Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Các ông, mỗi người nên chia đều ra để vào nhân gian du hành. Các bậc Hiền
thiện khắp nơi có thể nhận được sự giáo giới của các ông. Riêng Ta, bây giờ
sẽ đến xứ Ưu-vi,
chỗ Uất-tỳ-la Ca-diếp
để khai hóa.
Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, chia nhau lên đường. Ðức Thế Tôn đi về chỗ
Ca-Diếp đang trú ngụ. Ở đây, Ca-diếp thờ một con độc long trong một ngôi nhà
vắng, tách biệt; không ai dám bén mảng đến gần, chỉ trừ Ca-diếp. Ðức Phật cố
ý đến vào buổi chiều vừa xẩm tối và xin Ca-diếp ở lại đêm trong nhà có con
rồng.
Ca-diếp nói:
- Không thể chấp nhận lời yêu cầu này, vì trong nhà có con độc long, sợ e
làm hại Ngài.
- Không can chi, rồng không thể hại Tôi đâu. - Ðức Phật trả lời.
- Nếu Ngài không sợ thì cứ tùy ý vào nghỉ. - Ca-diếp chấp thuận.
Ðức Phật đem cỏ vào nhà, trải cỏ ra ngồi, với ý nghĩ: “Ta sẽ làm cho thân
con rồng nhỏ lại như que đũa, để trong bình bát, điều phục nó”.
Ngồi chưa được bao lâu, con rồng nổi giận, cả thân tuôn ra khói, đức Phật
cũng tuôn ra khói. Cả thân rồng liền biến thành một đống lửa cháy rực, lập
tức cả thân đức Phật tuôn ra lửa. Cả hai ngọn lửa hừng hực cháy, làm cho cả
gian nhà rồng tung tóe ánh sáng chói lòa. Khi ấy, Ca-diếp và các đệ tử đến,
đi quanh nhà con rồng, nuối tiếc than:
- Ðại Sa-môn không chịu nghe lời ta, để bây giờ bị con rồng hại mất!
Sáng ngày, đức Phật cầm bình bát đựng con rồng bước ra ngoài thì gặp ngay
Ðại Ca-diếp, Ngài nói:
- Ðiều làm cho mọi người khiếp sợ thì bây giờ nằm gọn trong bình bát này.
Nay Ta đã hàng phục độc long của ông rồi đó.
Với ý nghĩ cố chấp, Ðại Ca-diếp nghĩ: “Ðại Sa-môn này tuy có thần lực nhưng
không bằng chơn đạo của ta”.
Ðức Phật liền vận thần lực, chỉ trong chớp nhoáng, đem con rồng đặt ở Trung
gian thế giới, rồi về lại chỗ Ca-diếp. Ca-diếp hỏi Phật:
- Ðể con rồng chỗ nào rồi?
- Trung gian thế giới. - Ðức Phật trả lời.
Ca-diếp lại nghĩ: “Ðại Sa-môn này thần lực rất lớn nên chỉ trong thoáng chốc
đem cả con rồng bỏ vào Trung gian thế giới. Tuy vậy cũng không bằng ta, ta
đã được A-la-hán đạo”.
Ca-diếp thưa:
- Xin mời Ðại Sa-môn ở lại đây để tôi được cúng dường.
Ðức Phật nói:
- Nếu hằng ngày ông đến mời Tôi, thì Tôi có thể nhận lời.
- Tốt thôi! - Ca-diếp đáp lời.
Cách chỗ ở của Ca-diếp không xa, có một khu rừng rậm, đức Phật tạm nghỉ ở
nơi đây. Ban đêm, Tứ Thiên Vương từ trời xuống hầu Phật, nghe pháp. Ánh sáng
từ bốn vị Thiên Vương như bốn đống lửa. Ca-diếp đang đêm thức dậy, thấy chỗ
Phật có bốn khối sáng rực mà không rõ đó là hiện tượng gì. Sáng ngày,
Ca-diếp đến thỉnh Phật:
- Thức ăn đã xong rồi, mời Ngài đến dùng.
Ca-diếp lại hỏi:
- Ðêm rồi, nơi đây có bốn khối sáng lớn, ánh sáng như lửa mà không phải lửa,
ánh sáng này là thế nào?
- Ðêm qua Tứ Thiên Vương xuống cúng dường và nghe pháp, ánh sáng của họ đấy.
- Ngài trả lời.
Ca-diếp lại nghĩ: “Ðại Sa-môn này có đại oai thần nên khiến cho Tứ Thiên
Vương tự xuống cúng dường. Tuy vậy cũng vẫn không bằng ta, bởi ta đã được
A-la-hán đạo”.
Ðức Phật bảo Ca-diếp:
- Ông về trước, Tôi sẽ đến sau.
Ca-diếp vừa đi, đức Phật chớp nhoáng như lực sĩ co duỗi cánh tay đến cây
Diêm-phù
lấy trái đem về. Ca-diếp chưa về đến nơi thì đức Phật đã đến ngồi vào chỗ
ngồi rồi. Ca-diếp về sau, thấy Phật, hỏi:
- Tôi không đi đường nào khác trở về, cũng không ghé ở đâu, không thấy Ðại
Sa-môn, vậy Ðại Sa-môn đi đường nào đến đây?
- Sau khi ông vừa ra về, Tôi liền đến cây Diêm-phù hái trái đem về đây. Trái
này thơm ngon, có thể ăn được, Tôi biếu ông ăn thử xem sao! - Ðức Phật nói.
Ca-diếp lại nghĩ: “Ðại Sa-môn này có đại thần lực, nhưng không bằng ta, ta
đã được A-la-hán đạo”.
Ðức Phật thọ trai xong, trở về lại khu rừng. Ðêm sau, Thích-đề-hoàn-nhơn
đích thân xuống hầu Phật, nghe pháp. Ánh sáng trời Ðế Thích chiếu khắp khu
rừng, sáng gấp bội ánh sáng Tứ Thiên Vương. Ca-diếp ban đêm thấy, cũng không
rõ là ánh sáng gì. Sáng ngày đến thỉnh Phật thọ trai và hỏi về ánh sáng đêm
rồi. Ðức Phật bảo:
- Ðêm rồi Thích-đề-hoàn-nhơn xuống cúng dường và nghe pháp, ánh sáng ấy là
ánh sáng của họ.
Ca-diếp lại nghĩ: “Ðại Sa-môn này là hạng thần lực khuôn mẫu của thần lực,
nên khiến trời Ðế Thích tự xuống cúng dường, song cũng không bằng ta, ta đã
được A-la-hán đạo”.
Ðức Phật bảo ông Ca-diếp:
- Ông về trước, Tôi sẽ đến sau.
Ca-diếp vừa về, đức Phật đến ven biên Diêm-phù-đề
ở rừng Ha-lê-lặc,
hái trái đem về chỗ Ca-diếp, đến ngồi vào tòa. Ca-diếp về liền sau đó, cũng
hỏi như trên. Ðức Phật bảo:
- Ông vừa đi, Tôi đến cạnh biên Diêm-phù-đề, nơi rừng Ha-lê-lặc hái trái đem
về đây. Trái này thơm ngon, có thể ăn được, giờ thì biếu ông ăn thử.
Ca-diếp lại nghĩ như trước đã nghĩ. Ðức Phật thọ trai xong, về lại khu
rừng...
Ðêm thứ ba, Phạm Thiên vương chủ thế giới Ta-bà xuống hầu Phật, nghe pháp.
Ánh sáng trời Phạm Thiên sáng gấp bội ánh sáng trời Ðế Thích. Ban đêm,
Ca-diếp thấy không biết là ánh sáng gì. Sáng ngày, Ca-diếp đến thỉnh Phật
thọ trai, rồi cũng hỏi ý nghĩa ánh sáng đêm rồi. Ðức Phật bảo:
- Ðêm rồi, Phạm Thiên vương đến cúng dường và nghe pháp, ánh sáng ấy là của
họ.
Ca-diếp lại nghĩ: “Ðây là Ðại Sa-môn thuộc hạng thần lực khuôn mẫu của thần
lực, nên khiến trời Phạm Thiên đến cúng dường, song cũng không bằng ta, ta
đã được A-la-hán đạo”.
Ðức Phật bảo Ca-diếp:
- Ông về trước, Tôi sẽ đến sau.
Ca-diếp vừa đi, đức Phật đến cạnh biên Diêm-phù-đề, nơi rừng A-ma-lặc
hái trái đem về... (như trước)
Ðức Phật thọ trai xong, trở về lại khu rừng...
Bấy giờ, đức Thế Tôn cần nước để rửa, sông Ni-liên-thiền
liền vòng quanh lại, chảy qua trước mặt Ngài, Ngài dùng nước để rửa. Sáng
ngày, Ca-diếp lại đến thỉnh Phật thọ trai, thấy khúc sông chảy quanh, liền
hỏi:
- Ai đào khúc sông này?
- Vừa rồi Tôi cần nước, nước sông tự chảy quanh đến. - Ðức Phật trả lời.
Ca-diếp lại nghĩ: “Ðây là hạng Sa-môn có thần lực khuôn mẫu của thần lực,
nên móng ý niệm cần nước, nước liền chảy đến, song không bằng ta, ta đã được
A-la-hán đạo”.
Ðức Phật bảo Ca-diếp:
- Ông về trước, Tôi sẽ đến sau.
Ca-diếp vừa đi, đức Phật đến nơi Câu-da-ni lấy sữa bò đem về... (diễn tiến
như trước).
Ðức Phật thọ trai xong, trở về lại khu rừng.
Bấy giờ, người tớ gái gia đình Bà-la-môn Tư-na chết, bỏ chiếc áo nơi gò mả,
đức Phật lấy đem về, với ý nghĩ: “nên giặt nó như thế nào?”. Vừa nghĩ như
thế, Thích-đế-hoàn-nhơn liền đến lấy ngón tay chỉ xuống đất, thì ở dưới nước
vọt lên thành ao, rồi bạch Phật:
- Ngài có thể giặt áo nơi ao này.
Sơn thần A-tỳ-thích-ca
đưa đến một cái bồn bằng đá lớn, bạch Phật:
- Ngài có thể dùng cái bồn này để giặt.
Ðức Phật lại nghĩ: “Ta đứng dựa thế vào cái gì để giặt y này?”. Cách ao
không xa, có cây Kha-hầu,
vị thần cây liền bẻ cong một nhánh cây xuống sát Phật để Phật vin vào đó.
Ðức Phật giặt y rồi, phơi y nơi hư không. Ca-diếp sáng ngày đến thỉnh Phật
thọ trai, thấy khung cảnh phục vụ cho việc giặt y của Phật, hỏi không sót
thứ gì. Ðức Phật lần lượt kể rõ mọi việc. Tuy vậy, Ca-diếp vẫn giữ tâm niệm
cao ngạo như trước. Ðức Phật bảo Ca-diếp:
- Ông về trước, Tôi sẽ đến sau.
Ca-diếp vừa đi, đức Phật đến xứ Uất-đơn-việt
lấy loại lúa tự nhiên
đem về... (như trước)
Ðức Phật thọ trai xong, trở về lại khu rừng.
Sáng ngày hôm sau, nhân lúc có tiết hội, Ca-diếp nghĩ rằng: “Nay ta không
thỉnh Phật thọ trai, vì thỉnh Ngài đến chắc mọi người sẽ bỏ rơi ta mà tranh
nhau phụng sự Ngài”. Do vậy, Ca-diếp không đi thỉnh Phật.
Ðức Phật biết ý đồ Ca-diếp, nên đến Uất-đơn-việt lấy thức ăn để ăn. Ngày ấy
qua rồi, Ca-diếp lại đến thỉnh Phật thọ trai và hỏi:
- Ngày hôm qua tôi không đến thỉnh, Ngài ăn thứ gì?
- Ngày hôm qua ông nghĩ: “Nhân ngày tiết hội mà thỉnh Phật, mọi người thấy
Ngài sẽ bỏ ta, tranh nhau phụng sự Phật”? Cho nên Ta đến xứ Uất-đơn-việt lấy
thức ăn để dùng. - Ðức Phật trả lời.
Ca-diếp lại nghĩ: “Ðây là Ðại Sa-môn thần lực thuộc hạng thần lực khuôn mẫu,
nên mới biết ý niệm của người khác, song cũng không bằng ta, ta đã được
A-la-hán đạo”.
Hôm ấy, đức Phật cùng đi với Ca-diếp về nhà thọ trai, rồi trở về khu rừng.
Ngày ấy, đệ tử Ca-diếp gồm 500 người làm công việc bửa củi. Họ bửa xuống
nhưng không giở búa lên được. Ðệ tử thưa với thầy chuyện quái lạ này. Thầy
nghi, nói:
- Sợ Ðại Sa-môn làm việc này. Các ông đến hỏi Ngài thử sao!
Họ kéo đến hỏi Phật việc khó hiểu này. Ðức Phật hỏi:
- Các ông có muốn giở búa lên không?
- Thưa muốn. - Ðệ tử của Ca-diếp đáp.
- Các ông cứ về đi thì cái búa tự giở lên. - Ðức Phật bảo họ.
Khi búa đưa lên được rồi, nhưng bửa xuống lại không được. Họ lại thưa với
thầy. Thầy bảo đệ tử đến hỏi Phật. Ðức Phật hỏi:
- Muốn để búa xuống không?
- Thưa muốn.
- Các ông hãy đi về thì búa sẽ tự để xuống.
Nhưng, khi búa bửa xuống, búa dính luôn vào củi, không thể bửa được. Ðệ tử
lại thưa thầy, thầy bảo họ đến hỏi Phật. Ðức Phật hỏi:
- Muốn búa bửa được phải không?
- Thưa muốn.
- Thôi, cứ đi về đi, búa sẽ sử dụng được.
Búa sau đó sử dụng bình thường.
Ðệ tử của Ca-diếp muốn nhen lửa, lửa không chịu cháy. Ðệ tử lại thưa với
thầy. Thầy bảo đệ tử đến hỏi đức Phật. Ðức Phật hỏi:
- Muốn lửa cháy phải không?
- Vâng! - Họ thưa.
- Thôi, cứ về đi lửa sẽ tự cháy. - đức Phật bảo.
Họ về, lửa liền phụt cháy và cứ cháy mãi không dập tắt được. Họ lại hỏi
thầy. Thầy lại bảo họ hỏi Phật. Phật bảo họ đi về, lửa liền tự tắt.
Họ muốn dập tắt lửa than bằng bình đựng nước, nhưng nước trong bình không
chảy ra. Họ thưa thầy, thầy bảo họ đến hỏi Phật. Phật bảo họ đi về thì nước
tự chảy ra. Nước tự chảy ra và chảy mãi không dừng lại. Họ thưa thầy, thầy
bảo họ đến hỏi Phật. Phật dạy họ cứ đi về thì nước trong bình tự dừng lại.
Họ về, nước trong bình tự nhiên thôi chảy ra.
Bấy giờ trời mây u ám, mưa lớn suốt bảy ngày. Khu vực nhà ông Ca-diếp thành
một biển nước mênh mông. Ðức Phật ở trong rừng, ông Ca-diếp sợ Phật bị nước
cuốn trôi, đi thuyền đến xem, thấy đức Thế Tôn đang kinh hành trên dòng sông
Ni-liên-thiền. Ca-diếp lại nghĩ: “ Ðại Sa-môn này có thần lực cao siêu nên
nước lớn như vậy mà không bị cuốn trôi, lại kinh hành trên nước, song vẫn
không bằng ta, ta đã được A-la-hán đạo”.
Khi ấy, đức Thế Tôn bay lên hư không, bảo ông Ca-diếp rằng:
- Ông không phải là La-hán, tại sao cứ hư dối tự xưng là đắc đạo?!
Ca-diếp thú nhận:
- Bạch Thế Tôn, thật vậy! Bạch Thế Tôn thật vậy!
Ông ta lại bạch Phật:
- Xin Thế Tôn cho con được xuất gia, thọ Cụ túc giới.
- Ông đã báo cho đệ tử chưa? - Ðức Phật hỏi.
- Thưa chưa. - Ca-diếp đáp.
- Nên báo cho họ biết trước. - Ðức Phật bảo.
Ca-diếp vâng theo, liền trở về nói với hàng đệ tử:
- Các ông biết chăng? Ta muốn tu phạm hạnh nơi Ðại Sa-môn. Các ông, người
nào theo ta thì tốt, bằng không vui theo thì tùy ý.
Năm trăm đệ tử đồng thanh nói:
- Khi chúng con thấy Phật hàng phục con rồng thì đã sanh lòng tin, chỉ đợi ý
kiến của thầy mà thôi. Chúng con xin được đi theo con đường của thầy.
Thế là thầy trò cùng nhau đến chỗ đức Phật, thưa:
- Bạch Thế Tôn, thầy trò chúng con đều muốn xuất gia thọ Cụ túc giới.
Ðức Phật dạy:
- Lành thay! Các Tỳ-kheo đến đây thọ Cục túc giới. Ở trong pháp luật khéo
nói của Ta để tịnh tu phạm hạnh, thì có thể chấm dứt tất cả khổ.
Ông Ca-diếp với 500 đệ tử râu tóc tự rụng, áo ca-sa mặc vào thân, bình bát
bưng nơi tay. Sau khi thọ giới, thầy trò đem những dụng cụ, y phục thờ lửa
trước đó bỏ xuống sông Ni-liên-thiền. Như vậy, Ca-diếp và 500 đệ tử đã thực
hiện xong việc thọ giới Cụ-túc.
Ông Ca-diếp có hai người em, người lớn tên là Na-đề Ca-diếp,
người nhỏ tên là Già-da Ca-diếp. Người em lớn có 300 đệ tử, người em nhỏ có
200 đệ tử. Cả hai ở cách anh mình một do-tuần
về phía hạ lưu sông Ni-liên. Ngày ấy, hai người em thấy dụng cụ thờ lửa của
anh mình trôi theo dòng sông, hoảng kinh, sợ anh mình đã bị kẻ ác sát hại,
bỏ trôi theo dòng nước. Hai người em liền dẫn 500 đệ tử ngược dòng lên đến
chỗ anh để tiếp cứu, nhưng thấy cả thầy lẫn trò đều làm Sa-môn... Lấy làm
lạ, hai em hỏi:
- Tại sao thế này?
Ca-diếp nói:
- Pháp của đạo này nói lên được yếu tố thù thắng tối thượng, không có ai hơn
được.
Nghe thế, hai người em cùng 500 đệ tử bàn bạc, thảo luận: “Trí tuệ đệ nhất
như anh mình mà nay vui sống với đạo này, thì chắc đạo này là tối thắng”. Sự
thảo luận này dẫn đến việc hai em theo gót người anh, họ liền đưa 500 đệ tử
đến chỗ đức Phật, đảnh lễ sát chân rồi bạch:
- Xin cho chúng con xuất gia thọ Cụ túc giới.
Ðức Phật dạy:
- Lành thay! Các Tỳ-kheo đến đây!... (như trước).
Trước thực tế này, đức Phật có suy nghĩ: “Phải giáo giới một
ngàn Tỳ-kheo Tăng Phạm-chí mới xuất gia này. Nơi nào có đủ ẩm thực, ngọa cụ
cho Tỳ-kheo để thực hiện việc giáo giới?”. Ðức Phật nghĩ ngay đến núi Già-da,
vì ở đây hội đủ yếu tố trên. Ðức Phật liền đưa một ngàn Tỳ-kheo đến núi này.
Nơi đây, ba việc giáo giới được đức Phật đề ra: Một là giáo giới thần túc.
Hai là giáo giới thuyết pháp. Ba là giáo giới Giáo sắc.
Thế nào là giáo giới thần túc? - Như trong mục thần thông đã nói rõ.
Thế nào là giáo giới thuyết pháp? - Như nói: Tỳ-kheo nên suy nghĩ thế này,
không nên suy nghĩ thế này. Nên nhớ nghĩ thế này, không nên nhớ nghĩ thế
này. Nên tu thế này, nên đoạn thế này... Nên y theo như vậy mà tu hành.
Thế nào là giáo giới giáo sắc? - Như nói Tỳ-kheo đốt cháy tất cả. Thế nào là
đốt cháy tất cả? - Ðốt cháy nhãn, đốt cháy sắc, nhãn thức, nhãn xúc, nhân
duyên sanh thọ cũng đốt cháy. Ðốt cháy cái gì? - Ðốt cháy lửa dục, đốt cháy
sân dục, si dục... cho đến ý pháp cũng đốt cháy như vậy. Ðệ tử của bậc Thánh
nghe pháp như vậy, sanh tâm nhàm chán thế gian, yểm ly thế gian, không có
nhiễm trước thì được giải thoát. Giải thoát thì trí sanh, việc đã làm xong,
phạm hạnh đã lập, không còn tái sanh.
Khi nói pháp như vậy, một ngàn Tỳ-kheo hết lậu hoặc, tâm được giải thoát.
Bấy giờ, đức Thế Tôn nhớ lại lời hứa với vua Bình-sa là sau khi đắc đạo sẽ
độ nhà vua. Ðức Phật cùng với một ngàn đệ tử Tỳ-kheo, kẻ trước người sau vây
quanh Ngài, lần lượt du hành về thành Vương-xá.
Vua Bình-sa nghe Phật sau khi thành đạo, độ ba anh em Ưu-vi Ca-diếp và một
ngàn đệ tử, nay đến ấp này; vua liền ban lệnh cho 42.000 tụ lạc trong nước,
mỗi tụ lạc chọn hai vị hào kiệt về thành để cung nghinh đức Phật và tám vạn
bốn ngàn người cỡi voi, ngựa, xe nối tiếp nhau đón mừng. Bấy giờ, vào tháng
cuối mùa Xuân, khí hậu nóng bức, mọi người thầm nghĩ: “Làm sao có được chút
bóng mát?!”. Biết được ý nghĩ này, liền khi ấy, trời Thích-đề-hoàn-nhơn hóa
một cái lọng báu bằng mây che khắp, lại có gió mát phe phẩy và tự thân hóa
làm Phạm thiên, mặc áo màu vàng, cầm cây trượng bằng bảy báu, một tay cầm
phất trần cũng khảm bằng bảy báu, cách đất một khủy tay đi trước hướng dẫn.
Lúc ấy, người nước Ma-kiệt muốn lấn đi trước Phật, bị trời Ðế Thích đuổi
chạy. Họ cơ hiềm, ngâm lời kệ:
Hình ai giống Phạm thiên Cầm trượng đi cách
đất
Miệng nói lời dễ thương Vì ai
làm cấp sử (thừa sự)?
Thích-đề-hoàn-nhơn nói kệ đáp:
Giải thoát mọi trói buộc
Ðiều ngự sĩ tối thượng
Ứng cúng, bậc Thiện thệVì Ngài, tôi cấp sử.
Vua Bình-sa trong lúc đón nghinh, lại nghĩ: “Chỗ nào đức Phật nghỉ ngơi thì
ta đem chỗ ấy cúng Phật để lập tinh xá”. Ðức Phật biết ý này nên chiều tối
Ngài đến nghỉ lại ở vườn trúc Ca-lan-đà.
Bấy giờ, quần chúng đều hoài nghi: “Không biết đức Phật với Ưu-vi Ca-diếp,
ai là đệ tử?”. Biết được ý nghĩ này của quần chúng, đức Phật liền hướng đến
Ưu-vi Ca-diếp nói bài kệ:
Ưu Vi, ông thấy gì
Mà bỏ pháp thờ lửa?
Nay chính Ta hỏi ông
Ông cần như thật đáp.
Ưu-vi Ca-diếp liền đáp kệ:
Thường tham những mỹ vị
Tâm chạy theo thanh sắc
Con thấy nhơ nhớp này
Nên bỏ nghiệp thờ lửa.
Quần chúng tuy nghe đức Phật cùng Ca-diếp nói kệ, song chưa rõ được ý, vẫn
còn hồ nghi. Biết được tâm trạng này, đức Phật lại nói kệ hỏi:
Ngũ vị ngọt miệng người
Sắc thanh vui lòng người
Ông thấy nhơ nhớp
này
Ðược không bởi
do đâu?
Ưu-vi Ca-diếp kệ đáp:
Con thấy đạo, liền bỏ
Tất cả không đắm trước
Không khác, không thể khác
Do vậy, bỏ thờ lửa.
Dù đã nghe đối đáp hai lần kệ, tâm đại chúng vẫn còn lưỡng lự, hoài nghi.
Phật biết tâm họ, bèn bảo Ca-diếp:
- Ông lấy quạt, quạt cho Ta.
Ca-diếp nghe theo, lấy quạt hầu Phật. Ðức Phật lại bảo Ca-diếp:
- Hiện thần thông biến hóa của ông xem nào!
Ca-diếp liền thị hiện các loại thần biến, phân thân thành trăm ngàn ức, rồi
hiệp lại thành một thân, đi xuyên qua vách đá, vào trong đất như vào trong
nước, đi trên nước như đi trên đất, ngồi nằm trong không trung như chim bay
lượn, cả thân bừng cháy chói sáng, tuôn khói, vượt lên mây, lấy tay rờ mặt
trời, mặt trăng, đứng thẳng đến trời Phạm Tự Tại vô ngại. Hoặc trên thân
tuôn ra nước, dưới thân tuôn ra lửa; hoặc thân trên tuôn ra lửa, thân dưới
tuôn ra nước. Rồi từ trên không giáng xuống, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật,
đi quanh bên phải ba lần, Ca-diếp quỳ gối, chấp tay bạch Phật:
- Thế Tôn là thầy của con, con là đệ tử của Thế Tôn.
Thưa như vậy ba lần, rồi Ca-diếp nói với đại chúng rằng:
- Những sự hiểu biết cho đến những thần biến của tôi đều do ân của Ðại sư mà
được.
Ðại chúng sau khi biết rõ Ca-diếp là đệ tử Phật, nên đối với đức Phật họ hết
sức hoan hỷ, cung kính Ngài vô lượng.
Thường pháp của chư Phật là khi nhân tâm chưa cảm động, chuyển đổi thì không
vì họ nói pháp, nhưng bây giờ thì đại chúng đã hoan hỷ, cung kính, nên Ngài
nói các diệu pháp, chỉ bày sự lợi ích để họ được an vui và nói các pháp mà
chư Phật thường thuyết, đó là Khổ, Tập, Tận, Ðạo. Vua Bình-sa và 8 vạn 4
ngàn người ngay chỗ ngồi xa lìa trần cấu, được con mắt pháp trong sạch, thấy
pháp đắc quả, rồi thọ tam quy và năm giới.
Sau đó, vua Bình-sa cúi đầu thỉnh Phật và Tăng sáng ngày mai thọ trai, đức
Phật im lặng nhận lời. Nhà vua vui vẻ trở về cung, ra lệnh chuẩn bị đầy đủ
các thức ăn ngon bổ. Sáng ngày, vua cho trải tọa cụ nơi vườn trúc và đích
thân đến mời Phật thọ trai. Ðức Phật cùng Ðại chúng theo thứ tự mà ngồi. Nhà
vua tự tay sớt thức ăn, ngài rất vui vẻ và không biết mệt mỏi. Phật và Tăng
thọ thực, rửa tay xong, nhà vua đứng qua một bên, bạch Phật:
- Con xin dâng cúng vườn trúc này lên Ngài.
Ðức Phật dạy:
- Nên cúng cho Tăng, phước điền nhiều hơn.
Nhà vua lại thưa:
- Cúi xin Ngài nạp thọ.
Ðức Phật dạy:
- Nên cúng cho Tăng, trong đó có Tôi.
Nhà vua nghe theo và dâng cúng vườn trúc Ca-lan-đà cho bốn phương Tăng. Sau
đó nhà vua lấy chiếc ghế nhỏ ngồi trước đức Phật nghe pháp. Ðức Phật nói
pháp tùy hỷ, chú nguyện bài kệ như bài kệ chú nguyện công đức cho
Tỳ-lan-nhã. Tiếp theo, đức Phật nói các diệu pháp rồi bảo vua lui về cung.
Nhà vua từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh bên phải ba
vòng rồi lui về.
HỘI ÐỦ CON
SỐ MỘT NGÀN
HAI TRĂM NĂM MƯƠI
Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại tinh xá Trúc viên
thành La-duyệt-kỳ
có một ấp tên là A-la-đà. Phạm chí Sa-nhiên
cư ngụ nơi ấp này, có 250 đệ tử theo học đạo. Trong số đó có hai môn đồ cao
túc: một người tên là Ưu-Ba-đề-xá,
người thứ hai tên là Câu-luật-đà.
Một hôm, Tỳ-kheo Át-bệ
vào thành khất thực, Ưu-Ba-đề-xá dạo chơi thấy Át-bệ có nhan sắc vui vẻ, hòa
nhã, các căn tịch định, y phục chỉnh tề, bưng bát nhìn đất mà đi. Với phong
độ giải thoát như vậy, khiến Ưu-Ba-đề-xá lưu ý và lần theo Át-bệ quan sát
từng oai nghi một. Như có một lực hút mạnh, Ưu-Ba-đề-xá tiến lên, đến trước
Át-bệ hỏi thăm:
- Pháp tượng này ở đâu, y phục lại khác thường như thế? Có thể cho tôi biết
quý danh bậc Tôn sư của tôn giả?
Át-bệ trả lời:
- Sa-môn Cù Ðàm là Ðại sư của tôi. Chúng tôi tôn thờ Ngài, theo học với
Ngài, là đệ tử của Ngài.
- Ðại sư của tôn giả nói những pháp gì? - Ưu-Ba-đề-xá hỏi.
- Tôi còn trẻ, mới học đạo chưa được bao lâu, đâu có thể nói được nghĩa lý
rộng lớn về pháp của thầy tôi. Nhưng, nay tôi có thể vì ông nói các nghĩa
yếu lược. Thầy tôi dạy: “Các pháp từ duyên sanh, cũng từ duyên mà diệt.
Tất cả các pháp là không, không có chủ thể”. - Át-bệ giải đáp.
Ưu-Ba-đề-xá nghe chừng ấy lời, bỗng tâm ý sáng ra, hiểu rõ vấn đề đã bị đóng
kín từ lâu, được ngay con mắt pháp trong sạch, tỉnh ngộ. Ưu-Ba-đề-xá cúi
chào Át-bệ, quay về.
Ðến gặp ngay người bạn tâm giao là Câu-luật-đà, Ưu-Ba-đề-xá nói lại lời pháp
kia cho Câu-luật-đà nghe. Nghe qua như người ngủ được đánh thức, Câu-luật-đà
bừng ngộ, xa lìa trần cấu, đắc pháp nhãn thanh tịnh, liền hỏi Ưu-bà-đề-xáù:
- Ðức Như Lai du hoá, hiện giờ đang ở đâu?
- Hiện Ngài ở tại Trúc viên Ca-lan-đà.
- Ðức Như Lai là thầy của chúng ta, chúng ta nên cùng đến đó kính lễ, thăm
hỏi.
- Còn 250 huynh đệ thì sao?
- Khi thầy gần qua đời, di chúc cho chúng ta là cần phải dìu dắt, chỉ bảo
cho nhau để dẫn đến mọi thành tựu. Bây giờ đâu lẽ nào không thông báo cho
nhau, ra đi, bỏ họ lại sao?!
Hai người đi ngay đến chỗ huynh đệ, trước họ, Ưu-Ba-đề-xá nói:
- Tôi và Câu-luật-đà hôm nay muốn theo Sa-môn Cù Ðàm để tu phạm hạnh. Các
ông mỗi người tùy ý thích mà tự chọn con đường.
Và con đường lựa chọn của 250 huynh đệ là quyết theo con đường của hai cao
túc mình đã chọn. Hai người đưa 250 môn đệ đến thẳng vườn Trúc. Ðức Thế Tôn
từ xa đã trông thấy, Ngài bảo các Tỳ-kheo:
- Hai người sắp đến kia là Ưu-Ba-đề-xá và Câu-luật-đà. Hai người này sẽ là
bậc tối thượng thủ trong hàng đệ tử của Ta, trí tuệ vô lượng, thần túc vô
biên.
Họ đến gặp Phật và đức Phật vì tất cả họ, tuần tự nói pháp, luận về bố thí,
trì giới và sanh thiên, chê trách dục bất tịnh, khen ngợi hạnh xuất ly. Từ
nơi chỗ ngồi, họ liền hết các lậu hoặc, tâm ý sáng ra, nhận thức được mọi
vấn đề một cách đúng đắn. Họ đến trước Phật xin xuất gia tịnh tu phạm hạnh.
Ðức Phật dạy:
- Lành thay, các Tỳ-kheo đến đây! Ở trong pháp của Ta tịnh tu phạm hạnh, thì
nguồn gốc khổ sẽ được diệt trừ. Như vậy được gọi là xuất gia thọ Cụ túc
giới.
Như vậy, ở thời điểm này, chúng Tỳ-kheo của Phật lên đến 1.250 vị.
ÂN ẤY NÊN
TRẢ
Bấy giờ, có một Ma-nạp ngoại đạo muốn xuất gia thọ cụ túc giới trong chánh
pháp, bèn đến Xá-lợi-phất xin:
- Cho con xuất gia thọ Cụ túc giới.
Xá-lợi-phất không cho thọ. Ma-nạp tuần tự đi khắp chỗ 500 Tỳ-kheo để xin,
nhưng không vị nào cho thọ. Ma-nạp tủi thân buồn khóc, ra về.
Ðức Phật với thiên nhãn, Ngài nhìn thấy tấm lòng Ma-nạp, hỏi Xá-lợi-phất:
- Ma-nạp ấy tại sao khóc lóc ra về?
Xá-lợi-phất trình bày đầy đủ sự việc không cho thọ giới. Ðức Phật lại hỏi:
- Người này đã từng có một lần nói lời lành đối với Tỳ-kheo không?
- Thưa có. - Xá-lợi-phất trả lời.
- Lời nói lành ấy như thế nào?. - Ðức Phật hỏi.
- Thưa Thế Tôn, trước đây con đi khất thực, Ma-nạp này khen con: “Sa-môn
Thích tử này thiện hảo, có đức, nên cho thức ăn”. - Xá-lợi-phất bạch.
- Ân ấy nên trả. Ông có thể độ họ.
Xá-lợi-phất ghi nhận lời dạy và cho Ma-nạp thọ giới Cụ túc.
BỐN ÐIỀU
NƯƠNG TỰA
Lại có một Ma-nạp ngoại đạo phước mỏng nên khất thực khó được, lại có suy
nghĩ: “Sa-môn Thích tử khất thực dễ được, đau ốm có người giúp đỡ thuốc men.
Nay ta nên đến đó xuất gia thọ Cụ túc giới”. Làm theo ý nghĩ, Ma-nạp đến
Tăng phường bạch các Tỳ-kheo:
- Cho con xuất gia thọ giới Cụ túc.
Các Tỳ-kheo chấp thuận cho Ma-nạp thọ giới. Ma-nạp do nghiệp nặng, phước
mỏng nên theo thứ tự mời đi thọ thực bị Tăng gác lại. Các Tỳ-kheo nói:
-Thầy có thể mặc y, bưng bát đi khất thực.
- Thưa Ðại đức, tôi sợ đi khất thực lắm! Vì thế mới xuất gia trong giáo pháp
Phật. Nay tại sao lại bảo tôi đi khất thực?! - Ma-nạp thưa thế.
Các Tỳ-kheo bạch Phật, đức Phật dạy:
- Không nên độ hạng người này, nếu độ phạm Ðột-kiết-la. Khi độ,
phải hỏi trước: “Người vì lý tưởng nào mà xuất gia?”. Nếu nói vì ẩm thực thì
không nên độ. Nếu nói vì cầu thiện pháp, nhàm chán sanh, lão, bệnh, tử, ưu
bi, khổ não thì nên độ. Trước khi trao giới Cụ túc, nên nói rõ bốn việc phải
nương tựa, đó là: “Mặc y phấn tảo47,
đi khất thực, nương ngồi dưới gốc cây, thọ dùng tàn khí dược48.
Ngươi có thể trọn đời nương theo bốn việc này hay không?”. Nếu nói có thể,
thì nên cho thọ. Nếu nói không có thể, thì không nên cho thọ.
XIN MỘT LẦN CUỐI
Bấy giờ, thọ giới Cụ túc xong, một tân Tỳ-kheo gặp tình nhân cũ là một dâm
nữ. Dâm nữ nói với người tình cũ rằng:
- Anh không thể sinh sống được nên mới vào đạo, phải không?
- Tôi nhàm chán sanh, lão, bệnh, tử, ưu bi, khổ não, muốn hết gốc khổ nên
vào đạo, phụng hành chánh pháp, rộng tu phạm hạnh. - Tân Tỳ-kheo trả lời.
- Như lời anh nói thì việc giao hội không còn có nữa rồi. Nay anh có thể
cùng em hành dục một lần cuối đi! - Dâm nữ đề nghị.
Người mới thọ giới kia, nghe hợp lý thuận tình, hành dục, mãi chiều tối mới
về Tăng phường. Các Tỳ-kheo hỏi:
- Tại sao thầy ở lại sau?
Tân Tỳ-kheo trả lời đúng sự thật đã diễn ra. Các Tỳ-kheo liền xua đuổi:
- Thầy đi đi! Thầy cút đi! Trong pháp của Tỳ-kheo, nếu hành sự như vậy thì
chẳng phải Sa-môn, chẳng phải Thích tử.
Tân Tỳ-kheo nghe vậy, buồn rầu nói:
- Nếu khi thọ giới, nói với tôi việc này thì dù có mất mạng tôi đâu có phạm
phải tội đuổi đi.
Các Tỳ-kheo bạch Phật, đức Phật dạy:
- Thọ giới Cụ túc rồi phải nói mười hai pháp49,
bốn pháp đọa50,
bốn pháp ví dụ51,
bốn pháp nương tựa52.
NUÔI ÐỆ TỬ ÐÚNG PHÁP
Tỳ-kheo Ưu-ba-tư-na, khi ấy mới được hai tuổi hạ, dẫn đệ tử một tuổi hạ đến
kính lễ hầu thăm đức Phật. Kính lễ xong, Ưu-ba-tư-na ngồi lui qua một bên,
sau đó, người đệ tử lễ Phật. Trong lúc đầu mặt cúi xuống thì cái đãy mang
theo rơi lên đầu gối đức Phật.
Ðức Phật hỏi thầy Ưu-ba-tư-na:
- Thầy này là đệ tử của ai?
- Bạch Thế Tôn, đệ tử của con. - Ưu-ba-tư-na thưa.
- Thầy bao nhiêu tuổi (hạ)? - Ðức Phật hỏi.
- Con hai tuổi, bạch Thế Tôn.
Ðức Phật nghiêm khắc quở trách:
- Thầy làm điều phi pháp. Tại sao chính mình chưa rời khỏi bầu sữa, lại làm
bầu sữa cho kẻ khác?!
Quở trách rồi, đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Không nên trao giới Cụ túc cho người, khi tuổi hạ của mình chỉ từ một đến
chín tuổi. Phải đủ mười tuổi (hạ) như pháp mới được phép trao giới. Nếu chưa
đủ mười tuổi và không như pháp mà trao giới Cụ túc cho người thì phạm
Ðột-kiết-la.
PHẢI THÀNH
TỰU MƯỜI PHÁP
Trong thành Vương-xá, hồi ấy có một ngoại đạo lõa hình, ông ta rất thông
minh, uyên bác; người trong nước Ma-kiệt gọi ông là kẻ biết nhiều, thấy
rộng. Ngày ấy, ông đến Tăng phường53
như muốn thách thức đức Phật, ông ta hỏi:
- Sa-môn Thích tử nào dám cùng ta luận nghị?
Vào thời gian ấy, các Tỳ-kheo đang vui dạo trong các thiền định,
không ai chịu bàn luận, cũng không ai chuyện vãn nhau. Tôn giả Xá-lợi-phất
lại có suy nghĩ: “Ngoại đạo kia rêu rao như vậy, nếu không có vị nào luận
nghị, Phật pháp chắc bị hủy nhục. Nay ta có thể cùng họ luận nghị. Hơn nữa,
Ni-kiền54
này được người trong nước Ma-kiệt tôn kính, nếu ta dùng một cú nghĩa để hỏi
mà không thông hiểu, thì danh tiếng của họ chắc mất sạch và không thể trở
thành một pháp lớn ở đời. Bây giờ, nên định thời gian bảy ngày để ta cùng họ
luận nghị”.
Tôn giả Xá-lợi-phất cho công bố thời gian bảy ngày luận nghị với ngoại đạo.
Bấy giờ, trong thành Vương-xá, Trưởng giả, Cư sĩ, Bà-la-môn, Sa-môn hồi hộp
nghĩ: “Sa-môn Thích tử Xá-lợi-phất là đệ nhị sư, hẹn cùng Ni-kiền đệ nhất
sư, sau bảy ngày luận nghị chắc hấp dẫn lắm, cùng nhau đến nghe”.
Trong thời gian diễn ra luận nghị, từ ngày thứ nhất đến ngày thứ sáu, bao
vấn đề Ni-kiền-tử đều“thắt lưỡi”. Ðến ngày thứ bảy, Xá-lợi-phất đặt vấn đề:
“Dục từ tư tưởng sanh?”. Ni-kiền liền đáp: “Dục từ đối cảnh sanh”. Ðể chỉ ra
sự sai lầm này, Xá-lợi-phất liền nói kệ khẳng định:
Thế gian dục là gốc
Ðều từ tư tưởng sanh
Gốc dục thế gian trụ
Nên sanh tâm nhiễm trước.
Ni-kiền kệ vấn:
Dục do tư tưởng sanh
Do đó sanh nhiễm trước
Tỳ-kheo quán rõ ác
Bèn mất ngay phạm hạnh.
Xá-lợi-phất đáp lại rằng:
Tư tưởng không sanh dục
Mà từ đối tượng sanh
Thầy ông thấy các sắc
Tại sao không thọ dục?
Ni-kiền nghe kệ này rồi, không thể trả lời thêm gì được nữa, bèn sanh thiện
tâm, muốn xuất gia học đạo trong giáo pháp đức Phật.
Trong chúng, Bạt-nan-đà là người có tướng mạo cao đẹp nhất, còn Xá-lợi-phất
có hình dung nhỏ thấp. Ni-kiền thấy vậy so sánh: “Tỳ-kheo thấp nhỏ này, tài
trí còn như vậy, huống là người đường đường dung mạo kia!”. Với ý nghĩ ấy,
Ni-kiền đến chỗ Bạt-nan-đà thưa:
- Cho con xuất gia thọ Cụ túc giới.
Bạt-nan-đà liền độ Ni-kiền.
Xá-lợi-phất luận nghị xong, đến chỗ đức Phật, đầu mặt kính lễ sát chân rồi
ngồi lui qua một bên. Ðức Phật hỏi:
- Thầy cùng với Ni-kiền bảy ngày luận nghị, kết quả như thế nào?
Xá-lợi-phất trình bày đầy đủ diễn tiến sự việc, đức Phật khen:
- Lành thay! Lành thay! Xá-lợi-phất! Thầy có nhiều lòng lân mẫn và đầy lợi
ích.
Tỳ-kheo Ni-kiền hỏi Bạt-nan-đà về kinh luật. Bạt-nan-đà không trả lời trôi,
Ni-kiền bèn khinh khi Phật pháp và cho các Tỳ-kheo đều không biết gì.
Ni-kiền thôi tu, bỏ về lại ngoại đạo. Các Tỳ-kheo Trưởng lão quở trách, hỏi:
- Tại sao Tỳ-kheo mười tuổi hạ mà không biết pháp? Không thể vì đệ tử giải
quyết được những nghi hoặc cho họ để họ trở về lại ngoại đạo?!
Sự việc này được các Trưởng lão bạch lên đức Phật, Ngài dạy:
- Nếu chính mình không biết pháp, mà cho người xuất gia thọ Cụ túc giới,
phạm Ðột-kiết-la.
Tỳ-kheo nào thành tựu mười pháp mới được trao giới Cụ túc cho người: Thành
tựu giới, thành tựu oai nghi; Cẩn thận sợ tội nhỏ; Ða văn, có khả năng thọ
trì pháp Phật thuyết; Tụng rành hai bộ Luật, phân biệt được nghĩa lý; Ðủ khả
năng dạy đệ tử tăng giới học, tăng tâm học, tăng tuệ học; Có khả năng trừ
nghi cho đệ tử, cũng khiến người khác trừ nghi hoặc của họ; Có khả năng trị
bệnh cho đệ tử, cũng khiến người khác trị bệnh cho họ; Ðệ tử sanh ác tà kiến
có thể dạy cho họ bỏ, cũng có thể khiến người khác dạy cho đệ tử bỏ; Nếu đệ
tử quốc độ nào có sự hiểu biết còn nông cạn, mơ hồ, thì có khả năng xoay ý
hướng cho họ, cũng có khả năng khiến người khác tác động, xoay chuyển việc
đó; Ðủ mười tuổi hạ, hay hơn mười tuổi hạ.
Lại phải thành tựu mười pháp khác, nên trao giới cho người: Biết tội nặng;
Biết tội nhẹ; Biết thô tội; Biết chẳng phải thô tội; Biết tội hữu dư; Biết
tội vô dư; Biết tội có Yết-ma; Biết tội không Yết-ma; Biết nhân duyên của
tội; Ðủ mười tuổi hay hơn mười tuổi hạ.
Lại phải thành tựu năm pháp khác, nên trao giới Cụ túc cho người: Có khả
năng dạy đệ tử tăng giới học; Tăng tâm học; Tăng tuệ học; Xét kỹ việc làm
của mình; Buộc niệm trước mắt.
Lại phải thành tựu năm pháp khác, ngoài ba pháp trên: Thông minh; Biện tài.
Lại thành tựu năm pháp khác, là: Giới thành tựu; Ðịnh thành tựu; Tuệ thành
tựu; Giải thoát thành tựu; Giải thoát tri kiến thành tựu.
Lại phải thành tựu năm pháp nữa, là: Có khả năng dạy đệ tử Tăng thượng giới,
tăng thượng phạm hạnh. Biết phạm, biết không phạm. Biết sám hối, chưa sám
hối. Ðủ mười tuổi, hoặc hơn mười tuổi hạ, nên trao giới Cụ túc cho người.
PHẢI THƯA
ÐỂ TĂNG BIẾT
Bấy giờ, có một cậu bé được cha mẹ gửi đến nhà một thầy để học chữ và các kỹ
thuật. Ông thầy sai cậu bé làm đủ việc, lại thường bị đánh đòn. Cậu bé bỏ
ông thầy về lại nhà. Cha mẹ lại la rầy, buộc con phải trở lại nhà thầy.
Trước cảnh này, cậu bé nghĩ: “Ông thầy hành hạ ta, cha mẹ lại không bênh vực
ta. Nay ta nên tìm cách nào để thoát khỏi cái nạn này?! Chỉ có một cách xuất
gia thọ giới Cụ túc là yên”. Thực hiện ngay ý định, cậu bé đến Tăng phường
thưa với Tỳ-kheo:
- Cho con xuất gia thọ Cụ túc giới.
Các Tỳ-kheo chấp thuận và độ cậu bé này. Ông thầy giáo mất học trò, đến hỏi
cha mẹ. Cha mẹ cậu bé nói:
- Tôi bảo nó trở lại thầy mà, chắc bỏ đi rồi!?
Thế là cha mẹ cậu bé và ông thầy dạy học tìm kiếm khắp nơi... Ðến Tăng
phường hỏi các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo đều trả lời không thấy. Thầy giáo và cha
mẹ cậu bé đành bó tay trở về.
Sau đó, cậu bé này vào thành khất thực. Thầy giáo biết, cơ hiềm:
- Sa-môn Thích tử thường dạy không nói dối, tại sao độ người làm lại là học
trò của tôi, lại bảo là không thấy?!
Việc này được các Trưởng lão quở trách, rồi bạch lên Phật. Ngài dạy: “Không
được độ người làm của kẻ khác”.
Ngài lại dạy: “Từ nay nếu độ người nên dẫn đến từng phòng để lễ Tăng, tự
xưng tên họ để Tăng biết”.
KHÔNG ÐƯỢC
ÐỘ NGƯỜI MANG
TRỌNG BỆNH
Bấy giờ, người nước Ma-kiệt mắc phải bảy thứ bệnh nghiêm trọng
như, cả người mọc nhọt ghê tởm, ung thư, hủi trắng, nửa người khô da quái
gở, loang lỗ từng chấm đỏ, mỡ chảy ra... Chữa trị những chứng này chỉ có
Kỳ-vức55,
các thầy thuốc khác đều “thúc thủ”, nên Vua Bình-sa chỉ thị cho Kỳ-vức rằng:
- Khanh chỉ trị bệnh cho nội cung của trẫm và Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, không
được trị cho người khác.
Do thế, khiến cho bệnh nhân tìm cách xuất gia thọ giới Cụ túc ngày một
nhiều, và các Tỳ-kheo đều chấp thuận cho xuất gia. Vì phải tìm dược thảo và
bào chế thuốc để chữa trị, nên các Tỳ-kheo bận rộn với công việc này, bỏ bê
việc hành đạo. Các bạch y rất bất mãn với việc làm này, cơ hiềm chỉ trích:
- Các Sa-môn như thầy thuốc, như đồ đệ của thầy thuốc, cứ lo bào chế thang
dược độ người trọng bệnh, không cân nhắc người đáng độ hay không đáng độ,
không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn...
Có một Trưởng giả nọ, bỗng nhiên mắc phải bảy thứ trọng bệnh này, đến nói
với thầy thuốc Kỳ-vức:
- Thầy chữa hộ bệnh cho tôi.
- Ngài há không nghe lệnh nhà vua hay sao? - Kỳ-vức hỏi thế.
- Thầy chữa bí mật, tôi sẽ trả cho thầy trăm ngàn tiền. - Trưởng giả tha
thiết xin.
Kỳ-vức trả lời như ban đầu. Ông Trưởng giả đề nghị tặng thêm 200, 300, 400,
500 ngàn tiền vàng, cho đến giao cả gia tài sự nghiệp và cả vợ con đều làm
nô tỳ cho Kỳ-vức, nhưng Kỳ-vức trước sau một mực tuân theo lệnh vua.
Trước sự thể như thế, ông Trưởng giả nghĩ: “Ðến thế này vẫn không có kết
quả, thôi đành chọn con đường xuất gia thọ Cụ túc giới”. Trưởng giả đến Tăng
phường thưa với các Tỳ-kheo, xin xuất gia thọ Cụ túc giới. Sau đó, Kỳ-vức
chữa trị một mạch bảy ngày các bệnh nhân đều lành, trong đó có Trưởng giả.
Bận rộn với công việc chữa trị liên tục này, Kỳ-vức không còn đủ thì giờ
chăm sóc cho các bệnh nhân trong nội cung, có người phải chết.
Ông Trưởng giả lành bệnh, sau đó lại hoàn tục, Kỳ-vức gặp, hỏi:
- Ngài đã xuất gia, tại sao lại bỏ đạo?
- Thật sự tôi không có ý xuất gia. Do thầy không chịu chữa bệnh cho tôi, nên
tôi quyền biến xuất gia. Nay bệnh đã lành rồi, tôi hoàn tục âu cũng là lẽ
thường. - Trưởng giả thật lòng trả lời.
Khi ấy, Kỳ-vức đến chỗ Phật, trình bày lên Ngài đầy đủ việc đã xảy ra, rồi
thưa:
- Nếu nhà vua biết việc này thì tội tôi không phải nhỏ. Nguyện xin đức Phật
dạy các Tỳ-kheo không nên độ người có trọng bệnh.
Ðức Phật vì Kỳ-vức nói các diệu pháp, rồi khiến ông lui về.
Sự việc này dẫn đến Phật cấm các Tỳ-kheo độ người mang trọng bệnh như vậy.
KHÔNG ÐƯỢC ÐỘ
QUÂN NHÂN TẠI CHỨC
Dưới triều vua A-xà-thế có một kiện tướng, sức mạnh bằng 1.000 người. Người
đời bấy giờ gọi là Thiên Nhơn lực sĩ. Ông ta nhàm chán đời khổ, nên có suy
nghĩ: “Các Sa-môn Thích tử đều phụng hành chánh pháp, ta nên đến đó xuất gia
để dứt gốc khổ”. Thế rồi Thiên Nhơn lực sĩ đến Tăng phường cầu độ, các
Tỳ-kheo trao giới Cụ túc. Sau đó, vua A-xà-thế ra lệnh động binh, nhưng
không thấy Thiên Nhơn lực sĩ trình diện. Nhà vua liền hỏi phần hành thuộc
quyền, họ tâu với vua:
- Không biết Thiên Nhơn lực sĩ ở đâu.
Nhà vua liền ra lệnh:
- Nếu quân triều đình hội binh mà quân sĩ nào không đến, sẽ dùng quân pháp
trị tội.
Ngày hội binh diễn ra, nhà vua hỏi:
- Kiện tướng đến chưa?
- Tâu Ðại vương, vị ấy chưa đến. - Quan coi quân thưa.
- Bộ binh mà không có người này cũng như tượng quân không có đệ nhất tượng.
- Vua nói.
Khi quân pháp đã giải tán thì mới nghe Sa-môn Thích tử độ kiện tướng kia
xuất gia. Nhà vua nổi giận, phán:
- Như thế này thì không lâu nữa Sa-môn Thích tử sẽ độ hết người trong các
binh chủng triều đình.
Nhà vua lại nghiêm cấm:
- Nếu độ quân nhân sẽ chẻ gân cốt của vị Hòa thượng, cắt lưỡi vị A-xà-lê,
còn các Tăng khác trị tội thật nặng, lấy cát lột da, đánh tám roi, đuổi ra
khỏi nước.
Các Trưởng lão biết việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Không nên độ người thuộc nhà quan.
XIN ÐƯỢC
GIA TÀI CỦA CHA
Ngày ấy, trời vừa sáng, đức Thế Tôn đắp y bưng bát đến cung vua Tịnh-phạn.
Khi ấy, mẹ của La-hầu-la dẫn La-hầu-la lên lầu cao. Từ xa thấy Phật đi vào,
bà hỏi:
- Con có thấy Sa-môn kia không?
- Con có thấy. - La-hầu-la thưa.
- Ðó là cha của con. Con có thể đến đòi của cải. - Gia-du bảo con như thế.
Ðức Phật vào trong cung, ngồi nơi đất trống trước sân. La-hầu-la chạy xuống
lầu, đến chỗ Phật, đầu mặt kính lễ sát chân rồi đứng trong bóng của đức
Phật, thưa:
- Bóng mát này thích quá! Nguyện Phật cho của cải của cha con.
- Con nghĩ kỹ, có muốn được hay không? - Ðức Phật hỏi.
- Con muốn được. - La-hầu-la thưa.
Ðức Phật bèn dẫn La-hầu-la về trú xứ, bảo Xá-lợi-phất:
- Ông có thể độ đứa nhỏ này.
- Bạch Thế Tôn, trước đây Thế Tôn không cho phép nuôi hai Sa-di. Con đã nuôi
Châu-na rồi, không thể độ nữa. - Xá-lợi-phất thưa.
- Nay cho phép những người như ông, có khả năng giáo giới, được nuôi hai
Sa-di.
Khi vua Tịnh-phạn nghe đức Phật đã độ La-hầu-la, lòng rất ưu phiền, áo não.
Vua đến chỗ Phật trình bày:
- Xưa kia Phật xuất gia còn có Nan-đà, không làm cho tôi áo não như vậy.
Nan-đà đã lại xuất gia, tôi còn chút hy vọng ký thác nơi đứa cháu này. Nay
nó lại xuất gia, vấn đề kế thừa việc nước việc nhà thế là đoạn tuyệt. Kẻ
chưa dứt được vọng tình, làm sao nhẫn chịu?!
Nhà vua lại nhân trường hợp của mình, bạch Phật:
- Sự luyến ái đối với con cháu còn hơn cốt tủy. Tại sao các Tỳ-kheo lại lén
dụ dẫn con của người ta độ để làm đạo? Nguyện xin Phật từ nay ra lệnh cho
các Tỳ-kheo: “Cha mẹ không cho phép thì không được độ”.
Ðức Phật vì nhà vua nói các pháp mầu, chỉ bày sự lợi ích khiến được niềm
vui. Nhà vua lui về.
Sau khi kiểm vấn việc độ này của các Tỳ-kheo, đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Từ nay cha mẹ không cho thì không được độ người xuất gia.
BÌNH ÐẲNG
KỂ CẢ THỨC ĂN
Lúc bấy giờ, trong thành Vương-xá có một đại phú Trưởng giả rất kính tín,
mến mộ Phật pháp. Ông ta thường thết đãi cơm cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni,
Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Sau đó, gia đình ông bị phi nhơn làm hại, chết chẳng
còn ai, chỉ còn lại hai đứa bé nghèo khổ cùng cực, thường lượm thức ăn dư để
sống. Vì trước kia thường gần gũi Tỳ-kheo, nên hai đứa bé rất mến quý thầy,
thấy Tỳ-kheo từ xa đã chạy đến, cầm y bát, ngồi trên bắp vế Tỳ-kheo. Các
Tỳ-kheo sợ nhớp y bát nên tránh xa nó. Các Cư sĩ rất bất mãn hành vi này, cơ
hiềm chỉ trích:
- Nhà ấy trước đây giàu có, tất cả Sa-môn không ngày nào không đến. Nay thấy
con người ta mồ côi mồ cút, bần cùng, Tỳ-kheo lại tránh xa, không biết ơn
nuôi dưỡng của họ. Chỉ có thức ăn thì mới gần, không có hạnh Sa-môn, phá
pháp Sa-môn.
Các Trưởng lão nghe và bằng nhiều cách quở trách các đương sự, rồi bạch lên
đức Phật. Ðức Phật hỏi A-nan:
- Hai đứa bé kia đã bao nhiêu tuổi? Có thể đuổi quạ nơi nhà ăn được chưa?
- Bạch Thế Tôn, có thể được. Ðứa lớn 8 tuổi, đứa nhỏ 7 tuổi.
Sau đó, hai đứa bé được độ và giữ phần việc đuổi quạ nơi nhà ăn, nhưng các
Tỳ-kheo không cho chúng ăn thức ăn chánh. Các Cư sĩ cũng bất mãn việc này và
phê phán:
- Các Sa-môn thường khen ngợi sự bố thí, ăn bình đẳng. Nay độ hai đứa bé này
sai đuổi quạ mà không cho thức ăn chính.
Việc này sau đó đức Phật dạy:
- Như phần ăn mà Thượng tọa nhận được, phần Sa-di cũng như vậy. Ðứa nhỏ đuổi
quạ cũng cho nhận bình đẳng như thế.
PHI NHƠN
XUẤT GIA
Bấy giờ, có một A-tu-la
nhàm chán sanh, lão, bệnh, tử, khởi lên ý nghĩ: “Sa-môn Thích tử phụng hành
chánh pháp, tịnh tu phạm hạnh. Ta nên đến đó xuất gia sẽ hết các gốc khổ”.
A-tu-la liền hóa thành hình người, đến Tăng phường cầu xin xuất gia. Các
Tỳ-kheo liền cho thọ Cụ túc giới. Tân Tỳ-kheo này ăn phần ăn của một người
đến bảy người vẫn không no, ăn cả thức ăn dư của Tăng vẫn không đủ.
Khi ấy, thành Vương-xá có hai vị Cư sĩ, cùng một ngày, mỗi nơi mời 500 vị
Tăng thọ trai. Các Tỳ-kheo cùng đến một nhà, còn một nhà chỉ có Tỳ-kheo hóa
thân đến mà thôi. Tỳ-kheo này chỉ trong thoáng chốc đã ăn hết 500 phần ăn.
Các Cư sĩ cơ hiềm, nói:
- Tại sao các Tỳ-kheo lại độ phi nhơn?
Kẻ hóa thân người kia biết thiên hạ đã biết về mình rồi, liền trở về vị trí
cũ.
Các Tỳ-kheo Trưởng lão biết việc này, bạch Phật. Ðức Phật dạy:
- Ở trong giáo pháp của Ta, phi nhơn không phục sinh, không nên cho xuất gia
thọ Cụ túc giới. Nếu đã thọ Cụ túc giới thì nên diệt tẫn. Khi thọ giới Cụ
túc, nên hỏi: “Ngươi có phải là phi nhơn không?”.
CẦN GIẢI
QUYẾT TẾ NHỊ
Khi ấy, có một Tỳ-kheo nam căn biến mất, nữ căn lại hiện ra. Các Tỳ-kheo
không biết phải giải quyết thế nào, bạch Phật. Ðức Phật dạy:
- Nên dùng vấn đề thọ giới, vấn đề thỉnh sư, vấn đề tuổi tác của
đương sự chuyển qua trú xứ Tỳ-kheo ni, y theo pháp Tỳ-kheo ni mà sống. Nếu
trước kia phạm cộng giới của Tỳ-kheo nithì
nên hối quá trong Tỳ-kheo ni. Nếu trước kia phạm giới bất cộng thì khỏi phải
hối quá. Tỳ-kheo ni biến căn thì giải quyết ngược lại.
Bấy giờ, có một Tỳ-kheo bị lửa dục thiêu đốt, không thể kham nhẫn, tự chặt
đứt “nam căn” của mình. Việc này được các Tỳ-kheo bạch lên Phật. Ngài quở
trách Tỳ-kheo đương sự:
- Ngươi là người ngu si, cái không nên chặt lại chặt, cái nên chặt lại không
chặt.
Ðức Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Nếu chặt cái đầu âm cho đến phân nửa “hình” thì phạm Ðột-kiết-la. Nếu chặt
hết, phạm Thâu-lan-giá. Nếu khử đi một tinh hoàn, phạm Thâu-lan-giá. Nếu khử
đi hai tinh hoàn thì nên diệt tẫn. Nếu bị ác thú hoặc bị oan gia làm hại và
tự thối nát hư hoại mà không phục hồi khả năng người nam nữa, đều nên diệt
tẫn.
TÔN, TY
Bấy giờ các Tỳ-kheo ngồi không có trên dưới, không cung kính nhau, các Cư sĩ
thấy cơ hiềm, nói:
- Bọn sa-môn này ngồi không biết thượng, trung, hạ, không có lớn nhỏ. Họ
không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn.
Các Trưởng lão Tỳ-kheo nghe việc này bạch Phật. Nhân chuyện này, trước Tăng
đức Phật mượn câu chuyện quá khứ để giáo giới:
- Ðời xa xưa ấy, bên bờ biển nọ có cây Ni-câu-luật,
bóng cây che phủ cả 500 cỗ xe. Bấy giờ, có ba con thú ở nơi cây này: một là
chim trĩ, hai là con khỉ lớn, ba là con voi. Tuy là thân hữu nhưng chúng
không có tôn kính nhau. Sau thời gian, chúng thảo luận: “Chúng ta đã là thân
hữu, tại sao lại không kính nhau? Nên dựa theo năm, ai lớn hơn là tôn, ai
nhỏ hơn là ty”. Cả ba đồng ý như vậy nên trĩ và khỉ hỏi voi:
“Bạn nhớ việc lâu xa của cây này như thế nào?”
“Tôi nhớ cây này khi ấy cao mới ngang bụng tôi”. - Voi trả lời.
Voi, trĩ hỏi khỉ lớn, khỉ bảo:
“Tôi nhớ khi ấy tôi đứng thẳng thì cắn tới đọt cây này”.
Voi và khỉ lại hỏi trĩ, trĩ bảo:
“Tôi nhớ xưa kia ở nơi chỗ đó, tôi ăn hạt cây này, rồi đến đây nhả ra, hạt
ấy mọc lên cây này”.
Sự nhớ lại này đã giúp cho cả ba thống nhất việc suy cử tôn ty: Chim trĩ là
lớn, con khỉ lớn là bậc trung, voi là nhỏ nhất.
Khi cần đi, con khỉ cõng con chim trĩ, con voi cõng khỉ lớn. Con trĩ dạy hai
con kia làm 10 thiện nghiệp, chúng đều vâng làm theo. Người đời nghe, đều
ghi nhận sự giáo hóa đó, bèn gọi hành thiện là trĩ phạm hạnh. Người hành
pháp đó khi mạng chung được sanh lên cõi trời.
Này các Tỳ-kheo! Súc sanh còn biết có tôn ty, huống là trong chánh pháp của
Ta lại không có sự tương kính hay sao? Từ nay các ông, người nào thọ giới Cụ
túc trước, nên thọ chỗ ngồi thứ nhất, vật cúng thứ nhất, được cung kính lễ
bái thứ nhất. Nên phụng hành như vậy.
BỐ-TÁT
THUYẾT GIỚI1
Bấy giờ, Kiếp-tân-na ở núi Ất-sư-la khởi lên ý nghĩ: “Nay ta có nên đến chỗ
Tăng hợp lại để Bố-tát không?”. Nhưng, Kiếp-tân-na lại nghĩ: “Ta thường
thanh tịnh, phiền gì phải đến Bố-tát”.
Ðức Phật khi ấy trú ngụ ở thành Vương-xá, biết ngay ý nghĩ này của
Kiếp-tân-na, Ngài liền biến mất nơi đây, rồi xuất hiện trước mặt
Kiếp-tân-na, ngồi nơi tòa và bảo:
- Thầy chớ nên nghĩ: “Ta thường thanh tịnh, phiền gì phải đến Bố-tát”. Nếu
thầy không đến, không cung kính Bố-tát thì ai cung kính?
Thế Tôn dạy như vậy, rồi bèn cùng Kiếp-tân-na cùng biến mất và hiện ra nơi
thành Vương-xá...
Nhân việc này, đức Phật cho tập hợp Tỳ-kheo Tăng, nói lên điều Kiếp-tân-na
suy nghĩ rồi bảo các Tỳ-kheo:
- Nay cho phép các Tỳ-kheo hòa hợp Bố-tát. Nếu ai không đến, phạm
Ðột-kiết-la. Một Tỳ-kheo biết pháp, hoặc Thượng tọa, hoặc vị ngang bằng
Thượng tọa bạch:
“Ðại đức Tăng xin lắng nghe! Hôm nay là ngày thứ 15 Bố-tát thuyết giới, Tăng
nhất tâm tác pháp Bố-tát thuyết giới. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng,
Tăng chấp thuận thì đây là lời tác bạch”.
“Các Ðại đức! Nay Bố-tát nói Ba-la-đề-mộc-xoa, tất cả cùng nhau khéo nghe và
suy niệm. Nếu có tội, nên phát lồ, không tội thì im lặng. Do sự im lặng nên
biết tôi và các Ðại đức thanh tịnh, như bậc Thánh im lặng, tôi và các Ðại
đức cũng như vậy”.
Tỳ-kheo nào trong chúng xướng lên như vậy cho đến ba lần, nhớ có tội mà
không phát lồ thì phạm tội cố ý vọng ngữ. Tội cố ý vọng ngữ, đức Phật nói đó
là pháp làm cản trở đạo nghiệp. Người phát lồ thì được an lạc.
Ðức Phật dạy có năm cách Bố-tát, năm cách thuyết giới.
Năm cách Bố-tát là:
1- Tâm niệm
miệng nói Bố-tát.
2- Hướng đến
người khác (Tỳ-kheo) nói tịnh.
3- Rộng hay
lược thuyết giới.
4- Tự tứ
Bố-tát
5- Hòa hợp
Bố-tát.
Năm cách thuyết giới là:
1- Nói bài
tựa của giới rồi, ngoài ra nói các điều chư Tăng thường nghe.
2- Nói bài
tựa của giới và bốn đọa pháp rồi, ngoài ra nói các điều chư Tăng thường
nghe.
3- Nói bài
tựa của giới... cho đến 13 việc rồi, ngoài ra nói các điều chư Tăng thường
nghe.
4- Nói bài
tựa của giới... cho đến 2 pháp bất định, ngoài ra nói các điều chư Tăng
thường nghe.
5-
Nói đầy
đủ các giới.
BÊN LỀ
BỐ-TÁT
Ðến ngày Bố-tát, các Cư sĩ đem thức ăn đúng thời, đồ uống đúng
thời, thuốc
bảy ngày,
thuốc trọn đời
đến Tăng phường cúng dường, đồng thời nghe pháp, thọ tám phần giới (Bát quan
trai). Các Tỳ-kheo lại hững hờ đối với sự cúng dường này, Cư sĩ nổi giận
mang về. Việc thiếu tế nhị này được các Tỳ-kheo bạch lên đức Phật, Ngài dạy:
- Thượng tọa nên khiến Hạ tọa quét đất, lấy nước, khiến bảo Tịnh nhơn lấy
vật dụng đựng phẩm vật Cư sĩ cúng.
Các Tỳ-kheo thọ trai hết phần, không ngó ngàng gì đến Cư sĩ khách. Khách bất
mãn, chê trách nói:
- Sa-môn Thích tử thường khen ngợi bố thí, chỉ biết nhận bố thí của người,
chứ chẳng biết bố thí cho ai.
Việc này sau đó được Phật dạy:
- Nên trao thức ăn để khách dùng. Nên có đồ đựng, đựng thức ăn mời họ, không
nên bỏ vào tay họ...
Sau khi dùng bữa xong, Thượng tọa hay vị ngang bằng Thượng tọa vì họ nói
pháp và chú nguyện.
XIN ÐỢI
CHO TÔI MỘT CON BÓNG...
Thuở ấy, vua Ưu-đà-diên rành về khoa tướng số và phu nhân của nhà vua tên là
Nguyệt Quang, dung nhan cực kỳ dịu dàng xinh đẹp; lời ca, tiếng hát, điệu
múa... không ai hơn được. Một hôm, trên lầu thượng múa cho nhà vua xem, nhà
vua nhìn thấy tướng tử nơi Nguyệt Quang hiện ra, sự sống không thể kéo dài
quá một năm. Nhà vua không vui khi thấy với nhan sắc ấy mà “yểu mệnh”. Nhìn
thấy nỗi buồn của vua hiện ra, phu nhân hỏi:
- Thiếp múa không hay lắm phải không? Vậy hoàng thượng buồn chuyện gì?
- Không nên hỏi ta điều ấy. - Nhà vua trả lời.
Dù vậy, phu nhân vẫn hỏi đến ba lần. Nhà vua không từ chối được, vua đành
phải nói rõ sự thật phũ phàng kia. Phu nhân tâu:
- Nếu thật vậy thì cho phép thiếp xuất gia.
- Ta và phu nhân thương yêu và kính trọng nhau rất mực, dù chết cũng không
lìa nhau, hãy trọn vui với cái vui ít ỏi còn lại. Sao vội sống lìa nhau?! -
Nhà vua tâm sự.
- Hoàng thượng! Nhiễm chỉ một chút vinh hoa của đời là mê muội đạo nghiệp!
Ðây là việc bức xúc, trì hoãn chỉ đem lại sự khổ đau cho nhau. Xin hoàng
thượng dũ lòng thương cho thiếp xuất gia. - Phu nhân tha thiết xin.
- Phu nhân còn nhỏ mà tu đạo với quyết tâm sáng suốt thì chắc được sanh
thiên. Nếu trở lại làm người, mong sao chúng ta gặp lại nhau. Việc xuất gia,
thôi thì tùy ý phu nhân chọn lựa. - Nhà vua cho phép.
- Nguyện này nếu được thành, xin thề không trái hứa. - Phu nhân thề.
Ngày phu nhân xuất gia, nhà vua cũng rất não lòng.
Hành đạo không bao lâu, phu nhân chứng được quả A-na-hàm thì mạng sống cũng
liền chấm dứt. Bà sanh lên cõi trời Phạm Thiên. Khi ấy, bà khởi niệm: “Ta
được xuất gia là nhờ ân của vua, trọng ân ấy nên trả thì lời thề ước mới
trọn”.
Người cõi trời kia xuống lại vương cung, đứng trong hư không, nói với nhà
vua:
- Nguyệt Quang phu nhân tức là thân của tôi đây, trước đây có hứa với nhà
vua cho nên trở xuống lại, đây là để tỏ lòng thành tín.
- Tôi không biết được thân loài trời, nên cô có thể hiện lại thân Nguyệt
Quang ngày nào không? - Nhà vua yêu cầu.
Người cõi trời liền biến thành thân hình ngày xưa, đứng trước nhà vua. Nhìn
thấy lại dáng người xưa, lòng vua lại nặng tình thương mến, tiến sát đến
định ôm lấy Nguyệt Quang, nhưng người ấy liền bay lên hư không, nói với vua
rằng:
- Tại sao nhà vua vẫn quen theo nếp sống ái dục? Dục là vô thường, khổ,
không, bất tịnh. Suy nghĩ hiểu ra được nghĩa này thì có thể giải thoát.
Không hiện thực được điều này, chắc chắn đọa vào ba đường ác. Khi ấy, tự
thân có cải thiện được cũng là điều khó!
Nhà vua nghe lời ấy, tâm liền nhu thuận, ý thức được vấn đề. Sau đó, nhà vua
không còn vướng bận đến ngôi vua nữa, liền giao ngôi vua cho thái tử để xuất
gia học đạo.
Nhà vua đến một khu rừng vắng, cách vương thành không xa, ngồi tu ở đây.
Thái tử thấy vua cha xuất gia mà không tu ở một nơi xa hẳn, nên thái tử nơm
nớp sợ cha còn hối tiếc, quay trở lại đoạt ngôi. Do thế, thái tử ngỏ lời xin
phụ vương rời đi một nơi khác thật xa vương thành.
Trước lời đề nghị này, nhà vua suy nghĩ: “ Nay ta làTỳ-kheo phụng hành lời
Phật dạy mà chưa thấy được đức Phật, nay đến đó để đảnh lễ đức Thế Tôn”,
nghĩ rồi ra đi. Khi tân vương, quần thần, Bà-la-môn đứng trên lầu cao nhìn
thấy nhà vua rời khu rừng đi ra, lòng họ rất vui mừng. Ði được một đoạn
đường ngắn, nhớ lại cái tọa cụ để quên, nhà vua quay trở lại để lấy. Các
Bà-la-môn lại nói với tân vương rằng:
- Nhà vua đã trở lại, đó là mối nguy lớn cho tân vương.
Nghe lời sàm tấu, tân vương đâm hoảng, sợ mất ngôi liền ban lệnh cho các
quan:
- Hãy đến giết Tỳ-kheo kia và giết tất cả Sa-môn Thích tử khác.
Vua lại ra lệnh:
- Nếu người đó sợ chết, dựng nên nhiều cớ để xin đến gặp ta thì cũng không
quên thi hành lệnh giết tức khắc.
Kẻ
thi hành lệnh đi ngay đến chỗ Tỳ-kheo, hối hả nói:
- Lệnh của tân vương phải giết ngài!
- Tại sao lại giết tôi? - Tỳ-kheo hỏi.
- Do ngài đi rồi lại quay trở lại, tân vương hoảng hồn, sợ ngôi vua của mình
bị cướp nên hạ lệnh giết.
- Tôi không tham vương vị, vì quên tọa cụ nên quay lại để lấy. Như vậy,
chuyện gì phải giết tôi?!
- Lệnh của nhà vua là phải giết, không có chuyện nài nỉ, van xin, trì hoãn
để mong gặp mặt vua. Lệnh như thế làm sao tôi không thi hành ngay được?
- Tôi xuất gia nhưng sở cầu chưa đạt, xin người hoãn cho tôi một chút, chỉ
cần đợi bóng cây kia đến đây là đủ.
Kẻ thi hành lệnh chấp thuận. Tỳ-kheo vua cha mắt nhắm lại, tập trung tư duy
trong chánh định, liền đắc quả Tu-đà-hoàn. Khi con bóng vừa ngã đến, kẻ thừa
lệnh nói:
- Bóng cây đến sát rồi đó!
- Xin hoãn cho tôi một con bóng, vì sở cầu của tôi cần đạt thêm.
Kẻ thừa lệnh chấp thuận và ngay sau đó chấp thuận thêm hai khoảng thời gian
ngắn ngủi nữa, Tỳ-kheo vua cha mới đạt được sở cầu trọn vẹn, đó là chứng
được bốn quả Sa-môn: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán.
Chứng quả xong, Tỳ-kheo vua cha nói với kẻ thừa hành:
- Ngươi có thể thi hành lệnh, rồi trở về báo cáo với vua của ngươi rằng: “Ta
không tham vương vị, vì quên tọa cụ nên quay trở lại để lấy mà thôi. Vua của
ngươi vì việc này mà giết ta, tức là giết cha, giết A-la-hán. Ta nghĩ: Người
ấy sẽ thọ đại khổ lâu dài”.
Vừa nói dứt lời, Tỳ-kheo vua cha trút hơi thở cuối cùng. Khi kẻ thừa lệnh
giết trở về, vua hỏi:
- Ngươi đã giết chưa?
- Tâu hoàng thượng đã giết rồi.
- Phụ vương trước khi lâm chung có nói lời gì không?
Kẻ thừa lệnh thở dài, nghẹn ngào tâu lại đầy đủ diễn tiến cảnh giết Tỳ-kheo.
Nghe lời nhắn gửi của cha - qua lời thuật - huyết từ trong miệng tân vương
phụt ra. Rõ ràng tân vương còn sống mà thân đã vào địa ngục.
Trong thời gian này, vua Bình-sa cùng các lân quốc nghe báo cáo lệnh giết
hết Sa-môn Thích tử, liền hạ lệnh cho các tướng sĩ bảo vệä Tỳ-kheo. Thi hành
sắc lệnh, các tướng sĩ thành Vương-xá cẩn mật không rời Tỳ-kheo. Ðến nổi,
ngày thứ 15 Bố-tát, Tăng tập hợp đến 500 người đề nghị tướng sĩ nên lui ra,
song các tướng sĩ trả lời:
- Chúng tôi vâng lệnh của đại vương không được tạm rời quý vị, đâu dám trái
lệnh của đại vương!
Việc này không biết giải quyết thế nào, Tỳ-kheo bạch lên Phật, Ngài dạy:
- Nếu họ không chịu đi tránh ra ngoài chỗ Bố-tát, thì Tăng chỉ nói tựa của
giới rồi nói tiếp những việc kia Tăng thường nghe.
MÙA HẠ TRUYỀN THỐNG1
Hồi ấy, các Tỳ-kheo Xuân, Hạ, Ðông đều đi du hành, nhất là vào mùa mưa, đạp
chết trùng cỏ, y vật ướt sũng, mang theo đường nặng nề, trông thật gian khổ
và lắm điều phiền toái... Các Cư sĩ nhìn thấy cảnh này, bất mãn nói:
- Các ngoại đạo Sa-môn, Bà-la-môn đến mùa Hạ trong năm còn biết dừng nghỉ
tránh mưa, các loài chim cũng thế, chúng làm tổ, làm hang để tạm trú cho
yên. Ngược lại, các Tỳ-kheo không biết ba mùa, mùa nào nên du hành, mùa nào
không nên du hành. Các Tỳ-kheo thường nói thiểu dục, từ mẫn, hộ niệm chúng
sanh, mà nay dẫm đạp lên chúng sanh, không có tâm nhân từ, trắc ẩn, không có
hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn.
Sự việc này được bạch lên đức Phật, lúc bấy giờ Ngài lưu ngụ tại thành
Xá-vệ, Ngài dạy:
- Từ nay, cho phép an cư vào mùa Hạ2.
Và đây là điều bắt buộc chúng Tăng phải thi hành để trưởng dưỡng sự tu tập.
TƯỞNG “Á
PHÁP” LÀ HAY1
Lúc bấy giờ, nơi trú xứ nọ có số đông Tỳ-kheo an cư. Các thầy có cùng quan
điểm là an cư phải thực hiện quy chế như vầy: “Chúng ta nếu cùng nhau nói
năng trao đổi thì thêm việc này, bớt việc nọ, sanh ra nhiều việc rối rắm,
phiền phức. Chi bằng nên cùng nhau thống nhất làm theo quy chế là chớ nên có
lời lẽ gì với nhau, đóng cửa miệng lại. Ai khất thực về trước thì lau quét,
rưới nước bụi chỗ dọn ăn, lấy nước đầy bình, đặt khăn lau tay lau chân vào
vị trí, trải các tọa cụ, lấy sẵn đồ đựng thức ăn dư, lường thức ăn, có dư
thì sớt bớt để vào đó, người nào ăn thiếu thì lấy đó mà ăn, ăn rồi theo thứ
tự dọn dẹp. Nếu một mình không thể làm được thì ra dấu nhờ bạn cùng làm. An
cư mà như vậy là được sống an lạc, không mắc phải cái họa đúng-sai,
phải-quấy”.
Mùa an cư nơi trú xứ ấy, các thầy thực hiện theo pháp của người câm (á pháp)
rồi cũng qua nhanh.
Theo thường pháp của chư Phật, mỗi năm có hai lần đại hội(trước hạ và sau
hạ). Các Tỳ-kheo ra hạ đều về hầu thăm đức Phật, lúc bấy giờ đức Phật trú
ngụ ở tinh xá Kỳ-hoàn, Xá-vệ. Khi đến chỗ Phật, các Tỳ-kheo an cư ở trú xứ
ấy, đầu mặt lễ túc rồi ngồi qua một bên. Ðức Phật an ủi, hỏi:
- Các thầy an cư có hòa hợp không? Khất thực không thiếu, trên đường về đây
không vất vả chứ?
- Bạch Thế Tôn! Chúng con an cư hòa hợp, khất thực không thiếu, trên đường
đi không nhọc nhằn. - Các Tỳ-kheo thưa.
- Các thầy an cư bằng cách nào để được hòa hợp? - Ðức Phật hỏi.
Các Tỳ-kheo trả lời đầy đủ như trên. Ðức Phật bằng mọi hình thức quở trách:
- Các thầy ngu si, giống như oan gia sống với nhau, làm sao có được sự hòa
hợp, an lạc?! Ta đã sử dụng nhiều phương cách dạy các thầy chung sống, điều
cần thiết là phải nhắc nhở, giáo giới cho nhau, xây dựng, giác ngộ cho nhau
để làm tròn đạo nghiệp. Tại sao nay các thầy lại thực hành “á pháp”? Từ nay
nếu thực hiện cái pháp câm, không cùng trao đổi nhau bằng lời sách tấn thì
phạm Ðột-kiết-la.
ÐÂY LÀ LỜI
THƯA
Có một trú xứ, chúng Tăng an cư sau ba tháng đều thọ đắc sự chứng ngộ. Các
thầy khởi lên ý niệm: “Nếu đủ ba tháng mà Tự tứ để di chuyển thì niềm vui
chứng đạo mất đi”. Các thầy đem suy nghĩ này đến bạch Phật, lúc Ngài đang
trú ngụ trong Kỳ-hoàn. Ðức Phật dạy:
- Nay cho phép các Tỳ-kheo ngày Tự tứ sau ba tháng, tập hợp lại một chỗ, sai
một Tỳ-kheo xướng:
“Ðại đức Tăng xin lắng nghe! Chúng ta an cư nơi đây đều rất thỏa lòng, an
vui và thích thú. Nếu lại Tự tứ ra đi thì mất niềm vui này. Nay đình chỉ
việc này đến tháng 8, đủ 4 tháng Tự tứ luôn. Ðây là lời thưa trước Tăng cho
việc làm của chúng ta”.
CÒN THIẾU
MỘT
Khi đức Phật ở tại thành Xá-vệ, lúc bấy giờ, người nhũ mẫu tắm
rửa cho Kỳ-vức
thấy rõ tướng của Kỳ-vức, bà biểu lộ sắc mặt đượm buồn. Kỳ-vức nhìn qua liền
hỏi mẹ:
- Tại sao mẹ nhìn con với dáng vẻ buồn vậy?
- Mẹ buồn vì trên thân con có tướng thù đặc mà tâm ý con chưa được gần Phật,
Pháp, Chúng Tăng. - Nhũ mẫu trả lời.
Kỳ-vức nghe thế, khen:
- Lành thay! Lành thay! Mẹ có thể dạy con điều này.
Ngày ấy, Kỳ-vức mặc áo mới, đi đến chỗ đức Phật. Từ xa, Kỳ-vức đã thấy đức
Thế Tôn dung nghi đĩnh đặc, có 32 tướng của đại nhân, vầng sáng tỏa ra một
tầm, giống như núi vàng, lòng sanh kính tín. Kỳ-vức đến trước Phật, kính lễ
sát chân Ngài rồi ngồi lui qua một bên. Ðức Phật vì Kỳ-vức nói pháp nhiệm
mầu, chỉ bày sự lợi ích để được hoan hỷ, như: luận về việc bố thí, trì giới
và sanh thiên; tại gia nhiễm lụy, xuất gia không đắm trước; những pháp trợ
đạo như vậy làm sáng tỏ vấn đề. Ðức Phật lại nói tiếp những pháp mà chư Phật
thường nói là Khổ, Tập, Tận, Ðạo... Kỳ-vức liễu ngộ liền quy y Phật, Pháp,
Tăng và thọ 5 giới. Kỳ-vức khéo phân biệt được ngọn, ngành, tướng của âm
thanh...
Ngày ấy, đức Phật dẫn Kỳ-vức đến gò xương cốt, Ngài chỉ đầu lâu của năm
người, Kỳ-vức gõ từng cái rồi bạch Phật:
- Cái đầu lâu thứ nhất này sanh vào địa ngục. Cái đầu lâu thứ hai sanh vào
loài súc sanh. Cái đầu lâu thứ ba sanh vào loài ngạ quỷ. Cái đầu lâu thứ tư
sanh vào cõi người. Và cái đầu lâu thứ năm sanh vào cõi trời.
- Lành thay! Ông nói đúng cả.
Ðức Phật khen, rồi chỉ một cái đầu lâu khác, Kỳ-vức gõ ba lần, không biết
sanh ở đâu, bạch Phật:
- Con không biết người này sanh vào cõi nào?
- Ông không biết là phải. Vì đây là đầu lâu của vị A-la-hán, không còn có
chỗ sanh. - Ðức Phật dạy.
Bấy giờ đức Phật trú ngụ nơi Trúc Lâm Ca-lan-đà, thành Vương-xá, thân bị
bệnh Ngài hỏi tôn giả A-nan:
- Bệnh của ta nên uống thuốc gì?
- Bạch Thế Tôn, con sẽ nói với Kỳ-vức. - A-nan thưa.
Ðược A-nan thông báo, Kỳ-vức nói:
- Tôi không thể dùng thuốc thường để chữa mà phải bào chế thứ thuốc của
Chuyển luân Thánh vương mới dâng lên đức Thế Tôn.
Kỳ-vức dùng dược huân ba loại hoa Ưu-bát-la
rồi đem đến chỗ đức Phật, bạch:
- Xin Thế Tôn ngửi hoa này. Ngửi một hoa sẽ thông hạ mười lần, ba hoa là ba
mươi lần, bệnh sẽ khỏi hoàn toàn.
Ðúng như lời thầy thuốc Kỳ-vức nói, nhưng khi đức Phật ngửi hoa thứ ba thì
chỉ có chín lần thông hạ. Như vậy, Ngài ngửi ba hoa chỉ có hai mươi chín
lần.
Lần tiếp theo đến thăm Thế Tôn, Kỳ-vức thưa:
- Ngài ngửi hoa có“hạ” được không? Hạ nhiều hay ít?
- Ngửi thuốc tuy“hạ” được, nhưng còn thiếu một lần.
- Ðức Phật nói.
- Thế Tôn nên uống nước nóng. - Kỳ-vức thưa.
Quả thật, khi đức Phật dùng nước nóng thì đánh rấm thêm một cái nữa. Từ đó
bệnh lành hẳn.
Kỳ-vức thưa:
- Cần phải bổ dưỡng, con sẽ tùy thời cúng dường những thứ cần dùng.
Ðức Phật thọ nhận bằng sự im lặng. Kỳ-vức nấu cháo hương Chiên-đàn
dâng cúng đức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn dùng rồi, Kỳ-vức lại bạch:
-Con trị bệnh cho quốc vương, thần dân, nhận được hàng trăm ngàn lượng
vàng, bảy món quý báu thì nhiều vô số; hoặc nhận được tụ lạc, hoặc nhận được
một ấp. Cúi xin đức Thế Tôn nhận cho con một lời nguyện nhỏ.
- Chư Phật Như Lai đã vượt qua các lời nguyện. - Ðức Phật dạy.
- Xin Phật cho con được nguyện một lời. - Kỳ-vức thưa.
- Nếu hợp lý thì không trái với ý của ngươi. - Ðức Phật dạy.
Khi ấy, Kỳ-vức lấy một chiếc y quý giá với giá trị bằng nửa nước, dâng lên
đức Phật, bạch:
- Ðây là chiếc y, trong các chiếc y thì nó tối thắng nhất. Xin Ngài dũ lòng
thương thọ nhận cho.
Kỳ-vức lại xin đức Phật cho phép các Tỳ-kheo được nhận y.
Ðức Phật vì Kỳ-vức nói các diệu pháp rồi bảo về chỗ cũ. Việc nhận y quý hiếm
này về sau đức Phật có chỉ dẫn rõ sự sử dụng và trong tinh thần tri túc
thiểu dục, thì các Tỳ-kheo sử dụng y phấn tảo
là cơ bản.
NHÂN DUYÊN
HỘI ÐỦ BA Y
Bấy giờ, từ thành Vương-xá, đức Phật cùng với đại Tỳ-kheo Tăng 1.250 vị đi
du hành trong nhân gian. Các Tỳ-kheo vác y phấn tảo trên mình, trông thấy
việc này, đức Phật khởi lên ý niệm: “Ta nên quy định việc thọ y dâng cúng
cho các Tỳ-kheo bao nhiêu thì vừa?”.
Bấy giờ, nghe đức Thế Tôn và đại Tỳ-kheo Tăng du hành, vua
Bình-sa sắc lệnh cho bốn binh chủng oai nghiêm theo hầu sau đức Phật. Cuộc
du hành tuần tự đi qua các nơi trong nước, rồi đức Phật đi đến sông Hằng.
Bấy giờ là lúc phải qua sông để đến nước Bạt-kỳ.
Tôn giả Mục-kiền-liên nghĩ: “Nếu dùng thuyền để qua thì sợ nhà vua chờ lâu,
phế bỏ công việc. Nay ta nên dùng thần lực làm nước cạn để đoàn đi qua”.
Nước sông Hằng bỗng rút cạn, có thể lội qua. Ðức Phật cùng 1.250 Tỳ-kheo
đồng loạt lội qua sông Hằng. Ðến bờ bên kia, Ngài nói kệ:
Tinh tấn là thuyền bè
Vượt qua sông sâu rộng
Ai người thấy việc này
Không phát tâm kính tín?
Bên này bến sông, khi ấy vua Bình-sa thầm nghĩ: “Ðức Phật đã ra khỏi biên
cương nước ta, ta nên lui về”. Vua chấp tay, từ xa kính lễ rồi lui binh.
Ðoàn du hành đến tụ lạc Quật-trà, đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Có 4 pháp, Tôi và các ông khi chưa đạt thì ở trong sanh tử luân hồi không
bờ bến. Bốn pháp đó là gì? - Ðó là: Thánh giới, Thánh định, Thánh tuệ và
Thánh giải thoát. Nay đã đạt rồi, sanh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, việc cần
làm đã làm xong.
Ðức Phật vì các Tỳ-kheo nói kệ:
Giới, định, tuệ, giải thoát
Nay Ta giác ngộ rồi
Ðoạn hết các nguồn khổ
Nên vì các ông nói.
Du hành trong nước Bạt-kỳ một thời gian, đức Phật lại hướng dẫn
500 Tỳ-kheo đi về thành Tỳ-xá-ly. Nơi thành này có dâm nữ tên là
A-phạm-hòa-lợi,
nghe đức Thế Tôn là bậc đại danh, hiệu là Như Lai Ứng Cúng Chánh Ðẳng Giác
du hành các nước, sắp đến thành này, bà rất vui mừng, nói: “Lành thay! Ta
nguyện muốn đến yết kiến Phật”. Bà liền cho trang nghiêm bốn xe ngựa thật
lộng lẫy, với 500 kỷ nữ tùy tùng ra nghinh đón Thế Tôn. Ðức Phật từ xa trông
thấy đoàn rước, bảo các Tỳ-kheo:
- Các thầy, mỗi người đều nên hệ niệm tại tiền, tự phòng hộ tâm mình, đó là
lời dạy của chư Phật.
Thế nào là hệ niệm? - Nghĩa là thực hành Tứ niệm xứ, quán nội thân, tuần tự
quán tự thân để trừ vô minh, khổ của thế gian. Quán ngoại thân, nội ngoại
thân; và thọ, tâm, pháp cũng như vậy.
Tại tiền là thế nào? - Nghĩa là đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, đi tới, đi
lui, dòm ngó trước sau, co giãn, cúi ngửa, mặc y, bưng bát, ăn uống, vệ
sinh, nói năng, im lặng... thường trụ tâm nơi đó. Ðó là lời dạy của Ta.
Từ xa, A-phạm-hòa-lợi trông thấy đức Thế Tôn dung nhan đặc thù, các căn tịch
định, có 32 tướng đại nhân, ánh sáng tỏa ra một tầm, giống như núi vàng, bà
rất vui mừng và niềm kính tín càng tăng lên. Bà đến trước đức Phật, đầu mặt
kính lễ sát chân, rồi đứng lui qua một bên. Ðức Phật vì bà nói các pháp
nhiệm mầu, chỉ bày sự lợi ích. Bà vui mừng, rồi bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn, nguyện xin đức Phật và chư Tăng nghỉ lại đêm nơi vườn
của con và ngày mai con xin được cúng dường trai phạn.
Ðức Phật im lặng nhận lời. A-phạm-hòa-lợi kính lễ, nhiễu quanh rồi cáo lui.
Khi ấy, 500 Ly-xa
cũng nghe tin đức Phật cùng Tỳ-kheo du hành và sắp đến thành Tỳ-xá-ly nên
cùng nhau lập quy ước nghinh đón đức Phật. Quy ước quy định: “Ai không đi
đón rước Phật thì sẽ bị phạt 500 tiền vàng”. Quy ước này khiến ai cũng nhập
cuộc. Ðoàn nào cưỡi ngựa xanh, xe xanh thì y phục của tất cả quyến thuộc
cũng đều một màu xanh. Ðoàn nào cưỡi ngựa vàng, hoặc đen, hoặc đỏ, hoặc
trắng thì cũng đều như vậy. Ðoàn người do Ly-xa tổ chức, rầm rộ kéo nhau lên
đường. Khi đi được nửa đường thì gặp đoàn của A-phạm-hòa-lợi đi về. Ðoàn này
cản lại, không cho đoàn kia tiến lên. Các Ly-xa nói:
- Chúng tôi cũng muốn thỉnh Phật, bà phải để chúng tôi thỉnh trước.
- Ðức Phật đã nhận lời thỉnh của tôi rồi, chúng tôi không thể nhường được. -
A-phạm-hòa-lợi trả lời.
- Chúng tôi biếu bà 500 ngàn lượng vàng, bà để cho chúng tôi thỉnh trước. -
Các Ly-xa đặt điều kiện.
A-phạm-hòa-lợi dứt khoát từ chối. Các Ly-xa lại nói:
- Biếu cho bà tài vật của phân nửa nước, được không?
- Giá như cả nước cũng không thể được. Tuy nhiên, nếu các ông có thể bảo đảm
ba việc sau đây cho tôi khỏi bị mất thì tôi mới chấp nhận.
Các Ly-xa hỏi:
- Ba việc ấy là gì?
- Một là bảo đảm thân mạng tôi không bị chết yểu. Hai là bảo đảm của cải của
tôi không bị tổn thất. Ba là bảo đảm đức Phật thường trú ở đây, chứ không đi
chỗ khác. - A-phạm-hòa-lợi ra điều kiện.
- Tài sản tổn thất, chúng tôi có thể cho lại được. Nếu đức Phật đi chỗ khác,
chúng tôi có thể mời ở lại. Nhưng sự nguy khốn cho mạng sống của bà, ai dám
bảo đảm nổi?!
Ly-xa dứt lời, nổi giận đùng đùng bỏ đi. Ðức Phật từ xa thấy các Ly-xa đến,
bảo các Tỳ-kheo:
- Muốn biết chư thiên Ðao-lợi xuất nhập như thế nào, thì hình ảnh các Ly-xa
đây không có khác.
Hình ảnh đức Phật sáng rỡ, dịu hiền... như núi vàng đập vào mắt các Ly-xa,
khiến họ vui mừng khôn xiết. Họ tiến đến trước Phật, kính lễ sát chân Ngài
rồi ngồi lui qua một bên. Khi ấy, trong đoàn rước đông đảo này có một Ma-nạp
tên là Tân-kỳ-da, từ chỗ ngồi đứng dậy, để trống vai bên phải, quỳ gối, chấp
tay bạch Phật:
- Con muốn dùng kệ để khen ngợi đức Thế Tôn.
- Tùy ý ông. - Ðức Phật trả lời.
Ma-nạp liền nói kệ:
Bình-sa được thiện lợi
Ương-già9
cầm châu khải
Phật xưa sanh nơi đây
Tiếng vang như sấm sét
Cũng như hoa mới nở
Ngạt ngào, ngát mùi thơm
Xem Phật thân sáng rực
Như mặt trời rực rỡ
Như trăng tròn vằng vặc
Trên bầu trời không mây
Thế Tôn thân chói sáng
Sáng tỏa không gì hơn
Phật huệ soi cùng khắp
Tiêu diệt lòng tối tăm
Cho thế gian con mắt
Quyết đoán các nghi hoặc.
Các Ly-xa nghe kệ rất thích thú vui mừng, liền tặng 500 chiếc y cho Ma-nạp.
Ma-nạp bảo:
- Tôi không cần áo, nguyện sao được thỉnh Phật trước.
Ðức Phật dạy Ly-xa:
- Có thể cho phép Ma-nạp thỉnh trước.
Ma-nạp liền thỉnh Phật và Tăng, các Ly-xa vẫn tặng y, Ma-nạp liền dâng cúng
Phật. Ðức Phật thọ nhận rồi bảo các Ly-xa:
- Ở đời có năm điều quý báu rất khó được gặp: 1. Chư Phật Thế Tôn; 2. Những
lời do đức Phật dạy; 3. Hiểu rõ lời Phật dạy; 4. Làm theo điều đã nghe; 5.
Người không quên ân nhỏ.
Trong nỗi hân hoan vui mừng được gặp Phật, các Ly-xa liền họp lại, bàn tính
rằng: “Ðức Phật không ở lại đây lâu, nếu mỗi người cúng riêng lẻ thì không
biết khi nào giáp khắp. Nay nên tập trung tất cả phẩm vật rồi tùy theo đó mà
cúng dường hằng ngày. Ngoài chủng tộc chúng ta ra, không cho phép ai dự
vào”.
Về phía A-phạm-hòa-lợi thì suốt đêm bà cho làm các thức ăn ngon bổ... Sáng
ngày đem tất cả trai soạn đến khu vườn của bà. Tọa cụ được trải bày đúng
phép, sau đó bà thỉnh Phật và Tăng thọ trai. Ðức Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Các thầy hệ niệm, cùng thọ bữa trai này.
Tất cả đều an tọa nơi tòa. Nại nữ (A-phạm-hòa-lợi) tự tay tiếp thức ăn một
cách hoan hỷ, không lẫn lộn. Thọ trai xong, Thế Tôn và các đệ tử rửa tay,
Nại nữ đứng lui qua một bên, bạch Phật:
- Trong các khu vườn nơi Tỳ-xá-ly chỉ có khu vườn này là đệ nhất. Con sửa
soạn khu vườn này là muốn để làm việc phước. Nay xin dâng cúng Thế Tôn, xin
Ngài nhận sự cúng dường này.
- Nên cúng cho Tăng để được quả báo lớn. - Ðức Phật dạy.
Nại nữ lại một lần nữa xin cúng cho Phật. Ðức Phật dạy:
- Nên cúng cho Tăng, trong Tăng có Ta.
Sau khi bạch lời dâng cúng cho Tăng xong, Nại nữ lấy một ghế nhỏ ngồi trước
đức Phật, đức Phật vì Nại nữ nói bài kệ tùy hỷ, như bài kệ đức Phật đã nói
với Trưởng giả Tỳ-lan-nhã... Ðức Phật lại nói các pháp vi diệu, chỉ bày sự
lợi ích. Bà A-phạm-hòa-lợi rất vui mừng, liền từ chỗ ngồi được con mắt pháp
trong sạch. Kế đó, bà thọ ba tự quy và năm giới, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy
kính lễ đức Phật, lui về.
Sau đó, các Ly-xa cúng dường đúng như kế hoạch đã đề ra. Tất cả đều thấy vừa
lòng, niềm vui ấy, hạnh phúc ấy như luôn tràn ngập không sao nói thành lời
được.
Ðức Phật từ thành Tỳ-xá-ly tuần tự du hành đến tháp Bát-giá-la. Lúc bấy giờ
là mùa Ðông, đức Phật chỉ mặc một chiếc y ngủ nơi đất trống. Qua khỏi đầu
đêm, Ngài cảm thấy lạnh, mặc thêm một chiếc thứ hai, rồi đêm về khuya lại
cảm thấy lạnh, Ngài mặc thêm một chiếc y thứ ba. Từ đó, Ngài không còn thấy
cái lạnh làm khốn. Do vậy, gợi cho Ngài ý nghĩ: “Sau này các Tỳ-kheo nếu
phải hứng chịu sự lạnh lẽo thì nên giữ đủ ba y để chế ngự. Nay Ta có thể vì
Tỳ-kheo mà chế định việc này”.
Sáng ngày đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo:
- Trước đây, khi du hành ở thành Vương-xá, thấy các Tỳ-kheo phải mang nặng y
trên mình, bấy giờ Ta muốn chế định mức lượng y của tín thí cúng, nhưng chưa
thực hiện. Ðêm qua, thời tiết rất lạnh, thoạt đầu Ta mặc một y, giữa đêm cảm
thấy lạnh, lại mặc thêm một y nữa, cuối đêm còn cảm thấy lạnh, lại mặc thêm
một y nữa, Ta thấy an ổn vì được ấm áp. Ðiều này cho Ta ý nghĩ: “Ðể hạn chế
được sự lạnh lẽo thì nên mặc ba y”. Do vậy, từ nay Ta cho phép các Tỳ-kheo
chỉ cất giữ ba y, ngoài ra không cất giữ thêm một y nào nữa. Nếu y bị hư
hoại thì cho phép tu bổ, dùng kim chỉ vá lại, hoặc khâu vá các lỗ thủng nơi
y.
TỪ MỘT
THỰC TẾ
Bấy giờ, đức Thế Tôn cùng đầy đủ 1.250 vị đại Tỳ-kheo du hành nhân gian ở
các nơi phương Nam. Từ trên núi nhìn xuống, thấy các thửa ruộng dưới đồng
bằng, nước ruộng được đắp bờ xung quanh vuông vức rất khéo, đức Phật nghĩ:
“Các Tỳ-kheo của Ta nên may y giống như những thửa ruộng kia”. Ngài liền hỏi
tôn giả A-nan:
- Ông có thấy các thửa ruộng bên dưới kia không?
- Bạch Thế Tôn, con có thấy. - A-nan thưa.
- Các Tỳ-kheo nên mặc y như vậy, ông có thể thực hiện được không? - Ðức Phật
hỏi.
- Bạch Thế Tôn, con có thể thực hiện theo cách ấy. - A-nan thưa.
Sau đó, tôn giả A-nan tự may, cũng chỉ bày cho các Tỳ-kheo may. Hoặc một
đoạn dài, một đoạn ngắn; hoặc hai đoạn dài, một đoạn ngắn; hoặc ba đoạn dài,
một đoạn ngắn. Lá điều bên trái thì gấp xếp về phía bên trái; lá điều bên
phải thì gấp xếp về phía bên phải; lá điều chính giữa thì phủ đều qua hai
bên. May xong, mặc vào thật thích nghi. Ðức Phật thấy được kết quả rồi bảo
các Tỳ-kheo:
- A-nan có đại trí tuệ, nghe Ta lược nói mà may đúng như pháp. Ðây được gọi
là y cắt rọc, không giống bất cứ y nào, so với y các ngoại đạo thì khác hẳn.
Oan gia, đạo tặc lại không lấy để làm gì. Từ nay cho phép các Tỳ-kheo cắt
rọc may thành ba y.
27 Ðối trị Tất-đàn:
Skt=Pali. siddhªnta,
dịch là thành tựu. Chỉ việc đức Phật tuỳ theo căn bệnh chúng sanh mà cho
thuốc pháp, để đối trị các loại phiền não, ác nghiệp của chúng sanh.
28 Xứ Ưu-vi: Còn gọi huyện
Ưu-vi-la, cũng là tụ lạc Ưu-lâu-tần-loa. (Xem cht. 8, tr 329).
29 Uất-tỳ-la Ca-diếp:
Pali. Uruvelakassapa, hay gọi là Ưu-Lâu-tần-loa Ca-diếp,
ông cùng với 2 người em là Già-da Ca-diếp và Na-đề Ca-diếp là những thủ
lãnh thờ lửa, trên đầu búi tóc như hình xoắn ốc, nên còn gọi là
Loa Phát Phạm-chí.
30 Cây Diêm-phù: Pali.
JambudÌpa,
sinh trưởng ở Ấn Ðộ. Tên khoa học: Eugenia jambolana. Trái Diêm-phù là
quả táo hồng.
31 Diêm-phù-đề: Skt. JambudvÌpa,
Pali. JambudÌpa.
Jambu là tên cây, dvÌpa
dịch là châu. Cách dịch Phạn-Hán: Diêm-phù châu, Thiệm-bộ châu (Lãnh thổ
Ấn Ðộ thời xưa).
32 Ha-lê-lặc: Xem cht. 9,
tr 330.
33 A-ma-lặc: Skt.
ªmlikª,
Pali.
ªmalaka,
tức quả xoài (tên khoa học: Tamarindus indica), có vị chua nhưng đượm
ngọt, có thể làm vị thuốc.
34 Sông Ni-liên-thiền:
Pali. Neranõjarª.
Xem cht. 8, tr 329.
35 Tứ phần 33, tr. 795b01,
T22n1428: Thích-đề-hoàn-nhơn biết được ý nghĩ Như Lai, liền đến núi
Ma-đầu-cưu-la (Skt=Pali. Madhukula, trong nước Ma-kiệt-đà) lấy một hòn
đá lớn vuông vức....
36 Tứ phần 33, tr. 795b10:
Cây Ca-hưu (Pali. kakudha, Ca-cưu-đà, Ca-câu-bà, tên khoa học:
Terminalia arjuna, thuộc một giống với cây Ha-lê-lặc).
37 Uất-đơn-việt: Xem cht.
5, tr. 7.
38 Lúa tự nhiên: Xem cht.
6, tr. 7.
39 Do-tuần: Xem cht. 28,
tr 169.
40 Núi Già-da: Skt.
Gayª, dịch là
núi Tượng đầu, vì đỉnh núi giống đầu con voi. Vị trí gần Bồ-đề đạo
tràng, phía Tây nam thành Dà-gia trong nước Ma-kiệt-đà.
41 Tinh xá Trúc viên: Skt.
Venïuvana-vihªra,
Pali. Velïuvana-vihªra,
hay gọi tinh xá Ca-lan-đà trúc viên
(vườn trúc này do trưởng giả Ca-lan-đà ‘Skt. Kalandaka’ hiến cúng, vua
Tần-bà-sa-la ‘Pali. Bimbisªra’
kiến tạo già lam). Ðây là tinh xá có sớm nhất ở Ma-kiệt-đà.
42 La-duyệt-kỳ: Xem cht.
23, tr 24.
43 Sa-nhiên: Skt=Pali.
Sanõjaya, San-xà-da, là lục sư ngoại đạo thuộc quỉ biện luận (Pali. amarª-vikkhepika).
44 Ưu-ba-đề-xá: Skt.
Upatisïya, Pali. Upatissa, dịch là Ðại quang; là Xá-lợi-phất (Skt. SÙªriputra,
Pali. Sªriputta)
gọi theo tên cha.
45 Câu-luật-đà: Skt=Pali.
Kolita, tên gọi khác của Mục-kiền-liên (Skt. Maudgalyªyana,
Pali. Moggallªna).
46 Át-bệ: Skt. Ásvajit,
Pali. Assaji, A thuyết thị.....dịch là Mã thắng, Mã tinh. Một trong năm
Tỳ-kheo (nhóm Kiều-trần-như).
47 Y phấn tảo: Skt. Pªmïsu-kñla,
Pali. Pamïsu-kñla.
Hay còn gọi là y bá-nạp (y trăm miếng vá lại), là y (vải) người đời mặc
hư rách, bỏ chỗ dơ bẩn. Người tu lượm y rách này đem về giặt sạch, may
những mảnh rách lại rồi mặc.
48 Tàn khí dược: Skt. pñtimukta-bhaisïajya,
Pali. pñtimutta-bheisajja,
trần khí dược, hủ lạn dược....nghĩa là thuốc hôi thối hoặc những thứ phế
thải hư mục. Nhà cựu luật Nam Sơn dựa vào Tăng kỳ và Tứ phần cho rằng đó
là phân và nước tiểu. Nhà tân luật Nghĩa Tịnh cho rằng đó là thuốc mà
người ta vứt bỏ. Tứ phần luật san bổ tuỳ cơ yết-ma sớ tế duyên ký, q 17,
dựa vào các luật điển giải thích trần khí dược:1. chỉ cho đại tiểu tiện,
tức lấy nước tiểu trị lao, lấy đại tiện giải nhiệt, gọi chung là Hoàng
long thang ; 2. thuốc người ta vứt bỏ, chứ chẳng phải những thứ phế thải
mà chế thành.
49 Mười hai pháp: Là mười
hai hạnh đầu-đà (Skt=Pali. dhñta,
nghĩa rũ sạch trần cấu phiền não). 1. Sống ở A-lan-nhã; 2. Thường khất
thực; 3. Khất thực từng nhà; 4. Ngày chỉ ăn một bữa; 5. Thọ dụng có mức;
6. Sau buổi trưa không uống nước hoa quả, hoặc nước đường mật; 7. Mặc y
phấn tảo; 8. Chỉ mặc 3 y; 9. Ở chỗ tha ma mộ địa; 10. nghỉ dưới bóng
cây; 11. Ngồi chỗ đất trống; 12. Chỉ ngồi không nằm.
50 Bốn pháp đọa: Tứ pháp
Ba-la-di.
51 Bốn pháp ví dụ: 1.
Tỳ-kheo phạm bất tịnh hạnh, đức Thế Tôn dụ như người bị chặt đầu; 2.
Tỳ-kheo cố ý lấy vật không cho, dụ như cây Ða-la bị chặt đứt lõi; 3.
Tỳ-kheo cố ý giết người hay sai người khác giết.....,dụ như cây kim sứt
lỗ không dùng được; 4. Tỳ-kheo cố ý nói dối mình đã chứng đắc pháp
thượng nhân....., dụ như tảng đá vỡ làm hai không dính được nữa.
52 Bốn pháp nương tựa:
Pali. Cattªro
nissayª, xem
giải thích trong chuyện Bốn điều nương tựa, tr. 376.
53 Tăng phường: Xem cht.
35, tr. 224.
54 Ni-kiền: Skt. Nirgrantha-Jnõªtaputra, Pali. Niganïtïha-Nªtaputta, Ni-kiền-Tưû, Ni-kiền Thân
Tử, hay Ni-kiền-đà Nhã-đề Tử, là Giáo tổ Kỳ-na giáo (Jainism), một trong
sáu Tôn sư ngoại đạo thời đức Phật.
55 Kỳ-vức: Skt. JÌvaka,
Kỳ-bà, Thời-bà....dịch nghĩa “sống tốt”, “sống vững vàng”, là danh y
thời đức Phật. Ông từng đến vùng đất thuộc địa Hy Lạp, tức nước
Ðức-xoa-thi-la (Skt. Taksïasùilª)
học y, sau về thành Vương-xá làm ngự y cho vua Tần-bà-sa-la và A-xà-thế.
Là người kiền thành tín ngưỡng Phật giáo, ông chuyên trị bệnh cho các đệ
tử Phật.
56 A-tu-la: Skt. Asura,
dịch nghĩa là Thần, Phi Thiên (là hạng chúng sanh có thần lực và cung
điện như chư Thiên nhưng hình thể không được đoan chánh), Vô đoan (dung
mạo xấu xí).
57 Phi nhơn: Pali.
amanussa, chỉ các loại trời, thần và tương tự.
58 Phạm cộng giới của
Tỳ-kheo ni: Là nếu vị Tỳ-kheo ấy khi còn ở bên Tăng, phạm vào những học
giới giống của Tỳ-kheo ni (Luật Tứ phần: 348 học giới; Ngũ phần: 373;
Tăng kỳ: 290; Thập tụng: 354; Căn bản: 309) thì gọi là phạm cộng giới
của Tỳ-kheo ni (trừ Ba-la-di giới, vì phạm vào các học giới ở thiên này
là coi như không còn cơ sở phát khởi Ðịnh, Tuệ ngay trong đời sống hiện
tại được nữa).
59 Cây Ni-câu-luật: Skt. nyagrodha,
Pali. nigrodha, dịch là cây mọc xuống (vì cành mọc rễ rũ xuống nên cũng
gọi là Khí-sinh-căn ‘rễ mọc giữa hư không’), cây nhiều rễ, cây toả
rộng...., hình dáng giống cây đa, cây si. Lá của nó dài và nhọn
giống lá cây hồng vàng, còn quả dùng chế thuốc ho.
1 Chương 2: Pháp
Bố-tát (Pali. Uposathakkhandhaka). Bố-tát: Skt. upavasatha, Pali.
uposatha, nghĩa đen là “sống gần” hay “ngày phụng sự”. Nguyên lai
trong truyền thống Vệ-đà, mỗi tháng thường có những ngày hiến tế lễ
Soma. Trước đó một ngày, tế sư phải dọn mình bằng cách nhịn ăn, tiết chế
dục lạc....Do ý nghĩa này, từ upavasatha hiểu theo nghĩa bóng là “ngày
kiêng cữ” hoặc “ngày nhịn ăn”, nói theo nghĩa Hán “ngày trai”. Như vậy,
đức Phật chấp nhận ngày trai giới trong truyền thống Vệ-đà, nhưng hướng
tới mục đích: Ngày đó tập hợp các Tỳ-kheo sống trong một cương giới để
thuyết giới, tức đọc giới bổn Ba-la-đề-mọc-xoa. Từ đó, Bố-tát và thuyết
giới trở thành phận sự thường xuyên và định kỳ mà một Tỳ-kheo không thể thiếu sót. (Trích
lược Yết-ma yếu chỉ ‘Karmavacanªbindusªra’)
2 Thuốc: Thuốc là danh từ
chỉ chung tất cả các loại đồ ăn thức uống cùng các thứ thảo mộc mà thế
gian coi là dược liệu. Ðấy là hiểu theo định nghĩa cơ bản của Luật tạng.
Nhưng nếu hiểu theo định nghĩa phổ thông thì tất cả đồ ăn thức uống của
năm chúng xuất gia đều được coi là thuốc.
(Yết-ma yếu chỉ ‘Karmavacanªbindusªra’)
3
Thuốc bảy ngày: Thuốc được phép cất chứa trong bảy ngày để dùng, qua
ngày thứ tám, khi minh tướng xuất hiện mà còn cất chứa và dùng thì phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề. Loại này có năm
thứ: Sanh tô (bơ lỏng), thục tô (bơ đặc), du (Loại dầu ép từ các thứ hạt
có chất dầu), mật (mật ong), thạch mật (đường phèn).
4 Thuốc trọn đời (tận hình
dược): Có ba thời hạn của ý nghĩa “tận hình” (suốt đời): Thứ nhất, dùng
cho hết bệnh; nếu hết bệnh thì không được phép dùng. Thứ hai, hết đời
của thuốc. Sau cùng, hết đời của người dùng. Nhưng ý nghĩa chính là
nghĩa sau cùng, là được phép cất chứa cho đến trọn đời mình, để khi nào
có bịnh thì đem dùng. Loại này gồm năm thứ: rễ, cọng, lá, hoa, trái cây.
(Yết-ma yếu chỉ ‘Karmavacanªbindusªra’)
1 Chương 3: Pháp an cư
(Pali. Vassupanªyikakkhandhaka).
2 Tính theo lịch Ấn Ðộ
thời xưa, ngày an cư bắt đầu từ mồng một trăng tròn tháng A-sa-đà (Skt.
ªsïªdïha,
Pali.
ªsªlïhÌ)
khoảng tháng 6 Dương lịch kéo dài suốt ba tháng, cho đến hết ngày trăng
tròn tháng Át-thấp-phược-hữu-xà (Skt.
ªsùvayuja,
Pali. assayuja, khoảng tháng 9, 10 Dương lịch). Theo sự ghi nhận của
ngài Huyền Trang trong Tây vực ký (Ðại đường Tây vực ký 2, Ðại 51, tr.
876a: Theo Thánh giáo của Như Lai, mỗi năm có ba mùa. Từ 16 tháng giêng
đến 15 tháng 5 là mùa nóng. Từ 16 tháng 5 đến 15 tháng 9 là mùa mưa. Từ
16 tháng 9 đến 15 tháng giêng là mùa lạnh... Tăng đồ Ấn Ðộ y theo Thánh
giáo của Phật toạ an cư mùa mưa....) và Pháp Hiển trong Nam hải ký quy
nội pháp truyện (Chương 14, “ Ngũ chúng an cư”, Ðại 54, tr. 217a25) thì
ngày mồng một trăng tròn tháng A-sa-đà tương đương ngày 16 tháng 5 theo
lịch Trung Quốc. (Trích lược Yết-ma
yếu chỉ ‘Karmavacanªbindusªra’)
1 Chương 4: Pháp Tự
tứ (Pali. Pavªranïakkhandhaka).
Tự tứ: Skt. pravªranïª,
dịch là thỉnh thỉnh hay tuỳ ý, nghĩa là sự thỉnh cầu. Là thỉnh
cầu người khác chỉ những khuyết điểm của mình. Sự chỉ điểm căn cứ trên
ba trường hợp: do được thấy, được nghe, được nghi.
1 Chương 5: Pháp y phục
(Pali. CÌvarakkhandhaka).
2 Kỳ-vức: Xem cht. 55, tr
383.
3 Hoa Ưu-bát-la: Skt. utpala, Pali.
uppala, dịch là Thanh liên hoa (hoa sen xanh, Hồng liên hoa (sen đỏ)....
(tên khoa học: Nymphaea tetragona).
4 Chiên-đàn: Skt.candana,
là một loại cây thơm nhưng có nhiều màu nên còn gọi cây Bạch đàn, Xích
đàn... Cây này sinh trưởng ở vùng nhiệt đới Ấn Ðộ và nó có nhiều tính
dược.
5 Y phấn tảo: Xem cht. 47,
tr 376.
6 Nước Bạt-kỳ: Skt. Vrïji,
Pali. Vajii, là một trong 16 vương quốc lớn thời đức Phật, cũng là tên
một chủng tộc ở vùng Bắc bộ Ấn Ðộ.
7 Nữ A-phạm-hoà-lợi: Skt.
mrapªlÌ,
Pali. AmbapªlÌ,
nữ Am-la, Am-thọ..., dịch là Nại nữ (đây là cách dịch cũ có lẽ nhầm).
Phật thuyết Nại nữ Kỳ-bà kinh, tr 902, T14n554: Do người nữ này sinh từ
Nại thọ (cây Am-la ‘cây xoài’) nên đặt tên Nại nữ. Sau làm vương phi vua
Tần-bà-sa-la, cũng là thân mẫu lương
y Kỳ-bà. Tứ phần 40, tr. 855c14, T22n1428: Am-bà-la-bà-đề.
8 Ly-xa: Skt=Pali.
Licchavi, chủng tộc Sát-đế-lợi ở thành Tỳ-xá-li (Skt. Vaisùªli)
cũng thuộc bộ tộc Bạt-kỳ.
9 Ương-già: Skt. Trªyastrimïsùa,
Pali. Tªvatimïsª,
trời Ðao-lợi, trời Tam thập tam (ba mươi ba).