Ánh Đạo Vàng
(In lần thứ 14)
Võ Đình Cường
HUẾ – 1999
--- o0o ---
Phần 10
Thành
Ca-tỳ-la-vệ rực rỡ một thời khi Phật còn tại đấy. Nhưng sau khi đã độ
cho em là Nan-đà, cho con là La-hầu-la, cho bà Da-du và nhiều người khác
trong họ Thích và ngoài dân gian, Phật lại từ giã vua Tịnh-phạn đi đến
những xứ ở phía Nam. Thành cũ lại trở về với vẻ tiều tuỵ của cảnh đợi
chờ xưa.
Trải
bốn mươi lăm năm trời, từ khi đạo nhiệm mầu bừng sáng dưới cây Bồ-đề cho
đến lúc Phật nhập diệt, Ngài đi như thế, từ xứ này sang xứ khác tung vãi
giống Từ bi và gieo mầm đức hạnh ra cùng xứ Ấn Ðộ bao la. Và trong bốn
mươi lăm năm trời ấy, không một năm nào Ngài không theo đúng những ý
định của Ngài trong việc truyền giáo.
Từ
tháng tư Ấn Độ, mây dày bắt đầu đổ thành mưa nặng, gió điên cuồng sổ
chạy dưới rừng sâu, cây cối gãy ngã, đường sá bị nước xoi thành suối
thành hồ, sự giao thông từ xứ này sang xứ khác bị cắt ra từng đoạn trên
đường rừng lở lói hoang vu... Trong ba tháng mưa lụt ấy, Ngài không đi
thuyết pháp xa. Ngài lựa một tịnh xá nào gần để làm chỗ nghỉ chân cùng
các đệ tử.
Mỗi
ngày, khi chưa tảng sáng, Ngài đã lìa khỏi giường đi súc miệng, rửa mặt,
thay y phục, rồi vào quán tưởng trong tịnh thất. Ngài dùng ánh sáng trí
tuệ của Ngài chiếu cùng vũ trụ xem xét khắp nơi, rồi lại soi đến căn cơ
chúng sanh, nhận biết hạng nào có thể nghe được và hạng nào chưa có thể
nghe được Chân lý thâm diệu của đạo Ngài. Quán tưởng xong, Ngài hội đệ
tử lại, giảng cho họ nghe một hồi, rồi dạy họ phải suy nghiệm đến những
điều Ngài đã giảng trong ngày ấy. Mặt trời sắp đứng bóng Ngài mới thọ
trai.
Trong
lúc ấy, trên các đường đi đến tịnh xá, từ thôn xóm xa cho đến phố phường
gần, dân gian lũ lượt đến đợi Ngài thuyết pháp. Sau khi đã lãnh thọ
những lời châu ngọc, họ lại tản mác ra về, trong tai còn vang dội Pháp
âm của đấng Toàn thiện.
Buổi
chiều, tắm rửa xong, Ngài hội các tỷ kheo lại một lần nữa để giải thích
tường tận những lời thuyết pháp buổi sáng mà họ chưa nhận rõ hết. Trời
sẩm tối Ngài mới thôi giảng.
Ngài
sống mỗi năm ba tháng trong tịnh xá như thế, đợi đến hết mùa mưa lụt để
đi thuyết pháp.
Khi
nắng thu hiền lành bắt đầu trở lại, các đệ tử được lệnh truyền sửa soạn
hành lý ra đi. Ý Ngài dự định sẽ đi về ngả nào thì chẳng mấy chốc đã lan
từ làng này sang làng khác, chạy khắp cả xứ Ấn Ðộ như một làn gió xuân.
Thế là dân gian tấp nập mang xẻng cuốc ra sửa lại những đoạn đường hư
nát mà Ngài sẽ đi qua. Họ lấp những đoạn bị nước xoáy, san phắng những
đoạn gồ ghề, phát dọn những nhành cây hoang bổ ra đường. Và những xứ
Ngài không đi ngang, dân gian khoá cửa lại, mang khăn gói lên đường đi
về phía những xứ Ngài sẽ đến thuyết pháp.
Hành
lý sửa soạn xong, Ngài chưa đi vội, đấng Từ bi còn đợi năm ba ngày cho
những loài sâu bọ thấy nắng về, rời khỏi tổ chúng đã làm giữa đường,
hoặc dưới cỏ rác trong mấy tháng mưa, để những bước chân Ngài và các đệ
tử khỏi dẫm phải chúng. Vì đoàn đi theo Ngài không ít, sự dẫm nát có thể
nhiều lắm nếu không phòng ngừa trước.
Khi
mới ra đi thì chỉ vài trăm đệ tử, nhưng càng đi đám người tín mộ xin
theo càng nhiều. Ðường hẹp không đủ chứa dòng người tin tưởng kia, họ đi
lan ra cả hai bên đường tản mác dưới bóng rừng sâu. Ðêm đến, họ ngủ
trong những nhà lá dựng lên với lòng thành kính của dân địa phương đối
với đấng Tế độ. Nơi nào không có nhà, họ ngủ dưới những cây xoài sai
trái, ngước mắt nhìn bầu trời yên tĩnh của dêm sao. Trong ấy họ thấy
phản chiếu sự yên tĩnh của lòng họ bên cạnh lòng Từ bi.
Gần
nửa thế kỷ như thế, hết xứ này đến xứ nọ, bánh xe Pháp của Ngài in dấu
thiện khắp nơi. Từ Bắc chí Nam, từ Ðông sang Tây, tất cả xứ Ấn Ðộ rộng
lớn, không thiếu một nơi nào Ngài không để chân đến. Và đến đâu, Ngài
cũng được dân gian đổ xô ra đón rước. Họ sung sướng được xúm xít quanh
Ngài như đàn con xúm quanh mẹ ở xa về. Hễ Ngài để chân vào thành nào, là
ở đấy sáng rực lên một ánh sáng lạ; và mắt mọi người, từ đứa bé mới lọt
lòng mẹ cho đến kẻ sắp xuống mồ long lanh đôi niềm hy vọng, trướe sự kết
đọng của Từ bi và Trí tuệ.
Nhưng
một hôm, ở tại thành Ba-la-nại, đức Phật đang ngồi trong tịnh xá Trúc
Lâm bỗng thấy các đệ tử đi khất thực về có vẻ buồn rầu. Phật hỏi nguyên
nhân. Họ quỳ xuống bạch:
– Thưa
Thế Tôn, mấy ngày nay chúng con không được dân trong thành trọng đãi như
trước nữa, trái lại họ còn xua đuổi mạt sát chúng con. Hình như có một
bọn nào bảo họ rằng: “Ðạo của Thế Tôn không chính đáng vì đã làm cho
vợ xa chồng, cha xa con, gia đình tan rã.” Và họ bắt giảng rõ tại
sao phải có sự chia lìa như thế.
Phật
dạy:
– Các
ngươi hãy nghe đây! Xưa ở xứ Mitila có một ông vua tên Ða-nép-ca. Một
hôm vua cùng đình thần đi dạo chơi ở ngoài thành, thấy hai cây xoài mọc
cạnh nhau, nhưng một cây rất sai trái, và một cây cằn cỗi. Vua đến bên
cây sai trái, hái một quả. Cáe quan hầu thấy thế, cũng bắt chước hái
theo. Khi đi về, nhìn lại cây xoài mình đã hái, vua thấy không còn một
trái nào cả, và bị gãy nát tơi bời, Ngài nghĩ: “Như thế đấy! Của quý
ở đời là những mồi ngon để dục vọng xâu xé! Ngai vàng của ta đã tẩm biết
bao nhiêu máu đế vương và còn tẩm máu mãi mãi, vì nó là một ngai vàng!
Ta phải đi tìm những của quý mà không ai có thể cướp giật được.”
Ðêm
ấy, vua cải trang trốn ra khỏi thành, định vào rừng làm một kẻ tu ẩn
dật. Nhưng hoàng hậu hay tin, vội đi tìm gặp lại chồng giữa đường.
Ða-nép-ca không biết tính sao đành phải để vợ theo. Một hôm di đến thành
phố kia, vua dừng bước lại trước một hiệu làm cung, hỏi người thợ mộc:
– Tại
sao, để xem thử chiếc tên người đang bào có thẳng hay không, người phải
nheo bớt một mắt?
– Bởi
vì, người thợ mộc trả lời, bởi vì con mắt này thường phản trái con mắt
kia và làm ta không nhận rõ những chỗ cong của chiếc tên. Còn người, sao
đã làm một kẻ xuất gia cầu đạo, đã nguyện lìa bỏ tất cả đời phồn hoa,
người lại đem theo bên mình một người đàn bà nữa thế? Người đàn bà đẹp
đẽ đi bên cạnh người là con mắt thứ hai, không cho người nhận rõ đường
thẳng để đi đến cõi thiện đấy.
Ða-nép-ca nghe xong, đi một mạch đến đầu rừng, đứng lại bẻ một nhành cây,
đưa trước mặt vợ mà thề rằng: “Như nhành cây này không bao giờ còn có
thể liền lại với thân cây, ta với người từ đây sẽ xa nhau mãi mãi.”
Nói xong Ða-nép-ca chạy biến vào rừng.
Cái ý
nghĩa xa đàn bà, bỏ gia đình là thế. Nhưng ta có bắt tất cả mọi người
đều phải xa gia đình đâu? Có người tu tại gia, mà cũng có người xuất
gia. Có khác nhau là, người xuất gia thì việc tu hành sẽ thuận tiện hơn
người tại gia mà thôi. Vả lại trong lúc Ðạo ta mới thành lập, tất cần
nhiều đệ tử xuất gia để truyền giáo; và sau này, khi ta nháp diệt, cũng
cần nhiều Tăng đồ để giữ gìn Chánh pháp. Các người không nên để tâm đến
những lời mắng nhiếc của hạng người si mê. Các người hãy gắng thực hành
cho đúng như những câu trả lời của ông Biệt-na, khi sắp rời ta đề di
sang truyền giáo ở xứ Ro-na-ba-răn-ta. Một hôm ta hỏi ông:
– Dân
xứ Ro-na-ba-răn-ta có tiếng là hung ác nếu ông sang truyền giáo ở bên ấy
mà bị họ mắng nhiếc, chửi rủa, thì ông đối phó cách nào?
Ông
trả lời:
– Thưa
Thế Tôn, nếu những người ở xứ ấy chửi rủa mắng nhiếc con, con sẽ tự bảo:
“Họ đang còn hiền, vì họ chỉ nguyền rủa con, chứ không lấy tay đánh
con, hay lấy đá ném vào con.”
Ta lại
hỏi:
– Thế
họ lấy tay đánh ông hay lấy đá ném ông?
– Thưa
Thế Tôn, con sẽ tự bảo: “Họ còn thương con vì họ không dùng gươm để
đâm con.”
– Nếu
họ dùng gươm để đâm ông?
– Thưa
Thế Tôn, con sẽ tự bảo: “Họ còn tốt, vì họ không đâm con đến chết.”
– Nếu
họ đâm ông đến chết?
– Thưa
Thế Tôn, con vẫn cảm ơn họ, vì họ sẽ giải cho con thoát cái thân đau
khổ.
Hỡi
các tỷ kheo. Biệt-na đã trả lời ta như thế đấy! Các người hãy lấy hạnh
nhẫn nhục làm gương.
***
Tám
mươi mùa xuân đã qua từ ngày Phật xuất thế dưới cây Vô ưu. Bấy giờ Ngài
vào hạ ở rừng Sa-la trong xứ Câu-ly cách thành Ba-la-nại chừng 120 dặm.
Một hôm, Ngài phán bảo ông A-nan:
–
A-nan! Ðạo ta nay đã toàn vẹn. Như xưa ta đã nguyện, nay ta đã đủ bốn
hạng: ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni và nhiều đệ tử có thể
thay ta chuyển xe Pháp. Còn trong dân gian, Ðạo ta truyền khắp nơi. Bây
giờ ta có thể rời các người mà ra đi. Vả nay ta cũng đã 80 tuổi rồi.
Thân hình ta bây giờ như một cỗ xe đã mòn rã, nếu còn đi được là nhờ
những sợi dây ràng rịt các bộ phận với nhau. Ta sẽ mở dây cho chúng tan
rã. Thân này ta đã mượn làm xe để chở Pháp, nay xe cũng vừa mòn mà Pháp
cũng đã lan khắp, ta còn nấn ná làm gì trong cái thân tiều tuy này nữa?
A-nan, trong ba tháng nữa, ta sẽ nhập Nỉết-bàn.
Nghe
Phật dạy, ông A-nan gieo năm vóc xuống đất, bạch:
– Thưa
Thế Tôn, Ngài thường dạy rằng ai đã giác ngộ thì không thể mất đi được.
Nay Thế Tôn là một bậe toàn trí, toàn năng, sao lại còn phải chịu cái
luật tầm thường như thế?
Phật
nghiêm nét mặt lại hỏi:
–
A-nan! Người bảo cái gì mất mà cái gì còn ? Sao người không nhận
được cái gì chơn mà cái gì giả cái gì tồn tại mà cái gì tiêu huỷ? Ta đã
nhiều lần dạy rằng đã có đến thì có đi, có hiệp thì có tan có sanh thì
có diệt. A-nan, thân ta không khác thân mọi người; mà thân mọi người làm
sao thoát ra ngoài luật vô thường được? Thân ta là giả hiệp, nó phải tan
rã. Nhưng A-nan! Làm sao người thấy một làn sóng tan, người lại bảo nước
không còn nữa?
Ông
A-nan cũng biết như thế lắm. Nhưng ý nghĩ trong ba tháng nữa, Phật sẽ
không còn tại thế để chỉ dạy cho chúng sanh, làm ông bồn chồn tâm trí.
Ông đánh bạo nài xin Phật ở lại một lần nữa:
– Bạch
Thế Tôn, xin Ngài hãy ớ nán lại vì rất nhiều đệ tử còn phải nhờ đến sự
chỉ giáo của Thế Tôn để chứng đạo.
–
A-nan ơi! Chính vì muốn để cho họ mau chứng đạo mà ta lẫn đi. Nếu chửn
mẹ cứ mớm mồi mãi cho con, thì đến bao giờ chim con mới bay được? Gần
nửa thế kỷ, họ quanh quẩn bên chân ta, bây giờ phải đến lúc họ rời ta để
tự bước tới như đứa trẻ mới tập đi, phải có một lúc rời tay mẹ.
Tin
Phật sắp vào Niết-bàn lan dần như một hơi gió thoát từ hang lạnh. Các đệ
tử, đàn cừu tản mác trên cánh đồng ấn Ðộ, lục tục kéo nhau về để cùng
đấng Dẫn Ðường chia ly lần cuối.
Trong
mấy tháng ấy tuy thân hình Ngài đã gầy còm, mệt mỏi, Phật vẫn đi truyền
giáo như thường. Nhưng Ngài không đi xa, chỉ quanh quẩn trong địa hạt xứ
Câu-ly. ông A-nan thường xin Ngài hãy tịnh dưỡng trong những ngày cuối
cùng của Ngài. Nhưng Ngài khoát đi mà dạy:
– Thân
ta tuy có kém mạnh khoẻ, nhưng lòng Từ bi của ta, Trí sáng suốt của ta
có kém sút đâu? Ta còn tại thế ngày nào thì ngày ấy phải là ngày không
vô ích.
Một
hôm, Phật đi thuyết pháp ngang một khu rừng, có một người tên là
Thuần-đà, làm nghề đốt than đến quỳ trước Phật:
– Kính
lạy Ngài, ở đây làng mạc không có, mà trời sắp đứng trưa, xin Ngài hãy
về nhà con ở gần đây thọ trai rồi hãy đi. Con nghe Ngài qua đây nên đã
đi hái một thứ nấm rất quý để dâng Ngài, xin Ngài đừng từ chối mà tủi
nhục lòng con.
Phật
im lặng cùng các đệ tử đi theo ông Thuần-đà. Ðến nhà, những thức ngon vị
lạ đã dọn la liệt trên bàn dài, ông Thuần-đà lại bưng lên để trước mặt
Phật một bát nấm, hơi lên nghi ngút.
Phật
thọ trai xong, phán với các đệ tử:
– Bát
nấm này độc, các ngươi hãy đem đổ đi không nên ăn.
Ông
Thuần-đà kinh hãi, vật mình lăn khóc bên chân Phật. Phật dạy: “Người
không nên than khóe, cũng đừng hối hận. Phải vui sướng lên, vì người đã
được cúng dường bữa cơm cuối cùng cho ta. Có hai bữa ăn đáng kỷ niệm
nhất, lần đầu là của nàng Tu-xà-đa cúng dường ta trước khi ta thành Ðạo
và bữa cơm này, trước khi ta vào Niết bàn.”
Phật
từ giã ông Thuần-đà, cùng các đệ tử ra đi Ðược một đỗi đường, Ngài nghe
trong mình khó ở Phật đưa bình bát và chiếc võng cho A-nan:
–
A-nan ! Hãy mang bình bát dùm ta và tìm hai cây Sa-la ở trên đồi kia,
treo võng lên cho ta nằm nghỉ.
Trời
chiều. Chúa sáng rút ánh nắng vàng ở phương Ðông, dồn về phương Tây.
Chim bay về tổ cũ. Vài tiếng mẹ gọi con đồng vọng từ một làng xa. Trên
đường rừng tịch mịch chiều hôm, lẻ tẻ rơi từng tiếng chân chậm chạp.
Phật
đến bên cây Sa-la, nằm xuống võng. Ðầu Ngài trở về hướng Bắc, mình
nghiêng về tay phải, hai chân tréo vào nhau. Trước mặt đấng Sáng suốt
chói lọi một mặt trời tròn xoe và đỏ rực. Hoa trắng lác đác rơi dọc theo
mình Ngài trên thảm cỏ xanh. Hương ở đâu bay lại, thơm ngát cả khu rừng.
Ðàn khe và sáo gió, cùng nhau hoà một điệu nhạc, phò Ngài vào trong Yên
nghỉ.
Nhưng
đấng Từ bi chưa đi vội. Ngài sai một Tỷ kheo đi báo tin Ngài sắp nhập
diệt cho các đệ tử khác và dân chúng ở rải rác trong thành Tư- xá vệ
hay.
Trong
số các người đến kính viếng, có một ông già thuộc phái Bà-la-môn, tên
Tu-bạt-đà-la đến xin ông A-nan cho được đến gần Ngài hỏi đạo. Ông A-nan
không cho, bảo rằng Ngài đang mệt. Nhưng Tu-bạt-đà-la cứ nài nỉ xin vào.
Lời qua tiếng lại, Phật nghe được, liền bảo ông A-nan cứ để cho vào.
Tu-bạt-dà-la đến sụp lạy bên chân Phật, thưa :
– Lạy
đấng Sáng suốt, con thường nghe đạo Ngài rất thâm diệu, nhưng con cũng
thường nghe bọn ngoại đạo bảo chỉ có đạo của họ là hợp chân lý. Như thế
thì con biết tin theo ai?
Phật
dịu dàng dạy:
–
Người đừng tin theo ai cả. Người chỉ nên theo lý trí của người. Người
hãy đem thuyết “Bát chánh đạo” của ta chẳng hạn, so sánh với những
thuyết của ngoại đạo, rồi người sẽ biết nên tin bên nào mà bỏ bên nào.
Ông
Tu-bạt-đà-la sụp xuống ôm chân Phật, khóc kể:
– Ôi
rộng rãi thay lời nói của đấng Từ bi! Con chưa từng nghe một đấng truyền
giáo nào dạy như Ngài! Nhưng ôi! Con đến quá chậm, Ngài sắp nhập diệt
rồi, con biết nhờ ai để tu tập?
Phật
để tay lên đầu ông, dạy:
–
Người hãy yên tâm. Ta sẽ độ cho người. Còn sự tu tập sẽ có các đệ tử ta
chỉ giáo cho.
Ông
Tu-bạt-đà-la là người cuối cùng được đấng Từ bi nhận làm đệ tử khi Ngài
còn tại thế.
Các đệ
tử những bậc vua chúa và dân gian đến mỗi lúc mỗi đông. Họ kính cẩn cúi
đầu đứng quanh Ngài. Nhưng bỗng giữa bầu không khí im lặng, nấc lên vài
tiếng khóc. Phật dạy:
– Ðừng
ai thương tiếc ta như thế! Hãy bình tĩnh trong buổi chia ly này! Các
người ơi! Các người còn nhớ những lời ta dạy chăng ? Ta thường bảo thân
thể bao giờ cũng tan rã, những vật người đời yêu thương, gìn giữ tất rồi
có ngày phải chia cách. Làm sao trên thế giới chuyển di, lại có vật
không thay đổi? Ai tìm thấy lại được hình dáng đã vẽ trên mặt nước?
Hỡi
các tỷ kheo! Ở đây các người là hạng được nghe rất nhiều giáo pháp của
ta, các người phải chứng tỏ sự hiểu biết của các người bằng những cử
chỉ, nhất là giữa lúc này. Bao lâu nay các người rất gần gũi với ta,
trong hành động cũng như trong ý tưởng, vậy bây giờ không nên vì tình
cảm hẹp hòi của các người trong một lúc mà trở thành xa lạ với ta.
Ðừng
ai thương tiếc ta như thế!
Ngài
gọi ông A-nan lại gần Ngài, đề tay lên đầu ông, vỗ về:
–
A-nan ơi! Trong các đệ tử, ông là người luôn luôn ở bên cạnh ta, và giúp
đỡ ta nhiều nhất, ông là đệ tử rất xứng đáng với ta. Trong việc truyền
giáo, công đức của ông không phải nhỏ. Vậy trước khi nhập diệt, ta có
lời cảm ơn ông. Từ đây trên đường đi truyền giáo, bước chân ta không còn
vang dội bên bước chân ông nữa, nhưng đừng vì thế mà buồn; chúng ta dù
có xa nhau cũng chỉ ở hình dáng chứ còn tâm ta vẫn hoà nhịp với tâm ông
trong cái đạo rộng lớn. Ông hãy tu tập để nhận rõ chân tâm, rồi sẽ gặp
ta ở mọi chỗ. Thôi ông hãy đứng dậy!
Phật
nhìn ra, hỏi đại chúng:
– Ở
đây có ai không hiểu hay còn nghi ngờ điều gì về giáo lý của ta thì cứ
hỏi, ta sẽ trả lời. Ðừng để khi ta nhập diệt rồi lại ân hận là không còn
ai để giảng giải.
Mọi
ngườỉ đều im lặng nhìn nhau. Phật lại bảo:
– Nếu
các người vì sợ làm mệt ta, hay vì nể ta mà không dám hỏi thẳng thì hãy
bàn bạc cùng nhau, khi nào không thể giải quyết được, ta sẽ giúp cho.
Nhưng
đại chúng vẫn im lặng. Ông A-nan bạch:
– Kính
bạch Như Lai! Ðạo Ngài sáng tỏ như mặt trời. Những lời Ngài dạy cặn kẽ
từng gang tấc! Những điều đáng nói, Ngài đã dạy cho hết cả rồi chúng con
không còn điều gì nghi ngại nữa. Duy, chúng con xin Ngài dạy cho biết
sau khi Ngài nhập diệt rồi, chúng con phải làm những lễ nghi gì để cho
xứng với thi hài của một đức Phật?
Phật
dạy:
– “Các
người đừng bận tâm đến việe ấy. Các người hãy chuyên tâm đến sự giải
thoát của các người. Đấy là một cách sùng bái ta.
Hỡi
những ai vì hoàn cảnh mà không thể xuất gia, các người hãy luôn luôn nhớ
đến đạo ta! Phải tinh tấn mãi mãi để thoát ra khỏi lưới dục vọng mà
chứng Ðạo!
Này,
các người phải tự thắp đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy Pháp của ta làm
đuốc! Các người hãy theo Pháp của ta mà tự giải thoát! Ðừng tìm sự giải
thoát ở một kẻ nào khác! Ðừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác!
Các
người làm như thế là biết ơn ta, là nhớ tưởng đến ta. Và hỡi các Tỷ
kheo! Các người có thêm một bổn phận là truyền đạo ta, thay ta để đưa
đường chỉ lối cho mọi người. Các người phải tìm hiểu đến cùng tột những
nghĩa lý sâu xa, mầu nhiệm của giáo pháp ta để làm lợi lạc cho chúng
sanh! Các người phải luôn luôn vượt lên những trở lực để mãi mãi truyền
thừa Ðạo ta cho đến vô cùng tận.
Nếu
các người để cho đạo Giải thoát của ta suy tàn, ấy là các người mất ta,
và các người sẽ làm mất các người!
Nếu
các người vẫn trung thành với những lời dạy của ta, ấy là các người nhớ
ơn ta, ấy là các người tôn sùng ta. Nếu các người làm cho đạo Từ bi của
ta mỗi ngày một thịnh mãn, ấy là các người gần ta, và ta sẽ luôn ở bên
cạnh các người.
Này
các Tỷ kheo! Các người đừng nghe dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi vật ở
đời không có gì quý báu. Chỉ có chân lý của Ðạo ta là bất di bất dịch.
Hãy
tinh tấn lên để giải thoát, hỡi các người rất thân yêu của ta!”
Ngài
nhập định, rồi vào Niết-bàn.
Sao
mai vừa mọc. Nhưng trời đất bỗng tối tăm, mọi vật lặng yên. Sự sống
ngừng lại. Chìm lặng, chìm lặng khắp nơi.
Nhưng
lập loè xa xa một ánh sáng. Rồi hai, rồi ba, rồi năm, rồi mười, rồi một
trăm, một ngàn, một vạn, ôi! rồi hằng sa ánh sáng của những ngọn đuốc
soi đường cho những tín đồ đến chậm, chiếu sáng rực cả khu rừng, cả vòm
trời, cả tám hướng, mười phương...
Và
trong đêm lặng lẽ trời khuya, nổi lên, nổi lên dần, rồi ngân cao, ngân
cao lên mãi, lời tụng kinh nồng đượm tín thành của từng ngàn đệ tử, phụ
hoạ theo với từng vạn tín đồ. Lời tụng kinh nồng đượm tín thành vượt lên
mấy từng trời, phò đấng Từ bi vào Niết-bàn huyền diệu...
Và từ
đấy cứ lan dần, lan dần ra mãi...
Viết
xong ngày 15 tháng 3 năm 1945 tại Huế.
--- o0o ---
Mục lục |
Giới thiệu |
Lời bạt
Phần 01|
Phần 02 |
Phần 03 | Phần 04 |
Phần 05
Phần 06 |
Phần 07 | Phần 08
|
Phần 09 |
Phần 10
--- o0o ---
Vi tính : Mỹ Hồ
Cập nhật ngày:
01-05-2002