sống trong địa ngục vĩnh cửu. Niết Bàn là giải thoát ra
khỏi ngọn lửa và thoát ly mọi địa ngục mãi mãi. Vì vậy Niết Bàn là hạnh
phúc tối thượng.
Niết Bàn không phải hư vô, hủy
diệt. Niết Bàn là thực tại, Niết Bàn là thực tại tối thượng của chân lý
bất biến. Niết Bàn là ánh sáng. Thế gian là bóng tối. Nếu có ai yêu cầu
bạn mô tả về đường (chất ngọt) thì bạn sẽ trả lời sao? Ðường màu trắng
và nếm thì ngọt. Nhưng nếu bạn đặt một chút
đường trên đầu lưỡi của bạn, bạn sẽ hiểu tất cả về đường; điều này thực
tế hơn bất cứ định nghĩa nào về đường. Cách tương tự chúng ta có thể mô
tả về Niết Bàn, nhưng nó phải được nếm trước khi bạn có thể hiểu một
cách đúng đắn nó là gì. Giống như nếm đường, chúng ta phải chứng
nghiệm Niết Bàn. Ngôn ngữ hạn chế không thể nào giải thích được Niết Bàn
vốn vô tận và đòi hỏi một ngôn ngữ quảng bác hơn. Niết Bàn là hủy diệt
ngũ uẩn (5 hợp thể) vốn là không. Ðồng thời vắng lặng cái không
là có. Chân lý thì trường tồn chứ không không phải hư vô,
không có gì.
Ðến đây tôi xin nói qua về thân
giáo và sự chuyển biến tâm thức của mình. Nghệ thuật thuyết giảng là
giảng thuyết những gì bạn thực hành. Và hãy thực hành những gì bạn giảng
thuyết. Khi một Giảng sư thuyết Pháp như vậy, thính chúng sẽ hưởng ứng
và tin tưởng nơi sự thành thật của vị đó Hồi còn ở Mỹ, lúc mớỉ có 8 tuổi
tôi thường đi đánh nhau với những đứa trẻ
khác và tôi đã thắng. Sau đó tôi khởi ý tưởng muốn trở thành một
võ sĩ quyền anh, một người hùng thắng giải, nhưng nay thì tôi đã chuyển
ý, mong trở thành một người chiến thắng
tinh thần để hàng phục vô minh ngu độn. Lúc còn nhỏ tôi thích vẽ
tranh và tranh của tôi cũng được mọi người tán ngưỡng. Thế là tôi muốn
mình trở thành nghệ sĩ; nhưng nay thì tôi muốn mình trở thành một nghệ
sĩ tâm linh. Bởi vì nghệ thuật làm chủ bản thân mình mới là nghệ thuật
vĩ đại và cao quý nhất. Khi tôi còn là thanh niên tôi cũng thường hay
chơi vĩ cầm và ước mong mình sẽ là một nhạc sĩ; nhưng nay thì tôi thích
mình trở thành một nhạc sĩ tâm linh để hát lên bài trường ca chân lý,
đúng như tôi đang thực hiện bây giờ. Bởi vì
bài ca chân lý là ca khúc du dương êm dịu nhất của tất cả–bởi vì khi bạn
nghe loại nhạc thông thường nơi radio, làn sóng âm thanh phát ra những
âm sóng làm khoái cảm màng nhĩ, cho bạn một cảm giác âm thanh đó rồi
sóng âm thanh đó lại tắt. Một hạt sóng chạm
đến màng tai rồi ngưng tắt. Hạt sóng kế cũng đến và đi. Quả là điên đầu,
những tiếng đập liên tục của màng nhĩ do sóng âm thanh phát ra.
Bạn có thể tưởng tượng âm nhạc du dương nhất chỉ là những tiếng dập do
các sóng thanh phát ra đập vào màng
nhĩ chứ không gì khác cả. Vậy tại sao chúng ta lại bận tâm về một chút
chuyển động của không khí. Nếu ai đó phân
tích âm thanh theo tri kiến vật lý, chắc chắn vị đó sẽ nhàm chán
loại âm thanh này. Bởi vì các pháp; nếu nhìn đúng thực tướng của chúng
thì đáng ghê tởm và cần loại bỏ. Thế nhưng chỉ có bài ca chân lý mới quả
là khúc hát thiên thu bất diệt.
Thật là diễm phúc cho tôi khi
từ bỏ được ngành hóa học tầm thường này. Nay tôi mới nhận ra rằng ngành
hóa chất này đã bị người ta
khai thác, sử dụng hóa chất để chế tạo bom nguyên tử. Tôi vui mừng đã
giải nghệ trước khi các loại bom nguyên tử được chế tạo bằng kiến thức
hóa học nguy hại.
Thời đó có lần tôi muốn trở thành
Bác sĩ nhưng khi làm việc trong phòng thí nghiệm tôi mới chợt nghĩ rằng
mình phải giết không ít những con ếch, mèo, chó trong lớp sinh lý khoa
học này, vào thời điểm tôi đang nghiên
cứu Phật Pháp. Tôi tự nhủ mình có thể là một Phật tử tốt hay là một Bác
sĩ; mình không thể nào trở thành cả hai được. Nếu hành động sát hại sinh
vật là khởi đầu cho một nghề thì hậu quả của nghề này là gì? Có lẽ đó là
sự sát hại chúng sinh hữu tình. Một sự khởi đầu
đã tạo nhân xấu, bảo đảm cho quả xấu lúc kết thúc. Vì vậy tôi tự nghĩ
nếu khởi đầu cho nghề y là sát hại sinh mạng những con vật nơi
phòng thí nghiệm thì mai sau sẽ dẫn đến việc giết hại con người, nghĩa
là nếu chúng ta huân tập nghiệp sát, giết hại con vật nhỏ bé hơn, sẽ
trưởng thành nghiệp sát giết hại lần lượt những sinh vật cao to nhất
trong tất cả chủng loại động vật.
Bây giờ tôi muốn trở thành một
bác sĩ Tâm linh nên phải từ bỏ nghề Y sĩ trần tục này. Y sĩ tâm linh cấp
thuốc trường sinh cho con người. Khi bom nguyên tử thả xuống thành phố
Hiroshima và Nagasaki, các bác sĩ hối hả chạy đến
đó để cấp cứu nạn nhân, nhưng họ đã quá trễ. Bom đã ném xuống rồi, các
bác sĩ tầm thường đó làm được gì?
Bác sĩ tâm linh vẫn tin rằng
ngừa bệnh vẫn hơn là chữa bệnh. Chúng ta chữa bệnh tham, sân, si. Nếu
bệnh tham, sân, si được điều trị thì
sẽ không có bom nguyên tử. Và nếu không có bom nguyên tử thì cần gì phải
tàn ác xử lý con người. Ðó là chứng bệnh tâm thần gây nên sự cố tàn phá
và hủy diệt. Nếu chỉ dùng kiến thức y khoa thì sẽ không bao giờ đáp
ứng nỗi sự hủy diệt do đầu óc khoa học gây ra. Vậy thì con đường duy
nhất mà ta có thể tránh khỏi sụp đổ
thế giới bằng cách kết chặt bên nhau giữa khoa học và năm
Giới điều Phật Giáo. Nếu năm Giới điều và khoa học đi song song nhau thì
thế giới sẽ được cứu nguy khỏi bị tàn phá. Nếu để khoa học độc diễn một
mình không có năm Giới điều phụ họa thì chắc chắn thế giới sẽ đi
đến chỗ điêu tàn phá sản. Thuốc giải độc
duy nhất đối với khoa học hủy diệt là năm Giới điều Phật Giáo. Bởi vì
Giới điều không có gì khác hơn là tình thương yêu vô lượng đối
với loài người và loài vật.
Nay tôi muốn trở thành chiến sĩ
tâm linh giao chiến với mặt trận nội tâm chống lại tham, sân, si chứ
không phải là mộl võ sĩ thường tình trên võ đài. Tôi muốn thành một nghệ
sĩ tâm linh bằng sự thực hành nghệ thuật chinh phục mình. Tôi muốn là
một nhạc sĩ tâm linh trình diễn khúc nhạc
chân lý bất diệt như đang thực hành hiện nay. Tôi muốn mình là
nhà hóa học tâm linh, phân tích chính con người mình vốn là loài tinh
thể phức tạp nhất, bởi vì hiểu được chính mình là hiểu được toàn thế
giới. Tôi muốn trở thành bác sĩ tâm linh chữa trị
bệnh tâm thần cho nhân loại. Bệnh tham, sân, si đang thiêu đốt toàn
thế giới. Ðây là những nghiệp vụ cao quý nhất mà tôi đang kỳ vọng. Tôi
cũng biết rằng nghề Sa Môn KHẤT SĨ không cho phép ta nói láo, bởi vì tôi
rất ghét sử dụng ngôn ngữ không thành thật, nay thì tôi rất hài lòng với
nghề Sa Môn sau cùng của tôi. Tôi không cần thí nghiệm gì nữa bất cứ
nghề nào khác. Ðây đúng là chính nghiệp của tôi. Tôi nhận ra rằng tôi
sinh ra là để thuyết giảng Phật Pháp cho các nước Tây phương vốn không
hiểu biết gì về Phật Giáo.
Hãy làm cái nghề mà bạn đã huân
tập kiếp trước, tôi tin rằng mỗi người đều
có một năng khiếu trong một số nghề nghiệp của mình. Ngay như một
người hèn kém nhất cũng có đặc khiếu về một số nghề nghiệp của mình nếu
vị đó biết được các nghề mà chính
mình đã huân tập (nghề đó). Sự phiền muộn mà người ta gặp phải là vì họ
luôn luôn chọn lầm nghề, các nghề mà họ chưa từng huân tập–và do đó họ
hay bị sai lầm và không có thiện xảo. Chúng ta vẫn thấy những Bác sĩ làm
thợ mộc và những thợ mộc lại làm Bác sĩ. Ðó là thảm kịch của tính cách
con người. Nhưng nếu ai nghiệp dĩ là thợ mộc, hãy thực hành nghề thợ
mộc, và những ai nghiệp dĩ là Bác sĩ, hãy theo nghề nghiệp y dược, họ sẽ
trở nên rất thiện xảo nơi đường lối chuyên nghiệp của mình. Chúng ta nên
cố gắng thực hành nghề nghiệp tương tự mà chúng ta thường thực hành
trong quá khứ–thiện nghiệp kiếp xưa. Hãy thực nghiệm cho đến
khi bạn thấy được sự thực hành hoàn hảo nhất. Tôi phải thực
nghiệm bằng phương pháp tùy thuận cho đến khi tôi khám phá ra các nghề
mà tôi đã sản sinh ra trước kia. Bất hạnh thay cho con người họ bám chặt
vào cái nghề đầu tiên mà họ chộp được chứ chẳng hề thực nghiệm tìm ra
nghề nghiệp nào thuận lợi nhất cho mình. Thế nên họ luôn luôn tồn tại
những nghề tầm thường vụng về không bao giờ
cất đầu lên nổi. Mọi người đều có thể thiện xảo trong nghiệp vụ nếu vị
đó chọn đúng cái thiện nghệ của mình mà đã huân tập trước kia.
Hãy nương theo các khuynh hướng trước kia bạn sẽ hoàn thành những điều
kỳ diệu dù chỉ cần một ít nỗ lực hoặc không cần. Bạn hãy hình dung một
ít hơi nước do pittông đẩy đi cùng chiều,
lôi được một đầu máy xe lửa và cả toa xe. Tại sao vậy? Bởi vì hơi
nước được đẩy chuyển cùng một chiều,
cùng một lúc. Bạn thấy đó, có phải thống nhất là sức mạnh. Tất cả không
khí tập trung vào một điểm, nó tạo nên
sức mạnh kinh khủng. Ðịnh một chút mà chuyển hóa toàn thế giới là vậy.
Hôm nay đã hơn hai ngàn
năm trăm năm, có bao nhiêu phật tử
trên quả cầu này, và có bao nhiêu người đang thực tập như vậy. Dù là Ðức
Thế Tôn đã viên tịch song ngài vẫn hóa độ
chúng ta những thế kỷ sau này ở Mỹ bằng Pháp bảo của Ngài. Ðức
Phật vẫn đang chuyển hoá khai thị chúng sanh cho dù Ngài đã tịch diệt từ
lâu rồi.
Một sự kiện khá quan trọng có
ảnh hưởng đến sự phát triển của Phật giáo, đó là sự đoàn kết nội
bộ Phật Giáo. Bởi đoàn kết là sức
mạnh, sức mạnh là tự do giải thoát. Chia rẽ là yếu kém, yếu kém đưa
đến nô lệ. Nếu Phật Giáo muốn đứng vững, chúng ta phải đoàn kết. Chúng
ta có thể chứng tỏ cho thế giới thấy được một mặt trận đoàn kết
thì những bài thuyết pháp của tôi mới có
thẩm quyền ở Tây phương. Nếu mọi người Phật tử có thể chứng tỏ một sức
mạnh đoàn kết và nếu họ đều hậu thuẫn cho tôi thì khi đến
thuyết giảng ở nước Mỹ tôi mới có đủ oai lực để nói chuyện. Vì
sao vây? Bởi vì toàn thể Phật tử đứng sau tôi. Ngược lại nếu các Phật tử
khởi sự giao chiến với chính mình, thì lúc đó
mặt trận đoàn kết ở đâu? Và người Mỹ sẽ nói: "trong khi Ngài đang
thuyết giảng về lòng Từ bi thương người thì các Phật tử của Ngài đang
tranh chấp ẩu đả lẫn nhau, nghĩa là thế nào? Chính
các đệ tử của Ngài không thực hành những điều Ngài giảng dạy, vậy
thì tại sao Ngài lại dạy cho chúng tôi?" Thế nên chúng ta hãy là những
đệ tử Phật thuần thành sáng suốt chứ không phải danh nghĩa trên lý
thuyết. Phật tử ở Singapore đây rất có vẻ rất khao
khát khoa học. Nếu họ mong muốn đoàn kết như khát vọng khoa học,
tôi dám nói Singapore sẽ thành công hơn nữa trong lĩnh vực khoa học.
Phật tử cần được khuyến khích
đọc Tam Tạng Kinh. Bởi vì chúng ta không sợ kiến thức, chúng ta
cảm nhận rằng một người càng có nhiều kiến thức thì càng thuận lợi cho
mình. Vì vậy chúng ta nên khuyến khích Phật tử không những chỉ đọc
Tam Tạng kinh điển của mình thôi mà còn đọc ngay cả Kinh sách của
Tôn giáo khác nữa. Tại sao? Bởi vì một người chỉ biết một tôn giáo thôi,
thì coi như không biết gì. Chúng ta chỉ có thể đánh giá tôn giáo của
mình bằng cách so sánh tôn giáo của mình với những tôn giáo bạn. Cũng
như chúng ta chỉ có thể đánh giá chiều cao
của một người khổng lồ bằng cách đặt một chú lùn kế bên. Lúc đó
bạn mới nhận ra sự khác biệt rõ ràng. Bạn có thể đánh giá tôn giáo của
mình là Phật Giáo với vẻ đồ sộ hùng tráng bằng cách đặt cạnh bên tôn
giáo khác nhỏ nhoi tầm thường. Lúc đó chúng
ta mới nhận thức được vẻ đẹp chân thực của Phật Giáo khi so sánh với các
tôn giáo khác.
Về phần tôi, khi tôi gởi ba gói
sách Phật Giáo về cho anh tôi–một linh mục Thiên Chúa La Mã để cảm hóa
anh tôi theo Phật Ðạo. Anh tôi liền gởi cho tôi một lá thư với lời lẽ
như sau: Em Salvator yêu mến (tên thánh của tôi trước kia), anh đã nhận
được ba gói sách Phật Giáo của em, nhưng vì thời tiết bên ngoài quá lạnh
và vì không có củi trong nhà, anh đã kịp thời ném ba gói sách Phật của
em vào lò sưởi rồi, và nhờ vậy căn phòng lại ấm ra". Ðó quả là hơi nóng
quá đắt tiền!. Tôi liền trả lời: "Anh Raphael kính quý! Nếu em biết anh
cần dùng củi cho lò sưởi thay vì chân lý thì em đã gởi tặng cả thân xác
của em cho lò sưởi của anh chứ không bao giờ gởi ba cuốn sách Phật mà
anh đã cuồng tín gởi vào lửa". Bởi vì người nào đó ném những cuốn Kinh
Phật vào lửa, vị đó phạm tội ác nghiêm
trọng, vì tôi không tặng những cuốn Kinh Phật cho lửa, tôi đã gởi cho
anh tôi. Nếu anh ấy không cần những cuốn sách đó, có thể hoàn gởi lại
qua đường bưu điện. Do vì đưa quyển sách
Phật của tôi vào lửa, quyển sách đã bị đặt sai chỗ. Vả lại, tôi có địa
chỉ, nếu không muốn thì gởi trả lại cho tôi. Anh tôi ném vào lửa,
coi như quyển sách bị ăn cắp.
Lúc còn đang học ở Ðại học
Columbia một trong những chủ đề của tôi là sinh vật học. Tôi đã hỏi vị
Giáo Sư sinh vật xem ông ta tin có linh hồn
không. Ông Giáo Sư trả lời: “Lập đi lập lại nhiều lần mổ xẻ sinh vật;
lập đi lập lại nhiều lần, tôi đã
tìm kiếm linh hồn trong những con vật, nhưng cho đến
nay tôi vẫn chưa bao giờ có thể đặt được linh hồn trên bàn mổ thí
nghiệm để quán sát và thực nghiệm. Tôi không bao giờ tin có linh hồn".
Khi Laplace–nhà toán học vĩ đại
người Pháp viết một tuyệt tác đề tài: "Cơ chế thiên thể" cấu trúc
cõi Trời, ông gởi quyển sách cho Napoleon. Vị tướng Napoleon cũng là một
nhà toán học vĩ đại, ông có thể đánh giá
nhiều công thức toán học. Khi Napoleon đọc xong quyển sách “cơ chế thiên
thể", ông trả quyển sách lại cho tác giả Laplace và nói: "Ông Laplace!
Quyển sách này của ông rất tuyệt nhưng trong sách còn có một khuyết điểm
là toàn bộ quyển sách ông đã không hề đề
cập đến chữ nào về Thượng Ðế". Vì vậy Laplace đáp lại: "tập sách
của tôi hoàn toàn đầy đủ, toàn hảo,
không cần chữ Thượng Ðế, bởi vì toán học của tôi toàn hảo trong chính nó
không cần đến chữ Thượng đế”. Từ đó trở đi
khoa học đồng ý rằng không có Thượng đế và không có linh hồn.
Phật Giáo là khoa học cao siêu
nhất đồng ý với khoa học vật lý khi nói
rằng không có Thượng đế. Không có Thượng đế sáng tạo và không có linh
hồn bất diệt thường hằng. Trong thế giới mọi sự vật đều ở trạng thái
động, không có gì tịnh cả. Mọi sự
vật đều là sức mạnh năng lượng. Không có vật chất. Vật chất chỉ là năng
lượng cô đọng. Chúng ta không là gì cả mà chỉ là một điện lực.
Bạn có thể nào nói chùm điện lực của bạn là cá nhân (riêng tư) không?
bạn không thể nào nói như vậy được. Có ai
đã từng nghe điện lực cá nhân bao giờ? Ðiều đó không bao giờ có được.
Tất cả điện lực đều là vô ngã, vậy thì ai đang
thuyết Pháp đây? Một chùm điện lực thuyết Pháp cho một chùm điện lực
nghe. Vì
vậy không nên có một xúc động nào. Vị đó không nên bực tức
khi nói chuyện. Vị đó hoàn toàn hỷ xả dù đang ở một mình nơi sa
mạc. Khi tôi thuyết Pháp, tôi hư vô hóa với thính chúng rằng tâm mình
đây là thính chúng. Thính chúng là gì? Là năm
uẩn. Vậy năm uẩn này là gì? Chúng gồm năm hợp thể: sắc thân, cảm
giác, cảm nhận, rung động, và ý
thức. Năm uẩn
đều vô thường, khổ và vô ngã. Hãy để
thính chúng không có mặt và tôi không có mặt. Tại sao phiền não? Ai tức
giận? Ta có thể nói chuyện bằng sự an tịnh, trầm mặc. Vị đó không thể
suy tính kỹ càng những gì mình định nói. Vị
đó có thể làm hài lòng thính chúng mà không nổi cơn tức giận. Nếu
quả như tôi nổi cơn bực tức thì lúc đó
thính chúng cũng sẽ tức giận theo do luật rung động đồng tính trong vật
lý. Và như vậy mục tiêu sẽ không bao giờ thành tựu. Lẽ ra tôi
phải bỏ cuộc thuyết Pháp nếu như tôi nổi cơn tức giận dù biết chân lý sẽ
luôn luôn cứu nguy chúng ta trong mỗi và bất cứ tình huống nào.
Một vấn đề cũng cần nêu
lên về kiến thức của hàng Tu sĩ Phật Giáo chúng ta. Các linh mục đạo
Thiên Chúa dường như được người ta tôn trọng hơn bởi vì họ đều
tốt nghiệp đại học trước khi trở thành linh mục. Vì vậy tôi dám đoan
chắc rằng ngay trong Phật Giáo, nếu tất cả Tăng ni nên tốt nghiệp đại
học rồi mới đi tu, theo tôi nghĩ sẽ thuận lợi rất nhiều trong công tác
hoằng Pháp. Bởi vì nếu không có trình độ
văn hóa đại học thì một nhà Sư không thể nào thuyết giảng ở nước
ngoài được, nếu không có kiến thức khoa học, kiến thức về sinh ngữ,
không có cơ sở về khoa học, ta không thể nào trình bày tôn gỉáo một cách
đúng đắn đối với nhân dân Mỹ có trí
thức. Một thanh niên cần phải vào đại học trước khi xuất gia thì bấy giờ
giáo hội Tăng Già mới được mọi người ngưỡng mộ. Lấy trường hợp của Thái
Tử Tất Ðạt Ða, trước tiên Ngài đã hoàn tất học vấn kiệt xuất rồi mới đi
tu. Chúng ta phải gieo nhân trước rồi mới
được quả sau. Trước tiên, nhân là kiến thức cho ta năng lực và
sau đó có năng lực ta mới cống hiến tốt đẹp
cho cuộc đời.
Những gì mà tôi thuyết giảng từ
trước đến giờ chỉ là phần giới thiệu của bài Pháp hôm nay. Tôi muốn
trình bày đại Kinh khuyến hóa La Hầu La.
Một thời Ðức Phật ở thành Xá
Vệ, Ðức Phật đắp y xung quanh Ngài, tay cầm bình bát ra đi hóa duyên,
con trai của Ngài là La Hầu La cũng ôm bình bát đi theo Ngài. Ðức Phật
biết La Hầu La đi phía sau, Ngài không quay đầu lại, Ðức Phật dạy: "Này
La Hầu La tất cả vật thể sắc thân từ quá khứ, hiện tại, tương lai, bên
trong hay bên ngoài, cao hay thấp đều mang tính chất vô thường. Cái này
không phải là ta, cái này không phải của ta. Ðây không phải là bản ngã
của ta". La Hầu La hỏi: "Bạch Ðức Thế Tôn! Chỉ có sắc thân thôi sao?"
Ðức Phật trả lời: "Không phải chỉ có xác thân là vậy mà cảm giác, tri
giác, tư duy và ý thức cũng vậy cả. Chúng đều là vô thường. Chúng không
phải là ta, không phải là bản ngã của ta". Vì thế La Hầu La tiến đến gốc
cây, bởi vì Ngài cảm nhận rằng không cần phải đi bát ngày hôm đó vì
đã tiếp thu được bài Pháp cao quý từ Kim Khẩu của Ðức Thế Tôn, La
Hầu La đã nhủ thầm: "ta đã thọ hưởng món ăn tinh thần từ Kim Khẩu của
Ðức Phật, ta sẽ tiêu hóa hết Pháp thực đó và rồi sẽ đến ngồi dưới cội Bồ
Ðề, cố gắng quán triệt những lời dạy của Ðức Phật". Trong khi La Hầu La
đang tỉnh tọa dưới gốc Bồ Ðề, Tôn giả Xá Lợi Phất liền ngỏ lời: "Này La
Hầu La hãy tập trung vào hơi thở, phát huy chánh niệm khi thở vô thở ra,
vì Pháp này nếu được phát triển và huân tập sẽ đem
đến sung mãn và vô số lợi lạc". La Hầu La tiếp tục thiền định
đến nữa đêm rồi La Hầu La đến vấn thỉnh Ðức Phật: "Làm thế nào để
tập trung vào hơi thở ra thở vô. Cách thiền quán vào hơi thở là gì?".
Ðức Phật ban cho những lời chỉ dạy như sau: "Này La Hầu La! Mọi cá thể
đều là sắc, có yếu tố đất, loại yếu tố đất
thuộc cá thể hay yếu tố đất bên ngoài. Ðất của cá thể là gì? Yếu
tố đất cá thể gồm có 20 loại: tóc trên đầu, tóc trên thân, móng, răng,
da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, màng phổi, lá lách, phổi,
ruột non, ruột già, bao tử, phân, não. Tất cả bộ phận này cũng tạo nên
yếu tố đất thuộc về sắc thân. Ðất có hai loại: yếu tố
đất bên trong và yếu tố đất bên ngoài. Hãy nhớ rằng đất là
đất, dù bên trong hay bên ngoài đều
không khác nhau. Bởi vì nếu bạn muốn biết toàn bộ yếu tố đất trên toàn
thế giới, bạn phải tổng cộng yếu tố đất cá
thể với yếu tố đất bên ngoài để rồi
bạn mới có được tổng số toàn bộ yếu tố đất trên toàn thế giới.
Hiểu rõ điều này bạn phải tự nhủ: "Thân này không thuộc về ta, ta không
phải thân này. Thân này không phải là bản ngã của ta". Quán tưởng yếu tố
đất bằng cách này bạn sẽ nhàm chán và ghê tởm yếu tố đất khi bạn nhận ra
rằng nó chỉ là đất. Xưa kia tôi đã
bị trói buộc vào đất, tôi không để mình
bị trói buộc nữa trong quả đất đã
gây cho tôi quá nhiều phiền não từ nhiều kiếp xa xưa.
Bây giờ chúng ta nói đến yếu tố
nước. Này La Hầu La, yếu tố nước có hai loại: nước thuộc cá thể
và nước bên ngoài nhưng không hề khác nhau giữa 2 yếu tố nước
đó. Yếu tố nước cá thể là gì? Có mười hai loại: mật, đàm, máu,
mủ, mồ hôi, mỡ đặc, nước mắt, nước nhờn, nước miếng, nước mũi, nhớt,
nước tiểu. Nếu bạn muốn biết tổng số nước trong toàn vũ trụ, bạn phải
cộng thêm yếu tố nước cá thể vào yếu tố nước bên ngoài thì lúc đó bạn mới
có con số tổng kết tất cả. Tri kiến được điều này đúng như nó là,
bạn phải nhận thức là yếu tố nước cá thể bên trong không phải là ta, nó
không thuộc về ta, không phải là bản ngã của ta.
Khi giác ngộ về sự kiện này bạn
mới ghê tởm yếu tố nước mà bạn không còn ràng buộc luyến ái nó nữa. Bởi
vì bạn đã nhận thức được yếu tố nước là yếu tố nước, làm sao nó có thể
là của ta được. Nó không khác yếu tố nước bên ngoài. Khi bạn thấy một
cốc nước, bạn không được nói nước của tôi.
Thật ra nó đến từ những đám mây và ta không nên chấp thủ nó và
gọi nó là mình. Kế đến là yếu tố không khí. Ðức Phật dạy: "Có hai loại
yếu tố khí: yếu tố nội khí và ngoại khí". Yếu tố nội khí là gì? Là không
khí nhập vào. Yếu tố ngoại khí là gì? Là không khí đi ra. Ai có óc thông
minh sẽ biết rằng khí là khí dù nó ở bên trong hay bên ngoài. Chúng ta
thở bao nhiêu lần, hai lá phổi giống như ống bể, chúng phồng ra và xẹp
lại, vì vậy không khí thì luôn luôn ra vào, chúng ta không thể nói: đây
là không khí của tôi. Làm sao nó lại là của chúng ta
được? Nhận biết rất rõ
rằng tổng số toàn bộ không khí là không khí bên ngoài cộng với không khí
bên trong, chúng ta trở nên khiếp sợ với không khí cá thể và nói: "khí
này không thuộc về tôi, khí này không phải là tôi, khí này không phải
bản ngã của tôi–và trên phương diện tinh thần, chúng ta từ bỏ nó".
Rồi đến yếu tố lửa. Yếu tố có
hai loại: lửa cá thể và lửa bên ngoài. Yếu tố lửa bên trong như
là lửa vốn phát sinh khi thức ăn được tiêu
hóa (giờ đây sự tiêu hóa đang
tiến hành và dĩ nhiên nhiệt nóng ở mức độ
cao và có sức nóng của tâm linh, cũng vậy sức nóng của tư tưởng). Tất cả
lửa cá thể cần được thêm lửa ở bên ngoài vào thành một tổng số
toàn bộ lửa trên thế giớì. Lửa là lửa dù bên trong hay bên ngoài. Nó
hoàn toàn vô ngã. Ðây không phải là ta, cái này không thuộc của ta, cái
này không phải là bản ngã của ta. Biết rõ điều này ta trở nên nhàm chán
lửa cá thể và bố thí tất cả, ta từ bỏ nó về phương diện tinh thần.
Tương tự, yếu tố khoảng trống
có hai loại: nội không và ngoại không. Nội không là khoảng trống rỗng
của bao tử, khoảng trống của ruột già, ruột non, thực quản và khoảng
trống của lỗ mũi, lỗ tai... biết chắc rằng khoảng không là khoảng không
dù nó ở trong hay ở ngoài và nếu muốn biết được tổng số toàn bộ khoảng
không trên thế giới, chúng ta phải thêm nội không vào ngoại không. Ta
phải khiếp hồn với khoảng không gian đó; vị
đó phải nhận ra rằng: “khoảng trống không phải là ta, không thuộc
của ta, khoảng trống này không phải là bản ngã của ta trên phương diện
tinh thần", quán như vậy vị đó từ bỏ nó.
Ðức Phật dạy thêm: Này La Hầu
La, hãy trưởng thành như đất này, bởi vì nếu con tu tập được thì không
có ấn tượng giác quan nào dù thoải mái hay khó chịu có thể trói buộc được
tâm thức con. Giả sử như con ném phân, hay nước tiểu, hay máu ra đất,
đất có nổi giận không. Ðất không bao giờ tức giận. Tương tự như
vậy, Ðức Phật dạy tiếp La Hầu La: Con là đất, vậy hãy phát triển tâm
mình giống như đất, hãy dửng dưng bất động
như đất, nếu có người nào lăng nhục, khiển trách hoặc khen tặng con; dù
được hay mất con đừng vì đó mà kiêu hãnh hay tuyệt vọng. Nhưng
con phải duy trì tinh thần vô tư công bằng con sẽ không bao giờ bị đau
khổ. Nhờ tu tập pháp khinh an, buông xả con mới duy trì an hưởng hạnh
phúc mãi mãi.
Hãy trưởng thành như nước này
La Hầu La, vì con là nước. Nước có tức giận không nếu con ném hoa sen,
hoa hồng hay hoa lài vào nước? Nước có phấn khởi không? giả như con tưới
dầu thơm vào nước, nước có vui sướng không? Giả như con ói mửa vào nước,
nước có tức giận không? Tương tự như vậy, con là nước thì phải trui rèn
tâm hạnh ly dục, vô tư, tu tập hạnh an lạc, xả bỏ. Dù khen chê, con đừng
tuyệt vọng hay kiêu căng, nhưng con hãy giữ tâm bình thường, có vậy con
sẽ không bao giờ đau khổ dù có nhiều bất trắc xảy ra. Ðây là trạng thái
của bậc Alahán, hoàn toàn tự tại trong mọi tình huống.
Này La Hầu La con hãy trưởng
thành như không khí. Giả như con tưới dầu thơm vào không khí, không khí
vẫn không vui sướng. Giả như con ném phân, máu hay nước tiểu vào không
khí, không khí vẫn không tức giận. Hãy từ bỏ không khí. Nếu con trưởng
thành như không khí, dù được mất, dù khen chê con sẽ không bao giờ kiêu
căng hay tuyệt vọng.
Này La Hầu La con hãy trưởng
thành như lửa, bởi vì con là lửa. Giả như con ném phân, máu, nước tiểu
vào lửa, lửa vẫn không nổi giận. Giả như con ném hoa sen, hoa hồng, hoa
lài vào lửa, lửa vẫn không sung sướng. Tương tự, nếu con khinh an tự tại
như lửa thì con sẽ không bao giờ thất vọng hay khổ đau.
Này La Hầu La con hãy trưởng
thành như không gian, bởi vì con là không gian. Không gian ở đâu? Con
không thể nắm bắt không gian bằng tay mình. Cũng vậy, con đừng
để bị dính mắc vào những lời xấu ác hay lời sĩ nhục. Chúng ta đừng chấp
thủ vào những lời khen chê của nhân loại. Trong thế gian này
không có ai luôn luôn được khen hay luôn luôn bị chê. Nếu
một người nói ít, vị đó bị chê. Nếu vị đó nói nhiều, vị đó bị chê. Nếu vị
đó nói vừa phải, cũng bị chê. Vì vậy trên trần gian này không có
ai có thể làm hài lòng mọi người. Ngay Ðức Như Lai cũng không bao giờ
làm mãn nguyện hết thế gian được huống là con. Chúng ta phải hoàn toàn
tự tại trước mọi phê phán của thế gian như là không gian vốn chẳng bao
giờ dao động trước bất cứ sự khiêu khích hay ca ngợi nào. Nếu chúng ta
nỗ lực tu tập tâm khinh an tối thượng, chúng ta sẽ mãi mãi được phúc lạc
và đây là tâm thái thù thắng nhất.
Ðức Phật dạy: này La Hầu La,
con hãy trưởng thành trong tâm từ, nếu con giữ phạm hạnh này, mọi ác
hiểm sẽ biến mất. Con hãy trưởng thành trong tâm Bi, nếu con được phạm
hạnh này, mọi cơn bực tức sẽ tan biến. Hãy trưởng thành trong tâm
Hỷ đối với hạnh phúc của người khác. Này La Hầu La nếu con giữ được phạm
hạnh này, mọi thù hận sẽ tiêu tan. Hãy trưởng thành trong tâm Xả.
Này La Hầu La nếu con thực hiện được vậy, mọi mâu thuẫn sẽ trôi qua. Hãy
phát triển niệm tưởng về sự uế tạp của thân xác. Này La Hầu La nếu con
thực hiện được như vậy, tham dục sẽ biến mất. Ðây là quán đề mục tham
thiền nhận ra rằng thân là ghê tởm. Nếu chúng ta từ bỏ thân xác, ta sẽ
thoát khỏi dục vọng. Ðó là lý do mà ta được yêu cầu thiền định
tại nghĩa địa–nơi mà ngày xưa các
thây chết được bày ra ngoài trời. Hãy trưởng thành trong tri giác
về tính chất ngắn ngủi của vạn pháp. Này La Hầu La nếu con thực hiện được
điều này thì lòng tự hào về bản ngã sẽ tan biến. Nếu con luôn
luôn thiền quán về bản tính vô thường của các
pháp, ý niệm về TA sẽ tắt lịm. Con sẽ không bao giờ nghĩ đến tôi, của tôi,
bản ngã của tôi. Nếu con nhận thức được rằng vạn pháp đều trôi chảy,
biến đổi từng khoảnh khắc, vậy thì cái Ta ở đâu? Không thể nào có cái ta
thường hằng trong niệm tưởng đang trôi chảy. Niệm tưởng thì luôn
luôn thoáng qua vô thường. Vậy bản ngã ở đâu?
Nếu bản ngã có đó thì bản ngã cũng bay qua mất.
Hãy trưởng thành trong chánh
niệm vốn xuất phát từ hơi thở bình thường. Này La Hầu La nếu phẩm hạnh
được phát triển và huân tập, đưa
đến thành quả phong phú và những điển
hình của sự lợi lạc thù thắng.
Nhờ tu tập pháp sổ tức quán,
con sẽ hiểu và có khả năng tính đúng thời
điểm mà con định an nhập Niết Bàn. Có một câu chuyện của một vị La Hán,
vốn tu tập thiền quán sổ tức, đồng thời biết rõ chính xác thời
điểm mà vị A La Hán sắp tịch diệt. Vị A La Hán nói với các Tỳ Kheo: xin
hoan hỷ theo dõi tôi, vì tôi sẽ nhập diệt trong lúc đang
đứng. Quý Sư đã từng trông thấy người ta chứng nhập Niết Bàn
trong khi đang ngồi, đang nằm; tôi sẽ chứng
tỏ cho quý Sư thấy bằng cách nào tôi chứng đạt Niết Bàn trong khi
đang đứng. Vị A La Hán nhìn ánh trăng, Ngài
biết mình sẽ nhập diệt trong một thời gian ngắn nữa. Ngài khởi sự bách
bộ lên xuống. Ngài nói: "Tôi sẽ thiền hành từ đây
cho đến cuối kia. Tôi sẽ lên xuống một lần nữa, chừng nào chân
tôi bước đến đường biên cuối, tôi sẽ
nhập Niết Bàn". Chư Tỳ Kheo canh chừng khi vị A La Hán kinh hành lên
xuống, lại đi lên, ngay khi Ngài chạm chân đến
đường biên cuối, Ngài hoát nhiên chứng đạt Niết Bàn.
Với chánh niệm
trong hơi thở được huân tập và phát triển như vậy, người ta sẽ
biết chính xác giờ phút lâm chung của mình. Bởi vì nhờ biết được niệm
tưởng sau cùng. Dĩ nhiên niệm tưởng sau cùng là niệm tưởng tốt chứ không
thể là niệm tưởng xấu.
Trong khi tỉnh giác hơi thở sau
cùng, vị ấy giữ tâm mình nhiếp trụ Niết Bàn. Nếu đạt
được thiện quả này, vị đó sẽ không bao giờ tái sinh nữa. Ðó là
niệm tưởng sau cùng của mình. Khi vị ấy sắp lâm chung, đương nhiên vị đó
trụ tâm vào thiện niệm sau cùng và khi viên tịch với thiện mệm sau cùng,
vị ấy sẽ tái sinh ở cảnh giới tốt đẹp nếu
vị ấy không đạt chứng Niết Bàn.
Phật Giáo là tôn giáo duy nhất
đề cập đến Niết Bàn và con đường
đưa Niết Bàn. Các tôn giáo khác không biết Niết Bàn là gì và càng
không biết hơn con đường dẫn đến Niết
Bàn. Cõi trời thì không thường hằng. Một hữu tình có thể đọa xuống từ
cõi trời, nhưng chưa hề có ai đọa lạc từ cõi Niết Bàn. Ðiều
đó không thể có được, Niết Bàn là tâm thái chớ không một nơi nào.
Chỉ có Phật Giáo mới có Niết Bàn và con đường
tu tập đi đến Niết Bàn.
Ðức Thế Tôn là người đã khám
phá ra Niết Bàn và con đường tu tập đi đến
Niết Bàn. Thật là may mắn cho chúng ta, được kính lễ thờ phụng
người phán ra chân lý, chúng ta bái ngưỡng Chánh Ðạo. Thế nên điều duy
nhất còn lại cho chúng ta phải thực hỉện đó
là bước đi dũng mãnh trên đạo lộ và đạt chứng Niết Bàn–Chân lý mà
Ngài đã chứng thực và khai thị cho chúng ta.
Do quả phước vô lượng mà quý vị
đạt được hôm nay, cầu mong vị thông dịch
viên của tôi, người đã tận tụy làm việc chuyển ngữ bài pháp–cầu
mong thiện hữu không có một cảm nghiệm nào khác khi bị chó cắn lần nữa.
Cầu mong thiện hữu tránh khỏi những con chó dữ vật chất cũng như tinh
thần.
Những con chó tâm thức là tham,
sân, si. Cầu mong quý vị giải thoát mọi phiền não đau khổ vể hai phương
diện vật chất và tinh thần. Cầu mong tất cả thính chúng sớm đạt
đươc Niết Bàn an vui tối thượng.
--- o0o
---
Mục Lục|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|7
|
8
|
9
|
10|
11|
12
|
13
--- o0o ---
|
Thư Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính : Mỹ Hồ
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật
ngày: 01-05-2002
|
|