DUYÊN KHỞI
CỦA TÁM KỈNH PHÁP^
Bấy giờ, đức Thế Tôn
trở về Xá-di, chưa đến thành Ca-duy-la-vệ thì dừng lại. Ngài và chúng Tăng
nghỉ dưới cây Ni-câu-loại.
Vua Tịnh-phạn hay tin,
đưa đoàn tùy tùng ra nghinh đón. Cuộc gặp gỡ diễn ra đúng phong cách của
người học trò đến cầu đạo. Nhà vua nghe pháp, đắc quả, thọ Tam quy, Ngũ giới
rồi về lại bản vị.
Ðứng trước sân hoàng
cung, vua Tịnh-phạn ba lần tuyên lệnh: “Ai muốn xuất gia trong chánh pháp
luật của Như Lai thì tùy nguyện”.
Ngày ấy, bà Cù Ðàm di
Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng 500 Thích nữ, kẻ trước người sau vây quanh đi đến chỗ
Phật. Họ mang theo hai chiếc y, tự tay họ dệt. Khi đến nơi, họ kính lễ sát
chân Phật, rồi dâng cúng y nhưng Phật từ chối, Ngài bảo bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề
cúng cho Tăng. Sau ba lần một mực cúng cho Phật, đức Phật vì bà Ma-ha
Ba-xà-ba-đề nhận một y và một y cúng cho Tăng.
Sau khi cúng y, bà
Cù-đàm di bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, xin
cho người nữ xuất gia thọ Cụ túc giới trong chánh pháp của Như Lai.
Ðức Phật dạy:
- Thôi, thôi! Ðừng nên
đề cập đến chuyện ấy. Tại sao vậy? Vì xưa kia các đức Phật đều không có
người nữ xuất gia. Các người nữ tự mình nương nơi Phật, tại gia cạo đầu, mặc
áo ca-sa, siêng năng tu hành thì cũng đắc đạo quả. Các đức Phật vị lai cũng
như vậy. Nay Ta cho phép người nữ thực hiện con đường tu hành tại gia của
mình.
Ðến ba lần thưa thỉnh
xin, đức Phật đều không chấp nhận. Bà Cù-đàm di khóc nứt nở, đảnh lễ lui ra.
Từ Ca-duy-la-vệ, đức
Phật cùng đại Tỳ-kheo Tăng đông đủ 1.250 vị du hành nhân gian. Bà Cù Ðàm di
cùng 500 Thích nữ tự động cạo đầu cho nhau rồi mặc ca-sa, khóc kể, đi theo
sau. Nơi nào đức Thế Tôn tá túc, họ cũng tá túc cạnh nơi đó.
Tuần tự du hành, đức
Phật đến thành Xá-vệ trú ngụ trong tinh xá Kỳ-hoàn. Bà Cù Ðàm di cùng 500
Thích nữ đứng khóc bên ngoài cổng tinh xá. Sáng sớm, tôn giả A-nan đã thấy
họ rồi. A-nan hỏi:
- Tại sao quý vị khóc?
- Bạch Ðại đức, đức
Thế Tôn không cho người nữ xuất gia thọ Cụ túc giới, nên chúng tôi buồn tủi
khóc. Bây giờ xin tôn giả vì chúng tôi bạch đức Thế Tôn cho chúng tôi được
toại nguyện. - Cù-đàm di thưa.
A-nan im lặng trở vào
trong, đến chỗ Phật. Sau khi đảnh lễ, A-nan trình bày lên Phật lời thiết tha
của Cù Ðàm di. Ðức Phật giảng giải lý do như trước và từ chối. Tôn giả A-nan
bạch Phật:
- Khi đức Thế Tôn sinh
ra được mấy ngày thì thân mẫu Ngài mạng chung. Cù-đàm di nuôi nấng Thế Tôn
cho đến lớn khôn, cái ân như thế đâu phải nhỏ, tại sao Thế Tôn không báo
đền?
Ðức Phật nói:
- Cù Ðàm di đối với Ta
cũng có cái ân lớn. Bà nhờ Ta mà biết được Phật, Pháp, Tăng, lòng sanh chánh
tín. Người nào nhờ Thiện tri thức, biết được Phật, Pháp, Tăng mà sanh lòng
tin kính thì dù cho người ấy có đem y, thực, thuốc thang cúng dường trọn đời
cho Thiện tri thức cũng không thể báo ân ấy được.
Tôn giả A-nan lại bạch
Phật:
- Người nữ xuất gia
thọ Cụ túc giới có thể đắc bốn quả Sa-môn hay không, thưa Ngài?
- Có thể đắc chứng. -
Ðức Phật dạy.
- Nếu có thể đắc bốn
đạo quả thì đâu có lý do gì Thế Tôn không cho họ xuất gia thọ Cụ túc giới? -
A-nan thưa.
Ðức Phật bảo:
- Thôi thì nay Ta cho
phép Cù-đàm di thọ tám pháp “không được vượt quá”. Nếu được vậy thì xuất gia
đắc giới Cụ túc. Tám pháp ấy là gì?
1- Tỳ-kheo ni nửa
tháng phải đến chúng Tỳ-kheo cầu người giáo thọ.
1-
Tỳ-kheo ni không nên an cư nơi không có Tỳ-kheo.
2-
Khi Tự tứ, Tỳ-kheo ni phải đến chúng Tỳ-kheo thỉnh ba việc: Kiến,
Văn, Nghi tội.
3-
Thức-xoa-ma-na học giới 2 năm rồi, phải đến trước hai bộ Tăng thọ
giới Cụ túc.
4-
Tỳ-kheo ni không được mắng Tỳ-kheo, không được nói Tỳ-kheo phá giới,
phá oai nghi, phá kiến.
5-
Tỳ-kheo ni không được cử tội Tỳ-kheo, nhưng Tỳ-kheo được chê trách
Tỳ-kheo ni.
6-
Tỳ-kheo ni phạm tội thô ác phải đến trước hai bộ Tăng hành Ma-na-đỏa
nửa tháng. Hành Ma-na-đỏa nửa tháng rồi, phải đối trước hai bộ Tăng gồm 40
vị để cầu xuất tội.
7-
Tỳ-kheo ni tuy thọ giới đã 100 năm vẫn phải đứng dậy nghinh đón
Tỳ-kheo mới thọ giới.
Tôn giả A-nan vâng lời
Phật dạy, trở ra ngõ nói với Cù Ðàm di:
- Bà hãy lắng nghe!
Tôi nói lại lời đức Phật dạy.
Bà Cù Ðàm di sửa lại y
phục, từ xa vọng bái lễ đức Phật, quỳ gối chấp tay một lòng lắng nghe. Tôn
giả nói lại tám pháp Phật dạy xong, Cù-đàm di nói:
- Cũng như thiếu niên
nam nữ trong trắng, tự thỏa mãn vui sướng với tấm thân được tắm rửa sạch
thơm, mặc áo mới; lại có người ân huệ đem đến trao cho tràng hoa Chiêm-bà,
tràng hoa Bà-sư,
tràng hoa Ưu-bát-la,
tràng hoa A-đề-mục-đa-già.
Những kẻ trai trẻ xinh đẹp kia vui mừng, hai tay đón nhận, rồi đội lên đầu.
Nay tôi đón nhận giáo pháp của Thế Tôn đặt lên đỉnh đầu, nó cũng giống như
vậy.
Cù-đàm di lại bạch với
tôn giả A-nan:
- Xin tôn giả hãy vì
tôi bạch lên đức Thế Tôn rằng: Tôi đã thọ nhận giáo pháp và đội lên đầu,
nhưng tôi muốn xin một điều trong tám pháp là cho phép Tỳ-kheo ni, tùy theo
lớn nhỏ mà kính lễ Tỳ-kheo, chứ tại sao Tỳ-kheo ni 100 tuổi lại kính lễ
Tỳ-kheo mới thọ giới?!
Tôn giả ghi nhận và
bạch lên Thế Tôn ý kiến này. Ðức Phật bảo A-nan:
- Nếu Ta cho phép
Tỳ-kheo ni, tùy theo lớn nhỏ kính lễ Tỳ-kheo thì điều này không thể xảy ra,
bởi người nữ có năm điều trở ngại là: không làm Thiên Ðế Thích, Ma Thiên
Vương, Phạm Thiên Vương, Chuyển Luân Thánh Vương, Tam Giới Pháp Vương. Phải
biết rằng: nếu không cho người nữ xuất gia thọ Cụ túc giới thì chánh pháp
của Phật trụ thế 1.000 năm, nay cho họ xuất gia thì chỉ còn 500 năm. Cũng
giống như nhà người nào đó, con gái nhiều, con trai ít thì biết nhà đó không
bao lâu sẽ bị suy tàn.
Ðức Phật bảo A-nan:
- Nếu người nữ không
xuất gia thọ Cụ túc giới trong giáo pháp của Ta thì sau khi Ta Nê-hoàn, các
Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di sẽ đem bốn món cúng dường đi theo sau Tỳ-kheo, thưa:
“Ðại đức lân mẫn nhận sự cúng dường của con”. Nếu họ ra ngoài cửa ngõ gặp
Tỳ-kheo thì mời vào nhà và thưa: “Ðại đức đối với con có ân, xin mời Ðại đức
vào nhà con ngồi tạm để con được an lành”. Nếu họ gặp Tỳ-kheo trên lộ trình
nào đó thì họ sẵn sàng xổ đầu tóc xuống lau chân Tỳ-kheo, trải tóc ra mời
Tỳ-kheo bước lên tóc mà đi. Nay cho người nữ xuất gia, các điều đó hầu như
không còn nữa.
Tôn giả lắng nghe như
thế, buồn đến rơi lệ, bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Trước
đây con không nghe, không biết chuyện như vậy, nên mới cần cầu xin cho người
nữ xuất gia thọ giới Cụ túc. Nếu trước đây con được biết rõ vấn đề như thế
thì đâu có ba phen cầu xin.
Ðức Phật bảo tôn giả
A-nan:
- Chớ nên khóc lóc làm
chi. Ma che lấp sự sáng suốt của ông nên mới như thế! Nay Ta đã cho người nữ
xuất gia thọ giới Cụ túc rồi, thì điều cần thiết là phải tùy thuận những
điều chế cấm của Ta, không nên đi nghịch lại. Những gì Ta không chế cấm thì
không được vọng chế.
Tôn giả A-nan lui ra,
đến chỗ Cù-đàm di thuật lại đầy đủ lời đức Phật dạy. Bà Cù-đàm di lắng lòng
nghe, rồi hoan hỷ phụng hành. Kể từ thời điểm ấy, bà trở thành người xuất
gia thọ Tám Kỉnh Pháp, là thành giới Cụ túc.
Cù-đàm di lại thưa với
A-nan:
- Năm trăm Thích nữ
này, bây giờ phải giải quyết như thế nào để thọ giới Cụ túc? Nhờ tôn giả
thưa hỏi giùm cho vấn đề này.
A-nan lại bạch Phật,
Phật dạy:
- Cho phép Tỳ-kheo ni
Ba-xà-ba-đề làm Hòa thượng, đối trước chúng Tỳ-kheo 10 vị, bạch Tứ Yết-ma
cho họ thọ giới Cụ túc và mỗi lần Yết-ma chỉ cho ba người, không được quá.
Sau khi thực hiện việc
thọ giới xong, Tỳ-kheo ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề đưa 500 Tỳ-kheo ni đến đảnh lễ
tạ ơn đức Phật. Ðức Phật lại dạy cặn kẽ hơn về mọi sinh hoạt tu học, giống
như đời sống tu hành của Tỳ-kheo và luôn luôn tuân thủ Tám Kỉnh Pháp.
NGŨ BÁCH
KIẾT TẬP PHÁP TẠNG
^
Không lâu sau, khi đức
Thế Tôn Nê-hoàn thì tại lầu các giảng đường, bên bờ sông Di Hầu, thuộc thành
Tỳ-xá-ly, Ðại Ca-diếp trước 500 Tỳ-kheo Tăng đều là bậc A-la-hán (chỉ trừ
A-nan), nói:
- Trước đây tôi từ
nước Ba-tuần
đến thành Câu-di,
khoảng chừng giữa hai nước, tôi nghe Phật Thế Tôn đã vào Niết-bàn, khi ấy
lòng tôi mê loạn, không thể tự nhiếp phục được mình. Trong các xóm làng gần
đấy, các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di... có người quýnh quáng cả
hai chân, có người nhảy khóc té nhào xuống đất. Không ai là không buồn rầu
than khóc:
“Mau quá! Vội quá! Thế
gian còn gì nữa?! Con mắt thế gian bị mất rồi!”.
Trong thời điểm ấy,
Bạt-nan-đà
cũng có mặt nơi này, nói với mọi người rằng:
“Lão già ấy (đức Phật)
thường nói:‘Nên làm thế này, không nên làm thế kia’. Kể từ nay chúng ta mới
thoát khỏi cái khổ đó, được làm theo ý muốn của mình, không bị ràng buộc.
Tại sao các người lại cùng nhau khóc kể?”.
Tôi nghe lời nói ấy
càng thêm ưu não cho sự cay độc này. Ðức Phật tuy Nê-hoàn, nhưng Tỳ-ni còn
đó, chúng ta nên cùng nhau ra sức kết tập lại, đừng để cho bọn Bạt-nan-đà
biệt lập bè đảng phá hoại chánh pháp.
Các Tỳ-kheo đều cho đó
là việc làm hay, bạch Ca-diếp:
- A-nan thường hầu Thế
Tôn, là người thông tuệ, đa văn, thọ trì đầy đủ pháp tạng, nay nên cho phép
A-nan tham dự hội kiết tập này.
Ca-diếp nói:
- A-nan còn ở trong
học địa,
hoặc tùy ái, nhuế, bố, si, úy... Không nên dung nạp ông ta kết tập chung với
chư vị A-la-hán.
Bấy giờ, A-nan ở tại
Tỳ-xá-ly ngày đêm thường thuyết pháp trước bốn chúng. Người lui tới thật rộn
rịp như ngày còn Phật.
Trong lúc ấy, Tỳ-kheo
Bạt-kỳ tọa thiền trên gác thượng, cũng bị náo loạn bởi kẻ tới người lui kia,
nên không thể tu hành các Tam muội giải thoát, lại có suy nghĩ: “A-nan này ở
trong học địa, có việc cần làm thì lại không làm, nói nhiều quá rơi vào nếp
sống ồn ào, thật vô ích!”. Bạt-kỳ trong định lại nhìn thấy việc cần làm kia,
bèn khởi lên suy niệm: “Nay ta nên nói pháp yểm ly, khiến cho A-nan nhân đó
mà ngộ đắc”.
Bạt-kỳ liền đến chỗ
A-nan nói kệ:
Ngồi chỗ vắng dưới
cây
Tâm hướng cõi
Nê-hoàn
Nên thiền, đừng
buông lung
Nói nhiều để làm
gì?!
Các Tỳ-kheo cũng nói
với A-nan rằng:
- Ông nên tu gấp đi!
Ðại Ca-diếp nay muốn kết tập pháp Tỳ-ni, nhưng không cho ông tham dự.
A-nan nghe Tỳ-kheo
Bạt-kỳ nói kệ, lại nghe tin Ca-diếp không cho ở trong túc số kết tập Tỳ-ni,
A-nan như bừng tỉnh, bèn tập trung tu tập. Ðầu đêm, giữa đêm, cuối đêm siêng
năng kinh hành, tư duy vọng cầu giải thoát, song vẫn chưa đạt sự chứng đắc.
Ðêm gần tàn, sau nhiều cố gắng, muốn nằm nghỉ một chút. Khi ngã lưng, đầu
vừa chạm gối, A-nan hốt nhiên dứt sạch các lậu hoặc. A-nan cảm nhận được sự
thực chứng của mình.
Biết được việc này,
các Tỳ-kheo bạch lên Ca-diếp và có lẽ Ca-diếp cũng nhìn thấy sự chứng quả
A-la-hán của A-nan. Ca-diếp chấp thuận lời đề nghị của các Tỳ-kheo nên A-nan
được đưa vào túc số 500 vị A-la-hán kết tập Tỳ-ni.
Ðối với Ca-diếp suy
nghĩ nhiều hơn: “Nơi nào có đủ đồ ăn, thức uống, giường nằm, cũng như các
phương tiện khác đủ để cung cấp cho việc kết tập Tỳ-ni này? - Thành
Vương-xá, chỉ có nơi này mới đủ cung cấp mọi thứ”.
Ca-diếp liền tuyên cáo
giữa Tăng:
- Năm trăm vị A-la-hán
ở nơi đây nên đến thành Vương-xá an cư, ngoài ra không một người nào được đi
theo.
Tuân thủ sự chỉ đạo
này, 500 vị A-la-hán đến thành Vương-xá. Tháng đầu mùa Hạ, sửa chữa phòng xá
và mọi tiện nghi khác. Tháng thứ hai du hý trong các thiền giải thoát. Tháng
thứ ba, tập trung lại một chỗ thực hiện việc kết tập. Ngày ấy, trước Tăng
Ca-diếp bạch:
- Ðại đức Tăng xin
lắng nghe. Nay tôi trước Tăng hỏi Ưu-ba-ly về nghĩa Tỳ-ni. Nếu bây giờ việc
làm này là thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận thì đây là lời thưa của
tôi trước Tăng.
Khi ấy, Ưu-ba-ly tác
pháp bạch Tăng:
- Ðại đức Tăng xin
lắng nghe. Nay tôi sẽ đáp lời Ca-diếp về nghĩa Tỳ-ni. Nếu bây giờ việc này
đối với Tăng là thích hợp, Tăng chấp thuận thì đây là lời thưa.
Ca-diếp hỏi Ưu-ba-ly:
- Ðức Phật chế giới
đầu tiên ở tại chỗ nào?
Ưu-ba-ly đáp:
- Tại Tỳ-xá-ly.
- Vì ai chế giới?
- Vì Tu-đề-na, con của
Ca-lan-đà.
- Vì sao chế?
- Cùng người vợ cũ
hành dâm.
- Có chế lần thứ hai
không?
- Có, vì có Tỳ-kheo
cùng với con khỉ cái hành dâm.
- Chế giới thứ hai ở
chỗ nào?
- Tại thành Vương-xá.
- Vì ai chế giới này?
- Vì Ðạt-ni-ca.
- Vì sao chế?
- Vì trộm gỗ của vua
Bình-sa.
Ca-diếp lại hỏi
- Chế giới thứ ba ở
chỗ nào?
Ưu-ba-ly đáp:
- Tại Tỳ-xá-ly.
- Vì sao chế?
- Vì số đông Tỳ-kheo.
- Vì việc gì chế?
- Vì tự cùng nhau hại
mạng.
- Giới thứ tư chế tại
chỗ nào?
- Tại Tỳ-xá-ly.
- Vì ai chế?
- Vì các Tỳ-kheo ở
sông Bà-cầu-ma.
- Vì việc gì chế?
- Dối xưng được pháp
hơn người.
Ca-diếp lần lượt hỏi
tất cả các vấn đề Tỳ-ni như vậy rồi, ở giữa Tăng xướng:
- Ðây là Tỳ-ni của
Tỳ-kheo. Ðây là Tỳ-ni của Tỳ-kheo ni. Hợp chung lại gọi là Tạng Tỳ-ni.
Ca-diếp lại bạch Tăng:
- Ðại đức Tăng xin
lắng nghe. Nay tôi trước Tăng muốn hỏi A-nan về nghĩa Tu-đa-la.
Nếu bây giờ việc làm này là thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận thì đây
là lời thưa.
A-nan cũng bạch Tăng:
- Ðại đức Tăng xin
lắng nghe! Nay tôi sẽ đáp lời Ca-diếp về nghĩa Tu-đa-la. Nếu bây giờ việc
trả lời là thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận thì đây là lời thưa.
Ca-diếp hỏi A-nan:
- Ðức Phật nói kinh
Tăng Nhất ở chỗ nào? Ngài nói kinh Tăng Thập
ở chỗ nào? Kinh Ðại nhân duyên,
kinh Tăng Kỳ-đà,
kinh Sa-môn Quả,
kinh Phạm động,
những kinh nào Ngài vì Tỳ-kheo nói? Những kinh nào Ngài vì Tỳ-kheo ni,
Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, các Thiên tử, Thiên nữ nói?
A-nan đều tùy theo
xuất xứ Phật nói kinh, trả lời không một sai sót. Ca-diếp hỏi như vậy đối
với tất cả Tu-đa-la rồi, giữa Tăng công bố:
- Ðây là kinh dài, nay
tập hợp làm một bộ, gọi là Trường A-hàm.
- Ðây là kinh không
dài, không ngắn, nay tập hợp lại thành một bộ, gọi là Trung A-hàm.
- Ðây là kinh thuộc về
những việc linh tinh, nhiều chủ đề, vì Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc,
Ưu-bà-di, Thiên tử, Thiên nữ nói, nay tập hợp lại thành một bộ, gọi là Tạp
A-hàm.
- Ðây là từ một pháp,
tăng lên đến 11 pháp, tập hợp lại thành một bộ, gọi là Tăng nhất A-hàm.
- Ngoài ra, từ nhiều
vấn đề được đề cập đến, nay tập hợp thành một bộ, gọi là Tạp tạng.
Gom chung lại tất cả
gọi là Tạng Tu-đa-la.
Chúng ta đã kiết tập
xong Pháp tạng. Từ nay về sau, những gì Phật không chế cấm thì không vọng
chế, những gì Phật đã chế cấm thì không được trái phạm. Như lời đức Phật
dạy, nên kính cẩn học tập.
A-nan lại bạch
Ca-diếp:
- Tôi thân cận, nghe
từ Phật nói: “Sau khi Ta Nê-hoàn, nếu muốn bỏ bớt những giới nho nhỏ thì cho
phép bỏ”.
Ca-diếp liền hỏi:
- Ông muốn nói giới
nào là giới nho nhỏ?
- Không biết. - A-nan
đáp.
- Tại sao không biết?
- Ca-diếp hỏi.
- Vì không hỏi đức Thế
Tôn. - A-nan đáp.
- Tại sao không hỏi? -
Ca-diếp nhấn mạnh.
- Khi ấy đức Phật mệt,
nên tôi không dám phiền Ngài. - A-nan đáp.
Ca-diếp kết tội A-nan:
- Ông không hỏi nghĩa
này, phạm tội Ðột-kiết-la. Nên thấy tội mà tự sám hối.
A-nan thưa:
- Thưa Ðại đức, không
phải tôi không kính giới mà không hỏi nghĩa này. Chỉ vì sợ não động đức Thế
Tôn nên không dám hỏi. Trong vấn đề này tôi không thấy tội tướng, nhưng vì
kính tín Ðại đức nên nay tôi xin sám hối.
Ca-diếp lại kết tội
A-nan:
- Ông vá áo
Tăng-già-lê cho đức Thế Tôn, lấy ngón chân đạp lên áo, phạm Ðột-kiết-la. Ông
nên thấy tội và sám hối.
A-nan thưa:
- Không phải tôi không
kính Phật, song vì không có ai cầm giúp, nên tôi phải dùng ngón chân kẹp
lại. Trong vấn đề này, tôi không thấy tội tướng, nhưng vì kính tín Ðại đức
nên nay tôi xin sám hối.
Ca-diếp lại gạn hỏi
A-nan:
- Ông ba phen cầu
thỉnh đức Thế Tôn cho người nữ xuất gia trong chánh pháp, phạm tội
Ðột-kiết-la. Nên thấy tội và sám hối.
A-nan thưa:
- Chẳng phải tôi không
kính pháp, chỉ vì Ma-ha Ba-xà-ba-đề Cù Ðàm di là người nuôi dưỡng đức Thế
Tôn cho đến lớn xuất gia, đến thành đại đạo, công đức này phải báo đáp, nên
tôi mới thỉnh cầu ba lần như vậy. Trong vấn đề này tôi không thấy tội tướng,
nhưng vì kính tín Ðại đức nên nay tôi xin sám hối.
Ca-diếp lại hỏi A-nan:
- Ðức Phật khi gần
Nê-hoàn, hiện tướng nói với ông rằng: “Người có được bốn thứ thần túc, muốn
sống ở đời một kiếp, hay hơn một kiếp đều có thể được.” Như Lai thành tựu vô
lượng định pháp, Ngài hiện tướng nói với ông như vậy ba lần, ông không thỉnh
Phật trụ thế một kiếp hay hơn một kiếp, phạm Ðột-kiết-la. Ông nên thấy tội
và sám hối.
A-nan thưa:
- Không phải tôi không
muốn thỉnh Phật cửu trụ tại thế gian, mà vì ma Ba-tuần che đậy lòng tôi, cho
nên mới như vậy. Trong vấn đề này, tôi cũng không thấy tội tướng, nhưng vì
kính tín Ðại đức nên nay xin sám hối.
Ca-diếp lại gạn hỏi
A-nan:
- Trước đây, đức Phật
ba lần bảo ông đưa nước, ông không dâng nước cho Ngài, phạm Ðột-kiết-la;
cũng nên thấy tội mà sám hối.
A-nan thưa:
- Chẳng phải tôi không
muốn dâng nước lên Phật. Do bởi khi ấy có 500 cỗ xe đi qua phía trên dòng
nước, nước bị đục, chưa kịp lắng trong, tôi sợ Ngài uống vào không tốt nên
không dâng. Ðối với tôi việc này cũng không thấy tội tướng, nhưng vì kính
tín Ðại đức, nay xin sám hối.
Ca-diếp lại gạn hỏi:
- Ông cho phép người
nữ kính lễ Xá-lợi
trước, phạm Ðột-kiết-la, cũng nên thấy tội và sám hối.
A-nan thưa:
- Chẳng phải tôi muốn
người nữ kính lễ Xá-lợi trước, mà sợ chiều tối vào thành không kịp. Do vậy,
tôi cho phép họ kính lễ trước. Trong vấn đề này tôi không thấy tội tướng,
nhưng vì kính tín Ðại đức, nay tôi xin sám hối.
A-nan vì kính tín Ðại
Ca-diếp nên trước chúng Tăng tác pháp sám hối sáu tội Ðột-kiết-la.
Ca-diếp lại nói với
A-nan:
- Nếu chúng ta cho
Chúng học pháp là giới nho nhỏ, thì Tỳ-kheo khác lại nói Ba-la-đề
đề-xá-ni cũng là giới nho nhỏ. Nếu chúng ta nói bốn pháp Ba-la-đề đề-xá-ni
là giới nho nhỏ, thì Tỳ-kheo khác cũng nói Ba-dật-đề là giới nho nhỏ. Nếu
chúng ta nói Ba-dật-đề là giới nho nhỏ, thì Tỳ-kheo khác cũng nói Ni-tát-kỳ
ba-dật-đề là giới nho nhỏ. Như vậy thành bốn ý kiến, làm sao quyết định được
vấn đề?
Ca-diếp lại hỏi:
- Nếu chúng ta không
biết giới tướng nào là nho nhỏ mà vọng tưởng loại bỏ thì các ngoại đạo sẽ
nói: “Sa-môn Thích tử, pháp của họ như khói mây. Khi thầy còn tại thế, những
điều chế cấm đều phụng hành, nhưng khi thầy Nê-hoàn lại không chịu học tập
gìn giữ”.
Ca-diếp giữa Tăng đọc
tuyên ngôn:
- Chúng ta đã kết tập
pháp xong, nếu những điều gì không được Phật chế cấm, không nên vọng chế;
những điều đã chế cấm thì không được trái phạm. Như lời Phật dạy, nên kính
cẩn học tập.
Bấy giờ, tận phương
Nam, trưởng lão Phú-lan-na cùng đệ tử dùng thần lực về thành Vương-xá, đến
trước Ca-diếp, hỏi:
- Tôi nghe đức Phật
Nê-hoàn, Tỳ-kheo Thượng tọa đều về đây thảo luận kết tập pháp Tỳ-ni, có thật
như vậy không?
Ca-diếp trả lời:
- Có thật như vậy,
thưa Ðại đức.
- Ðại đức có thể nói
lại các vấn đề đã thảo luận được không? - Trưởng lão Phú-lan-na hỏi.
Ca-diếp liền trình bày
lại các vấn đề đã kết tập. Và như để làm rõ hơn những nghi vấn, Phú-lan-na
nói với Ca-diếp:
- Chính tôi nghe từ
Phật dạy: “Ðược ngủ với thức ăn, nấu trong phòng, tự nấu, tự mang thức ăn
đến người thọ, tự lấy trái cây để ăn, đến nơi ao nước lấy thức ăn, không có
tịnh nhơn tác tịnh trái cây, loại bỏ hột để ăn”.
Ca-diếp trả lời:
- Thưa Ðại đức, bảy
điều đó là khi đức Phật ở Tỳ-xá-ly, gặp lúc mất mùa đói khát, khất thực khó
được, nên đức Phật quyền biến cho phép như vậy. Sau đó, cũng tại nơi đây lại
chế cấm bốn điều, rồi đến Xá-vệ chế cấm ba điều nữa.
Phú-lan-na nói:
- Ðức Thế Tôn không
làm cái việc chế cấm rồi lại cho phép, cho phép rồi lại chế cấm!
Ca-diếp nói:
- Ðức Phật là đấng
Pháp vương, đối với pháp tự tại, chế cấm rồi lại cho phép, cho phép rồi lại
chế cấm, đâu có lỗi gì?!
Phú-lan-na nói:
- Những điều khác, tôi
chấp nhận. Còn đối với bảy điều này không thể thi hành.
Ca-diếp lại ở giữa
Tăng đọc tuyên ngôn:
- Những gì Phật không
chế cấm thì không nên vọng chế. Những gì Phật đã chế cấm, không nên trái
phạm. Như lời Phật dạy, nên kính cẩn học tập.
Lúc bấy giờ, tại
Câu-xá-di, Tỳ-kheo Xiển-đà xúc não chúng Tăng, không cùng hòa hợp. Có một
Tỳ-kheo an cư rồi, đến chỗ Ca-diếp trình bày lại sự việc kia. Ca-diếp nói
với A-nan:
- Thầy đến Câu-xá-di,
dùng lời Phật, dùng lời Tăng tác pháp Phạm-đàn
trị phạt Xiển-đà.
A-nan làm theo lời
sai, cùng 500 Tỳ-kheo đến Câu-xá-di. Ngày đến, Xiển-đà ra nghinh đón, hỏi
A-nan:
- Ðến đây có việc gì?
Chẳng lẽ muốn gây sự vô ích cho tôi ư?
A-nan nói:
- Vì muốn đem lại sự
hữu ích cho thầy.
- Có ích cho tôi là
thế nào? - Xiển-đà hỏi.
- Nay tôi sẽ dùng lời
Phật, lời Tăng tác pháp Phạm-đàn trị phạt thầy. - A-nan đáp.
- Thế nào gọi là pháp
Phạm-đàn? - Xiển-đà hỏi.
- Pháp Phạm-đàn là
pháp mà các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di sẽ không tiếp xúc, qua
lại, nói năng với thầy. - A-nan nói.
Nghe rõ ý nghĩa pháp
Phạm-đàn này, Xiển-đà ngất xỉu, giây lát tỉnh lại nói với A-nan:
- Ðây chính là hình
thức giết tôi vậy!
A-nan nói:
- Chính tôi nghe từ
đức Phật: thầy sẽ từ tôi mà đắc đạo. Thầy hãy đứng dậy, tôi sẽ vì thầy nói
pháp.
Sau khi lắng lòng nghe
pháp, Xiển-đà từ đó đắc pháp, chứng quả.
Khi vân tập kết pháp
Tỳ-ni, Trưởng lão A-Nhã Kiều-trần-như ngôi vị đệ nhất Thượng tọa. Trưởng lão
Phú-lan-na đệ nhị Thượng tọa. Cù Ðàm di đệ tam Thượng tọa. Ðà-bà Ca-diếp đệ
tứ Thượng tọa. Bạt-đà Ca-diếp đệ ngũ Thượng tọa. Ðại Ca-diếp đệ lục Thượng
tọa. Ưu-ba-ly đệ thất Thượng tọa. A-na-luật đệ bát Thượng tọa.
Vì con số tròn 500 vị
A-la-hán tham dự kết tập, nên gọi là Ngũ Bách Kiết Tập Pháp Tạng.
THẤT
BÁCH KIẾT TẬP PHÁP TẠNG^
Một trăm
năm sau khi đức Phật Niết-bàn, tại thành Tỳ-xá-ly, các Tỳ-kheo Bạt-kỳ dựng
nên 10 phi pháp:
1-
Muối với gừng hợp chung lại để cách đêm, được phép ăn.
2-
Lấy hai ngón tay xúc thức ăn, được phép ăn.
3-
(Ăn rồi) ngồi trở lại, được phép ăn.
4-
Hướng đến xóm làng, được phép ăn.
5-
Tô(bơ), du(dầu), mật, thạch mật(đường phèn) hòa với lạc(cao sữa),
được phép uống.
6-
Rượu Các-lâu-già được phép uống.
7-
Làm tọa cụ lớn, nhỏ theo ý mình, được phép ngồi.
8-
Quen theo nếp sống cũ là tịnh.
9-
Cầu thính là tịnh.
10- Nhận cất vàng,
bạc, tiền là tịnh.
Với chủ trương như
thế, các Tỳ-kheo Bạt-kỳ dùng bình bát đựng đầy nước, vào những ngày mồng
tám, mười bốn, rằm trong tháng, tập hợp ngồi chỗ đông người, để bình bát
trước mặt, cho đây là điềm lành, với mục đích xin người bố thí. Bấy giờ,
già, trẻ, lớn, bé... người qua kẻ lại đều dừng xem. Các thầy chỉ vào bát,
nói:
- Trong đây là điềm
lành, có thể đặt vào đó: y, bát, giày, dép, thuốc thang...
Người muốn cho, bỏ vào
đó rồi đi. Kẻ không muốn cho thì lại mỉa mai, chê trách:
- Sa-môn Thích tử
không nhận cất giữ vàng, bạc và tiền; dù có người cho cũng không ghé mắt
nhìn đến. Tại sao nay lại làm việc này để cầu xin sự bố thí?
Khi ấy, Trưởng lão
Da-xá - con của Ca-lan-đà - trú ngụ tại lầu các giảng đường, bên sông Di
Hầu, nói với các Tỳ-kheo rằng:
- Các thầy không nên
cầu xin sự bố thí như vậy. Chính tôi nghe đức Phật dạy: “Nếu có người phi
pháp cầu thí, và người thí cho kẻ cầu phi pháp, cả hai đều có tội”.
Trưởng lão Da-xá lại
nói với các bạch-y nam, nữ, lớn, nhỏ:
- Các người đừng nên
bố thí như thế! Chính tôi nghe từ đức Phật, Ngài dạy: “Nếu phi pháp cầu thí,
hoặc thí cho người cầu phi pháp, cả hai đều có tội”.
Các Tỳ-kheo Bạt-kỳ
nhận được vàng, bạc, tiền rồi, họ nói với Da-xá rằng:
- Ðại đức có thể nhận
lấy phần này.
- Tôi không nhận phần
do sự phi pháp cầu mà được. - Da-xá nói.
- Nếu không nhận cho
mình thì ngài nhận cúng cho Tăng. - Các Tỳ-kheo bảo.
- Tôi đã không nhận,
tại sao lại bảo tôi nhận cúng cho Tăng?
Thế rồi, các Tỳ-kheo
đem việc Da-xá đã dạy bạch y lời như vậy là sự mạ nhục bạch y. Ðể kết tội
xúc phạm này, các Tỳ-kheo trao cho Da-xá pháp Yết-ma Hạ Ý và yêu cầu Da-xá
đến xin lỗi bạch y. Da-xá nói:
- Chính tôi nghe đức
Phật dạy: Nếu Tăng trao cho pháp Yết-ma Hạ Ý thì nên sai một Tỳ-kheo cùng đi
với tôi đến xin lỗi bạch y.
Các Tỳ-kheo liền bạch
nhị Yết-ma, sai một Tỳ-kheo làm bạn đi với Da-xá. Vừa lúc đến thì cũng nhằm
ngày 500 Ưu-bà-tắc tập trung lại sinh hoạt. Da-xá nói trước số đông này:
- Quý vị nên biết,
đúng pháp tôi nói là đúng pháp, phi pháp tôi nói là phi pháp. Tỳ-ni tôi nói
là Tỳ-ni, phi Tỳ-ni tôi nói là phi Tỳ-ni. Lời Phật dạy tôi nói là lời Phật
dạy, chẳng phải lời Phật dạy, tôi nói chẳng phải lời Phật dạy. Trước đây,
những gì tôi nói khiến Ưu-bà-tắc giận, nay tôi xin lỗi.
Các Ưu-bà-tắc rất ngạc
nhiên trước lời xin lỗi này, đều thưa:
- Thưa Ðại đức, lúc
nào Ðại đức cũng vì chúng con nói đúng pháp, đúng luật, đúng lời Phật dạy,
làm sao chúng con lại có sự giận trách, phật lòng, mà nay Ðại đức lại đi xin
lỗi chúng con?! Tội chết!!
Da-xá nói với mọi
người rằng:
- Thuở ấy, đức Thế Tôn
ở tại thành Vương-xá, nơi vườn Kỳ-vức Am-la.
Bấy giờ, vua Bình-sa và các đại thần cùng tập hợp tại vương môn để thảo luận
vấn đề như thế này: “Sa-môn Thích tử có nên nhận cất giữ vàng bạc, châu báu
và sử dụng để mua bán?”.
Lúc ấy, trong số đông
này, có đại thần Châu Kế, nói với mọi người rằng: “Ðừng nên đề cập đến vấn
đề này. Sa-môn Thích tử không nên nhận và cất giữ vàng bạc, châu báu hay sử
dụng để mua bán”.
Sau đó, Châu Kế vội
đến chỗ đức Phật vấn ý về điều đã nói trước đám đông: “Bạch Thế Tôn, ý kiến
của con nêu ra như thế có đưa đến sự sai lầm nào không?”.
Ðức Phật dạy: “Ðiều
ông nói lên như vậy là đúng chánh pháp. Tại sao? Như Lai thường nói rõ vấn
đề này rằng: Sa-môn Thích tử không nhận cất giữ vàng bạc, châu báu và sử
dụng để mua bán”.
Vị đại thần Châu Kế
bạch Phật: “Cúi xin đức Thế Tôn nên phổ biến cho mọi người biết rằng ý kiến
của con là không nhầm lẫn”.
Ðức Phật bảo: “Hay
lắm!”.
Ngài lại dạy: “Giống
như mặt trăng, mặt trời bị khói, mây, bụi trần, A-tu-la, bốn thứ này che
khuất, nên không trong suốt sáng ngời; Sa-môn, Bà-la-môn cũng bị bốn thứ như
vậy, nghĩa là: không đoạn ái dục, hành pháp dâm, hoặc đam mê ăn uống, không
thể đoạn trừ, hoặc chuyên làm tà mạng để nuôi sống, hoặc nhận cất giữ vàng
bạc, châu báu và sử dụng để mua bán. Nếu người nào cho ngũ dục là tịnh thì
người ấy mới cho việc nhận cất giữ vàng bạc, châu báu và sử dụng mua bán là
tịnh. Nếu người nào cho việc nhận cất giữ vàng bạc, châu báu và sử dụng mua
bán là tịnh thì người ấy cho ngũ dục là tịnh. Nếu người nào nương theo Ta
xuất gia thọ Cụ túc giới mà cho việc nhận cất giữ vàng bạc, châu báu và sử
dụng vào việc mua bán là tịnh thì Ta cả quyết rằng: Người ấy không tin vào
pháp, luật của Ta. Tuy Ta thường nói cần xe thì dùng xe, cần người thì dùng
người, tùy theo sự nhu cầu đều cho phép dùng, nhưng hoàn toàn không được
phép nhận cất giữ vàng bạc, châu báu và sử dụng nó để mua bán”.
Da-xá nói như vậy rồi,
lại nói:
- Trước đây tôi nói
đúng pháp chứ không phải phi pháp, đúng luật chứ không phải phi luật, đúng
lời Phật dạy chứ chẳng phải phi lời Phật dạy, là lời Phật nói chứ không phải
phi lời Phật nói.
Các Ưu-bà-tắc thưa:
- Chúng con đối với
lời thầy dạy, nào đâu không tin tưởng, kính trọng? Hiện nay, nơi Tỳ-xá-ly
này chỉ có Ðại đức là Sa-môn Thích tử, cúi xin Ðại đức nhận lời mời của
chúng con ở lại đây để trọn đời chúng con được cúng dường tứ sự.
Da-xá xin lỗi các
Ưu-bà-tắc, rồi cùng Tỳ-kheo sứ giả của Tăng trở về Tăng phường. Tỳ-kheo
Bạt-kỳ hỏi Tỳ-kheo sứ giả:
- Tỳ-kheo Da-xá đã xin
lỗi các Ưu-bà-tắc chưa?
- Bạch Ðại đức, đã xin
lỗi rồi, nhưng có điều là các bạch y đều tin theo lời nói của Tỳ-kheo Da-xá,
họ cảm động nói rằng: “Hiện nay nơi Tỳ-xá-ly này chỉ có Ðại đức là Sa-môn
Thích tử”. Họ mời ở lại để trọn đời cúng dường tứ sự. Ðối với chúng ta chẳng
được lợi ích gì.
Tỳ-kheo Bạt-kỳ lại đem
vấn đề trước đây Da-xá khuyên bảo các Tỳ-kheo là hình thức mạ nhục Tăng là
phạm Ba-dật-đề. Họ nói:
- Thầy phải thấy tội
để sám hối.
Tỳ-kheo Da-xá trả lời:
- Tôi không có tội,
làm sao có thể thấy tội để sám hối.
Tỳ-kheo Bạt-kỳ liền
tập hợp Tăng để trao cho Yết-ma không thấy tội. Thế là Da-xá liền dùng thần
túc bay đến nước Ba-tuần.
Khi ấy, ở ấp Ba-lợi
có sáu mươi Tỳ-kheo đều ở A-lan-nhã, đời sống với ba y và khất thực, thường
mặc y phấn tảo, ngồi nơi đất trống, đầy đủ Tam minh, Lục thông. Tất cả là đệ
tử của A-nan, đồng loạt bay đến Tỳ-xá-ly. Gặp nhau trên không, Da-xá để y
bát nơi hư không như để trên đất, chào hỏi sáu mươi Tỳ-kheo kia, trình bày
rõ ràng mời điều phi pháp của Tỳ-kheo Bạt-kỳ và đề nghị:
- Thưa các Ðại đức,
chúng ta nên bàn thảo pháp Tỳ-ni với nhau để chấm dứt việc phi pháp kia,
đừng để Tỳ-kheo Bạt-kỳ phá hoại chánh pháp.
Số đông Tỳ-kheo ấp
Ba-lợi nhất trí muốn cùng nhau chấp dứt.
Lại có ba mươi Tỳ-kheo
Tăng nơi ấp Ba-lợi cũng nhất trí như vậy và các vị cũng là đệ tử của A-nan.
Ở tại nước Ma Thâu La,
Da-xá cùng với sáu mươi Tỳ-kheo lại gặp nhau cũng để bàn luận về vấn đề này,
họ nói:
- Ðược ba mươi Tỳ-kheo
ấy đồng tình với chúng ta, chắc chắn ác sự do Tỳ-kheo Bạt-kỳ bày ra kia sẽ
bị tiêu diệt như pháp.
Nghị bàn như vậy rồi,
họ cùng bay đến chỗ các Tỳ-kheo trên kia trình bày sự thống nhất diệt phi
pháp. Các Tỳ-kheo ở đây đều nhất trí là muốn cùng nhau chấm dứt việc phi
pháp đã xảy ra.
Lại có 30 Tỳ-kheo khác
ở ấp Ba-lợi nghe sự việc và cũng biểu đồng tình như trên. Các vị ấy cũng là
đệ tử của A-nan.
Tại ấp A-lạp-bệ,
Da-xá cùng với chín mươi người cũng nghị bàn việc trên, rồi đến tận các nơi
trình bày rõ sự việc như trên. Nơi nào, các Tỳ-kheo cũng đồng tình mong muốn
chấm dứt điều phi pháp này.
Bấy giờ, Trưởng lão
Tam-phù-đà
ở trên núi A-hô,
Da-xá lại cùng 120 người cũng luận bàn việc trên, rồi đến tận các nơi ở đây
nói rõ việc phi pháp như trên. Nơi nào cũng tán đồng muốn chấm dứt việc phi
pháp ấy.
Bấy giờ, trưởng lão
Ly-bà-đa ở thành Câu-xá-di được Từ tâm Tam muội, có đại quyến thuộc, Da-xá
cùng với 121 vị bàn thảo với nhau sự việc trên, rồi cùng đi đến tận các nơi
ở đây nói rõ việc phi pháp như trên. Ở đâu cũng tán đồng muốn chấm dứt việc
ấy.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo
Bạt-kỳ nghe Da-xá đến chỗ Ly-bà-đa, nơi Câu-xá-di, họ bèn chở đầy cả thuyền
y, bát và vật dụng cần thiết cho Sa-môn cũng đến Câu-xá-di, mục đích tìm
cách mua chuộc, cầu cạnh sự yểm trợ. Trong thuyền, có người bạn với họ là
Tỳ-kheo trì luật tên Sa-lan, tự nghĩ thầm: “Tỳ-kheo Bạt-kỳ có là như pháp
không? Dựa vào kinh luật thì việc làm của họ không như pháp”.
Ngay lúc ấy, trong
không trung có vị thần ba phen xướng rằng: “Việc làm của Tỳ-kheo Bạt-kỳ là
phi pháp. Phi pháp như vậy... như vậy... đúng như chỗ nhận định của thầy”.
Các Tỳ-kheo Bạt-kỳ đến
Câu-xá-di, cùng nhau lên bờ, đến chỗ Trưởng lão Ly-bà-đa. Họ thưa:
- Chúng tôi có chở
nhiều vật dụng cần dùng của Sa-môn, đến cúng dường cho ngài. Xin ngài nạp
thọ.
Ly-bà-đa trả lời:
- Y, bát của tôi đầy
đủ, khỏi cần thêm nữa.
- Nếu ngài không nhận
nhiều thì xin nhận chút ít. - Các Tỳ-kheo Bạt-kỳ nói.
- Y, bát của tôi đã
đầy đủ rồi, không nên vì các thầy mà thọ để rồi trái với chánh pháp. -
Ly-bà-đa đáp.
Ly-bà-đa có một người
đệ tử tên là Ðạt-ma, thường hầu hạ thầy. Nắm được việc này, các Tỳ-kheo
Bạt-kỳ bèn đến chỗ Ðạt-ma nói:
- Tôi có các vật cần
dùng của Sa-môn, nếu ông có thiếu thì cứ lấy dùng.
- Tôi đều có đủ, không
thiếu thốn. - Ðạt-ma đáp.
- Khi Phật còn tại
thế, người ta đến cúng cho Phật, Ngài không nhận thì lại cúng cho A-nan.
A-nan đều thọ. A-nan đã thọ tức Phật thọ.
Ðạt-ma nghe thuyết
phục như vậy, nên nhận một vật dụng, nhận rồi hỏi:
- Với ý gì mà quý vị
lại buộc tôi nhận vật cúng của quý vị?
- Chúng tôi muốn ông
thưa với Hòa thượng dùng uy tín yểm trợ chúng tôi, đừng để Da-xá phá hoại
luật pháp của chúng tôi.
Nghe các Tỳ-kheo
Bạt-kỳ nói rõ ý đồ, Ðạt-ma bèn vì họ đến chỗ Hòa thượng thưa:
- Hòa thượng có thể
yểm trợ cho Tỳ-kheo Bạt-kỳ.
Hòa thượng Ly-bà-đa
dạy:
- Người ta làm việc
phi pháp, tôi không thể yểm trợ họ được.
Ðạt-ma lại thưa:
- Xin Hòa thượng cân
nhắc kỹ điều đó.
- Nay ông khuyên ta
yểm trợ kẻ phi pháp, tức chẳng phải đệ tử ta, từ nay đừng nên hầu hạ ta nữa,
ta cũng không đề cập gì đến ông nữa. - Hòa thượng nói.
Ðạt-ma xấu hổ, sợ sệt,
đến chỗ các Tỳ-kheo Bạt-kỳ, bọn họ lại hỏi:
- Hòa thượng của ông
đã đồng ý yểm trợ ý kiến của chúng tôi chưa?
- Không! Ai ngờ vì các
ông mà tôi bị thầy quở trách, đã không nói đến tôi mà còn đuổi tôi đi nữa. -
Ðạt-ma đáp.
- Nay ông bao nhiêu
tuổi? - Tỳ-kheo Bạt-kỳ hỏi.
- Hai mươi tuổi. -
Ðạt-ma đáp.
- Với tuổi của ông và
với đức độ như vậy, đâu cần phải sợ không được tiếp xúc, nói năng và bị
đuổi.
Trước sự việc như vậy,
Trưởng lão Ly-bà-đa khởi lên ý nghĩ: “Nếu ta ở đây chấm dứt sự phi pháp kia,
thì kẻ gây nên sự việc sẽ tìm cách phát động trở lại. Nay ta đến Tỳ-xá-ly để
chấm dứt việc đó”.
Ngày ấy, Ly-bà-đa cùng
với đại chúng, bao gồm cả chúng thành Tỳ-xá-ly lên đường đến thành này. Tại
thành Tỳ-xá-ly, trước đó đã có Tỳ-kheo tên là Nhất-thế-khứ, đối với Sa-môn
Thích tử của Diêm-phù-đề là bậc tối thắng Thượng tọa, chứng A-la-hán, Tam
minh, Lục thông, cũng là đệ tử lớn nhất của A-nan. Lúc còn ở ngoài Tăng
phường, Da-xá nói với Ly-bà-đa rằng:
- Ngài có thể đến
phòng Thượng tọa Nhất-thế-khứ trải tọa cụ nghỉ đêm, nhân đó trình bày đầy đủ
sự việc, sáng sớm ta cũng sẽ đến thăm hỏi Thượng tọa.
Mọi người đã đến Tăng
phường, Thượng tọa Nhất-thế-khứ sửa soạn nước tắm và nước uống sau giờ ngọ.
Ly-bà-đa một mình đến phòng Thượng tọa, trải tọa cụ nghỉ đêm. Ly-bà-đa trong
đêm suy nghĩ: “Vị Thượng tọa Nhất-thế-khứ này già yếu mà vẫn còn siêng năng
ngồi thiền thâu đêm, nay ta đâu được phép nghỉ ngơi”. Thượng tọa
Nhất-thế-khứ cũng nghĩ suy: “Tỳ-kheo khách này đi đường mệt nhọc, lại bận cả
việc tắm giặt mà còn tọa thiền hành đạo suốt đêm, sao ta lại có thể an tâm
nằm nghỉ?!”
Hai vị tự sách tấn
nhau mà suốt đêm tọa thiền. Ðến cuối đêm, Nhất-thế-khứ hỏi Ly-bà-đa:
- Ðêm nay phần nhiều
thầy du hành nơi định nào?
- Bản tánh tôi nhiều
lòng từ, đêm nay phần nhiều du hành nơi định ấy.
- Ðây là thô định.
Nhất-thế-khứ lại hỏi:
- Thầy là A-la-hán
phải không?
- Phải.
Ly-bà-đa lại hỏi:
- Ðêm nay Thượng tọa
phần nhiều du hành nơi định nào?
- Tánh tôi ưa không
quán, đêm nay phần nhiều tôi du hành nơi đó.
- Ðây là việc làm của
bậc Ðại nhân. Tại sao vậy? Vì Không Tam- muội là pháp của đại nhân.
Ly-bà-đa lại hỏi:
- Thượng tọa là
A-la-hán phải không?
- Phải. - Nhất-thế-khứ
đáp.
Ðêm đã trôi qua,
Tỳ-kheo Da-xá đến trước phòng, búng móng tay, Thượng tọa mở cửa, Da-xá vào
thăm hỏi nhị vị Thượng tọa. Sau khi được thăm hỏi, Ly-bà-đa hỏi
Nhất-thế-khứ:
- Muối với gừng hợp
lại, để cách đêm có tịnh hay không?
Nhất-thế-khứ bảo:
- Việc này nên hỏi
giữa Tăng. Nếu hỏi riêng, tôi sợ người phi pháp cho tôi là thiên vị, không
chấp nhận tôi ở trong túc số những người luận pháp Tỳ-ni.
Sau đó, Ly-bà-đa liền
tập hợp Tăng để bàn luận Tỳ-ni, nhưng vì lắm lời ồn ào nên bạch Tăng:
- Hôm nay cùng muốn
luận pháp Tỳ-ni, nhưng vì lắm ồn ào nên không thể quyết đoán được. Chúng hai
phía nên mỗi bên thỉnh cầu Tăng bốn vị để bạch Nhị yết-ma sai người chủ đoán
sự.
Trước hết, Tỳ-kheo
Bạt-kỳ thỉnh cầu bốn vị:
1-
Nhất-thế-khứ.
2-
Ly-bà-đa.
3-
Bất-xà-tôn.
4-
Tu-ma-na.
Bên Tỳ-kheo ấp Ba-lợi
cũng cầu thỉnh bốn vị:
1-
Tam-phù-đà.
2-
Sa-lan.
3-
Trường-phát.
4-
Bà-sa-lam.
Các Tượng tọa được
Tăng sai rồi cùng nghị bàn: “Ðịa điểm nào rộng rãi, khoáng đạt, yên tịnh, có
thể cùng nhau luận bàn pháp Tỳ-ni?”. Xem xét khắp nơi chỉ thấy ngôi vườn
được người nữ Tỳ-la-da cúng là tốt nhất. Ly-bà-đa liền bảo Ðạt-ma đến đó sửa
soạn trải tòa. Khi Thượng tọa đến, ông tránh đi.
Ðạt-ma vâng lệnh, đến
trải tòa. Sau đó, các Thượng tọa đến theo thứ tự an tọa.
Hội nghị bắt đầu.
Ly-bà-đa hỏi Thượng tọa Nhất-thế-khứ:
- Muối hòa với gừng,
để cách đêm có tịnh hay không?
- Không tịnh. -
Nhất-thế-khứ đáp.
- Ðiều này Phật chế
cấm ở đâu? - Ly-bà-đa hỏi.
- Chế cấm tại thành
Vương-xá. - Nhất-thế-khứ đáp.
- Vì ai chế cấm? -
Ly-bà-đa hỏi.
- Nhơn một Tỳ-kheo
A-lan-nhã. - Nhất-thế-khứ đáp.
- Phạm việc gì? -
Ly-bà-đa hỏi.
- Phạm Túc thực
Ba-dật-đề. - Nhất-thế-khứ đáp.
- Ðây là pháp, là
luật, là lời Phật dạy. Việc làm của Tỳ-kheo Bạt-kỳ là phi pháp, phi luật, chẳng phải lời Phật dạy.
Ly-bà-đa nói xong ra lệnh rút một thẻ. Ly-bà-đa lại hỏi:
- Hai ngón tay xúc
thức ăn để ăn, có tịnh hay không?
Thượng tọa
Nhất-thế-khứ hỏi lại:
- Hai ngón tay xúc
thức ăn là thế nào? Tịnh không?
Ly-bà-đa nói:
- Tỳ-kheo ăn xong rồi
lại được ăn trở lại thì dùng hai ngón tay xúc thức ăn để ăn..
- Không tịnh. -
Nhất-thế-khứ đáp.
- Ðiều này chế cấm ở
đâu? - Ly-bà-đa hỏi.
- Tại thành Vương-xá.
- Nhất-thế-khứ đáp.
- Vì ai chế cấm? -
Ly-bà-đa hỏi.
- Vì Bạt-nan-đà. -
Nhất-thế-khứ đáp.
- Phạm việc gì? -
Ly-bà-đa hỏi.
- Phạm không làm pháp
tàn thực mà ăn, Ba-dật-đề. - Nhất-thế-khứ đáp.
Ly-bà-đa nói:
- Ðây là pháp... đến
chẳng phải lời Phật dạy.
Ly-bà-đa ra lệnh rút
thẻ thứ hai.
- Ngồi trở lại ăn,
hướng đến xóm làng được phép ăn, cũng như vậy.
Ly-bà-đa ra lệnh rút
thẻ thứ ba, thứ tư.
Ly-bà-đa lại hỏi:
- Tô, du, mật, thạch
mật hòa với lạc uống, tịnh hay không?
Nhất-thế-khứ hỏi lại:
- Tô, du, mật, thạch
mật hòa với lạc được uống là thế nào?
Ly-bà-đa nói:
- Là uống phi thời.
- Không tịnh. -
Nhất-thế-khứ đáp.
- Chế cấm điều này ở
đâu? - Ly-bà-đa hỏi.
- Tại thành Xá-vệ. -
Nhất-thế-khứ đáp.
- Vì ai chế? -
Ly-bà-đa hỏi.
- Vì Ca-lưu-đà-di. -
Nhất-thế-khứ đáp.
- Phạm việc gì? -
Ly-bà-đa hỏi.
- Phạm phi thời thực,
Ba-dật-đề. - Nhất-thế-khứ đáp.
Ly-bà-đa nói:
- Ðây là pháp... đến
chẳng phải lời Phật dạy.
Ly-bà-đa ra lệnh rút
thẻ thứ năm.
Ly-bà-đa hỏi:
- Rượu Xà
(các)-lâu-già tịnh hay không?
Thượng tọa
Nhất-thế-khứ hỏi lại:
- Rượu Xà-lâu-già là
như thế nào?
Ly-bà-đa nói:
- Gây men rượu mà chưa
chín nồng.
- Không tịnh. -
Nhất-thế-khứ đáp.
- Chế cấm điều này ở
đâu? - Ly-bà-đa hỏi.
- Tại Câu-xá-di. -
Nhất-thế-khứ đáp.
- Vì ai chế? -
Ly-bà-đa hỏi.
- Vì Sa-kiệt-đà. -
Nhất-thế-khứ đáp.
- Phạm việc gì? -
Ly-bà-đa hỏi.
- Uống rượu,
Ba-dật-đề. - Nhất-thế-khứ đáp.
Ly-bà-đa nói:
-
Ðây là pháp, là luật... (cho đến) chẳng phải lời Phật dạy.
Ra lệnh rút thẻ thứ
sáu.
Ly-bà-đa hỏi:
- Làm tọa cụ lớn nhỏ
theo ý mình, tịnh hay không?
- Không tịnh. -
Nhất-thế-khứ đáp.
- Chế cấm điều này ở
đâu? - Ly-bà-đa hỏi.
- Tại thành Vương-xá.
- Nhất-thế-khứ đáp.
- Vì ai thế? -
Ly-bà-đa hỏi.
- Vì Ca-lưu-đà-di. -
Nhất-thế-khứ đáp.
- Phạm việc gì? -
Ly-bà-đa hỏi.
- Phạm Ba-dật-đề. -
Nhất-thế-khứ đáp.
Ly-bà-đa nói:
- Ðây là pháp... (cho
đến) chẳng phải lời Phật dạy.
Ra lệnh rút thẻ thứ
bảy.
Ly-bà-đa hỏi:
- Quen nếp sống trước,
tịnh hay không?
Thượng tọa
Nhất-thế-khứ hỏi lại:
- Quen theo nếp sống
trước là thế nào?
Ly-bà-đa nói:
- Quen theo việc làm
khi còn là bạch y.
Thượng tọa
Nhất-thế-khứ nói:
- Hoặc có thói quen có
thể chấp nhận, hoặc có thói quen không thể chấp nhận.
Ly-bà-đa nói:
- Ðây là pháp... (cho
đến) chẳng phải lời Phật dạy.
Ra lệnh rút thẻ thứ
tám.
Ly-bà-đa hỏi:
- Cầu thính, tịnh hay
không?
Thượng tọa
Nhất-thế-khứ hỏi lại:
- Cầu thính là thế
nào?
Ly-bà-đa nói:
- Tác pháp Yết-ma
riêng, sự việc đã rồi mới cầu người khác cho phép.
- Không tịnh. -
Nhất-thế-khứ đáp.
- Ðiều này cấm ở đâu?
- Ly-bà-đa hỏi.
- Tại nước Thiểm-bà. -
Nhất-thế-khứ đáp.
- Vì ai cấm? -
Ly-bà-đa hỏi.
- Vì Lục quần Tỳ-kheo.
- Nhất-thế-khứ đáp.
- Phạm việc gì? -
Ly-bà-đa hỏi.
- Tùy theo việc
Yết-ma. - Nhất-thế-khứ đáp.
Ly-bà-đa nói:
- Ðây là pháp... (cho
đến) chẳng phải lời Phật dạy.
Ra lệnh rút thẻ thứ
chín.
Ly-bà-đa hỏi:
- Nhận cất giữ vàng,
bạc, tiền, tịnh hay không?
- Không tịnh. -
Nhất-thế-khứ đáp.
- Cấm điều này ở đâu?
- Ly-bà-đa hỏi.
- Tại thành Vương-xá.
- Nhất-thế-khứ đáp.
- Nhân ai phạm mà chế?
Ly-bà-đa hỏi.
- Vì Nan-đà,
Bạt-nan-đà. - Nhất-thế-khứ đáp.
- Phạm việc gì? -
Ly-bà-đa hỏi.
- Phạm nhận cất giữ
vàng, bạc và tiền, Ni -tát-kỳ-ba-dật-đề.
Ly-bà-đa nói:
- Ðây là pháp... (cho
đến) chẳng phải lời Phật dạy.
Ra lệnh rút thẻ thứ
mười.
Hỏi đáp mười vấn đề
xong, tám vị Thượng tọa cùng nhau trở lại tập hợp Tăng. Ly-bà-đa đối diện
trước đại chúng hỏi lại từng vấn đề một như đã hỏi Thượng tọa Nhất-thế-khứ,
lần lượt rút thẻ thứ nhất đến thẻ thứ mười. Ðể kết thúc vấn đề, Ly-bà-đa đọc
tuyên ngôn:
- Chúng ta đã luận bàn
Tỳ-ni xong, bởi thế những gì Phật không chế cấm, không được vọng chế. Những
gì đức Phật đã chế cấm thì không được trái phạm. Như lời đức Phật dạy, phải
kính cẩn học tập.
Lúc bấy giờ, chúng Tỳ-kheo luận pháp Tỳ-ni bao gồm:
- Ðệ nhất Thượng tọa
là Nhất-thế-khứ, 136 hạ lạp.
- Ðệ nhị Thượng tọa là
Ly-bà-đa, 120 hạ lạp.
- Ðệ tam Thượng tọa là
Tam-phù-đa, 110 hạ lạp.
- Ðệ tứ Thượng tọa là
Da-xá, 110 hạ lạp.
Con số A-la-hán tham
dự tròn 700 vị, nên gọi là Thất bách kiết tập Pháp tạng.