NHỮNG
TRUYỆN DUYÊN KHỞI
TRONG LUẬT
NGŨ
PHẦN
Lược thuật: Phước
Thắng
Hiệu đính:
Thích Đỗng Minh
Chú thích: Tâm Nhãn
--- o0o ---
MẮC LỪA LÀ PHẢI
Thời Phật, người thành Xá-vệ coi việc đổi chác mọi thứ như một hình thức kinh
doanh. Có lẽ trong Tăng, Bạt-nan-đà cũng rất rành việc này. Bao giờ lợi lộc cũng
thuộc về Bạt-nan-đà trong việc đổi chác đó.
Ngày ấy, có một ngoại đạo nhận được một xấp vải đem đến nhà người bạn nói:
-
May thành y cho tôi.
Người bạn ngoại đạo nói thế này:
-
Nhà tôi nhiều việc, không thể may được. Sa-môn Thích tử nhàn công rỗi việc, lại
nhận được nhiều y bố thí, có thể đến đó nhờ may, hay có thể trao đổi y cho họ,
song ông phải cẩn thận, Sa-môn rất dẻo mồm, nổi tiếng là một nhà buôn, không
khéo là bị mắc lừa ấy.
Theo lời hướng dẫn, ngoại đạo mang đến nơi Tăng đang cư ngụ, dò hỏi:
-
Ai có thể nhận may y cho tôi không?
Các
Tỳ-kheo nói không thể may được. Ðương sự lại hỏi ngay Bạt-nan-đà:
-
Tôi nghe Ðại đức có nhiều y đã may xong, có thể đổi cho tôi một chiếc được
không?
Bạt-nan-đà vốn không ưa gì ngoại đạo, nói:
-
Các ngoại đạo của ông, tâm không dứt khoát, thay đổi xoành xoạch, đổi được rồi
lại nói tốt, xấu lôi thôi. Nếu sau khi thỏa thuận đổi rồi, không được ì xèo thì
tôi đổi cho.
Ngoại đạo nói:
-
Người ta thì có thể đổi ý, còn tôi thì khác, chẳng phải nói tới, nói lui làm gì
cho phiền!
Như
đắc ý vì ngoại đạo rơi đúng vào bẫy của Bạt-nan-đà. Bạt-nan-đà lấy ngay chiếc y
cũ được làm mới bằng cách nhuộm lại trong nước nhớt kiếp-bối,
rồi nghè nén thật láng sát mặt, trông như y mới may. Ngoại đạo nhìn thấy ưng ý,
chịu đổi vải lấy y. Ðem về trong chúng ngoại đạo, liền được đồng bạn hỏi:
-
Ðã may thành y chưa? Sao nhanh thế ông bạn?
Ðương sự trả lời:
-
Ðã đổi được y rồi.
-
Ðâu, đưa chúng tôi xem với?. - Ðồng bạn hỏi.
Ðương sự liền đưa mọi người xem. Những người ngoại đạo xem qua đều lên giọng
trách:
-
Ối cha! Ðem tấm vải quý giá mà đổi lấy cái y xấu tệ thế này, khờ sao là khờ! So
ra chênh lệch 5, 6 lần giá trị, đừng để bị thiệt, đổi lấy vải thôi. Chúng tôi sẽ
cùng nhau bỏ công may cho bạn.
Thế
là người ngoại đạo kia liền mang y trả lại, nói với Bạt-nan-đà:
-
Ông là con nhà Thích tử, tại sao lừa dối tôi, đem cái thứ y xấu tệ thế này đánh
tráo cho người ta? Ðổi lại cho tôi ngay! Nếu không, tôi rao truyền tiếng xấu của
ông đó.
Bạt-nan-đà cười, nói:
-
Tôi biết tâm ngoại đạo không dứt khoát! Hay nói tới, nói lui, tôi đã không muốn
đổi kia mà! Vì ông đã một lời dứt khoát, cho nên tôi mới theo ý ông mà đổi. Tại
sao bây giờ lại nuốt lời như vậy?! Ông về đi, tôi không đổi lại đâu!
Ngoại đạo liền la lớn, rêu rao báng bổ Bạt-nan-đà. Các Cư sĩ nghe, hỏi:
- Tại sao
thế?
Ngoại đạo đem sự thể đã xảy ra phân bua cùng mọi người để chứng tỏ sự mạt sát
của mình là đúng.
Nghe chuyện, các Cư sĩ đều cơ hiềm, chỉ trích thẳng thừng rằng:
-
Người đời mua bán qua sáu bảy ngày còn đổi được. Tại sao Sa-môn mới trong chốc
lát lại không cho người ta đổi lại là sao? Hình thức ăn mặc có khác với người
đời, song mua bán thì quá hơn người! Thật khốn nỗi!
Tiếng xấu ấy lan ra khắp nơi... Lại một lần nữa, Bạt-nan-đà nhận tội và đức Phật
chế giới cấm các Tỳ-kheo không được kinh doanh mậu dịch dưới mọi hình thức.
Giới điều này được Phật nói ra tại thành Xá-vệ.
KẺ ĂN, NGƯỜI CHỊU
Thời Phật, tại thành Vương-xá lưu thông các loại tiền bằng vàng, bằng bạc, bằng
tạp vật. Bấy giờ Nan-đà, Bạt-nan-đà đem các loại tiền mua bán các vật dụng để
thu lấy các loại tiền vàng, bạc này...Thành Vương-xá lúc ấy cũng là nơi bọn cướp
dung thân. Họ thường hay lân la, dò tìm, rình rập các nhà giàu. Việc làm của
Nan-đà, Bạt-nan-đà không qua được mắt họ. Bọn cướp đi đến kết luận: “Quan sát kỹ
nơi ấp lý này thì không ai giàu hơn Sa-môn Thích tử. Nhưng ở đây cướp được họ
không dễ gì! Chi bằng đến nơi A-lan-nhã cướp của cải Thích tử, chắc dễ thôi!”
Bọn
cướp đến A-lan-nhã vào hôm sau. Họ rình rập rồi khủng bố, bắt các Tỳ-kheo nơi
đây tra khảo để mong lấy được vàng bạc và các loại tiền.
Các
Tỳ-kheo nói:
-
Chúng tôi đã xa lìa vàng bạc và tiền, không thu giữ cất chứa các thứ bất tịnh
ấy.
Bọn
cướp nói:
-
Các ông nói láo. Chính tôi thấy Tỳ-kheo dùng nó để mua bán. Họ tra khảo Tỳ-kheo
một trận nên thân rồi lấy hết y, bát bỏ đi.
Sau
đó, các Tỳ-kheo A-lan-nhã chuyển lời quở trách Nan-đà và Bạt-nan-đà như vầy:
-
Tại sao hai thầy cất chứa bảo vật làm chi, để đến nỗi gây tai họa cho chúng tôi!
Sự
việc này dẫn đến Phật chế cấm: “Tỳ-kheo không được dùng vàng bạc và các loại
tiền để trao đổi mua bán”. Sau đó, có vấn đề xảy ra gián tiếp là nhờ người khác,
kể cả mống tâm cất giữ tiền, vàng cũng được Phật chế cấm bổ sung.
ÐÂU PHẢI TAY VỪA
Tỳ-kheo Sa-lan là một Pháp sư tầm cở, thông minh, biện tài.
Người trong bốn chúng, kẻ ngoại đạo không ai có thể sánh nổi. Khẩu nghiệp của thầy rất linh hoạt, có thể biến điều
trái thành điều phải và ngược lại, biết thì nói chẳng biết và ngược lại, nhất là
để hơn người. Thầy không ngại xảo ngôn để thắng, dù vấn đề có thật hay không
thật. Các Tỳ-kheo không ai là không thán phục và trong chỗ đạo tình, các thầy
hỏi:
- Thầy cùng người biện luận lấy cái sai làm cái trúng, như
vậy trong thâm tâm thầy có cho đó là đúng hay sai?
Pháp sư Sa-lan nói:
- Thật ra tôi biết điều đó là bậy, nhưng vì sĩ diện, sợ rơi
vào chỗ thua nên phải khéo nói dối thôi.
Trước sự thật như thế, như để
khuyên bảo, các Trưởng lão nhắc lại lời Phật dạy:
- Ðức Phật thường khen ngợi
người không nói dối, chỉ bảo người không nói dối. Nay thầy lại nói dối vì muốn
hơn người là điều không nên, là điều sai trái, không thể chấp nhận.
Sự việc này sau đó được đưa ra
trước Tăng, đức Phật quở trách Sa-lan và Ngài kiết giới cấm không được cố ý nói
dối. Ðức Phật nói giới này taiï thành Xá-vệ.
LỜI ÁC ÐAU
LÒNG NGƯỜI
Lúc bấy giờ, đức Phật đang lưu
trú tại thành Xá-vệ. Các Tỳ-kheo sống dưới sự chỉ dẫn trực tiếp của Hòa thượng2,
A-xà-lê3hay
bậc tương đồng với Hòa thượng, A-xà-lê, nên siêng năng học hỏi, tiếp thu không
biết mệt mỏi, sớm khuya tu tập. Nhìn thấy sự tiến bộ này, Lục quần Tỳ-kheo sốt
ruột, nhận định vấn đề: “Nay các Tỳ-kheo sống trong ý thức tiến bộ này, chắc
chắn không bao lâu họ sẽ hơn ta. Từ đó, họ thấy rõ tội lỗi của ta, tỳ vết của ta
không sao che lấp trước sở học của họ. Chúng ta phải cùng nhau làm cản trở việc
này để họ phế bỏ việc học tập kia”. Thế là Lục quần trực tiếp quậy phá. Lục quần
chia nhau xúc não các Tỳ-kheo rằng: “Thầy là hạng hà tiện, thuộc giai cấp tiểu
nhơn, hạng thợ thuyền. Các thầy từng làm những việc đại gian ác, không nhân từ,
không có hạnh lành”. Các yếu điểm như bị đánh trúng, các Tỳ-kheo kia đâm ra
thoái chí, ưu não, sống trong mặc cảm, phế bỏ việc học hành. Nhìn thấy việc làm
của mình có kết quả, Lục quần dương dương tự đắc với mọi người rằng: “Chính
chúng tôi đã phá hoại được việc đọc tụng, tọa thiền, hành đạo của họ”.
Trước sự việc này, các Trưởng
lão hết sức nghiêm khắc phê phán Lục quần. Sau đó các vị trình lên đức Phật.
Trước Phật và Tăng, Lục quần thú nhận việc làm của mình. Ðức Phật quở trách họ
và nhân đó, Ngài kể một câu chuyện để giáo hóa Tăng:
Xưa kia có một thành, tên gọi là
Ðắc-xoa-thi-ca4.
Bấy giờ, trong thành ấy có một người Bà-la-môn nuôi một con bò đực, sức khỏe của
nó thật tốt, đi rất nhanh. Lại có một Cư sĩ cũng nuôi một con bò, thể trạng của
nó giống như bò kia. Hai nhà đem bò đấu sức nhau. Họ thỏa thuận, con nào thua
phải chung 50 tiền vàng. Người Bà-la-môn được 50 tiền vàng vì bò họ thắng. Ðể
rửa nhục, người Cư sĩ tìm mua con bò khác, dáng vóc sức khỏe hơn hẳn bò trước.
Lại đem đấu với bò của Bà-la-môn, tiền cược bây giờ đặt gấp bội. Trước khi thỏa
thuận, Bà-la-môn hỏi con bò của mình rằng:
- Mi có thể
địch nổi với con bò của Cư sĩ kia có sức gấp bội mi không?
- Có thể. Con bò trả lời.
Khi bò của hai nhà vào cuộc đấu,
Bà-la-môn ngu, sợ bò mình thua liền đem lời động viên phản tâm lý rằng:
- Sừng của mi cong cong sao khổ
sở thế?! Cổ của mi sao mà yếu đuối! Thắng sao nổi, vứt đi thôi! Giờ thì dáng kéo
mất cả oai phong rồi!
Con bò nghe lời chủ phê phán như thế, sức lực liền suy sụp,
dẫn đến thua con bò của cư sĩ. Ngậm đắng trao 100 tiền vàng cho Cư sĩ rồi, gã
gằn hỏi bò:
- Bảo có thể, giờ thì thua, vì sao vậy?
Con bò đáp:
- Thật sự tôi đủ khả năng thắng, nhưng cái kiểu động viên
nhục mạ của ông làm tôi mất hết khí thế, nên nhanh chóng kiệt sức, kéo hết nổi.
Bây giờ thì có thể thách đấu lại, tiền cược gấp đôi vừa rồi. Khi tôi dốc toàn
sức kéo trăm xe ngược lên triền núi cao thì ông khéo lời khuyến vỗ tôi, như khen
cặp sừng tôi cong vút phi thường, dáng kéo của tôi ngoạn mục, thể hình tôi lẫm
liệt oai phong, dư sức kéo trăm xe vượt dốc núi như chơi, và điều này sẽ làm cho
ông thắng cuộc. Và quả thật, người Bà-la-môn sau cùng đã thắng cuộc, bởi khéo
dùng lời động viên đầy khích lệ kia. Nhân việc này, đức Phật liền nói kệ:
Lời thiện vừa lòng nhau
Lời ác đau lòng người
Súc sanh nghe lời khéo
Vui kéo nặng lên đồi
Vô địch sức này thắng
Thắng cuộc rạng lòng vui
Huống chi đối với người
Khen chê quyết thành bại
Này các Tỳ-kheo! Loài súc sanh kia nghe lời hủy báng còn mất sức kéo, huống là
đối với người. Nay Ta chế giới: nghiêm cấm sự báng bổ nhau.
ÐÂM BỊ THÓC, THỌC BỊ GẠO
Lúc bấy giờ, đức Phật vẫn còn lưu trú nơi thành Xá-vệ. Cũng với tâm địa ích kỷ,
Lục quần cứ lo sợ số đông Tỳ-kheo siêng năng tu học kia, ngày gần đây sẽ hơn
mình về nhiều mặt, cho nên tìm cách gây trở ngại. Lục quần tìm cách đâm thọc, ly
gián. Họ đến Tỳ-kheo này nhỏ to rằng:
- Thầy với tôi là chỗ quen biết thân tình, cho nên tôi cảm thấy xấu hỗ khi
Tỳ-kheo kia bảo thầy là hạng hạ tiện, con nhà thợ thuyền, thấp hèn nhỏ mọn, từng
làm việc gian ác, không nhân từ, không có bản chất tốt. Ðánh giá thầy như vậy,
chẳng khác nào họ đánh giá tôi...
Sau đó, Lục quần đến kết thân với Tỳ-kheo ấy cũng kích đọâng những lời như vậy.
Hai bên nghe như thế, đâm ra hoang mang, giao động, xao nhãng ngay việc học
hành, tu tập. Các Tỳ-kheo này bắt đầu giận nhau, không buồn đếm xỉa ngó mặt
nhau... Nhìn thấy cảnh lạnh lùng đột biến này, Tỳ-kheo này hỏi Tỳ-kheo kia:
- Tại sao thầy xa lánh, không thích nói chuyện với tôi?
Tỳ-kheo kia trả lời rằng:
- Có người cho biết, thầy bảo tôi là người xấu đủ điều.
Vị này gằn hỏi lại:
- Ai nói vậy?
- Lục quần bảo thế. - Tỳ-kheo kia đáp lời. Vị kia liền bảo:
- Lục quần Tỳ-kheo cũng nói rằng các thầy nói tôi xấu chẳng ra chi!
Các Trưởng lão nắm được sự việc này, liền khiển trách Lục quần Tỳ-kheo. Sau đó,
vấn đề được bạch lên Phật. Trước Phật và Tăng, Lục quần thú nhận sự thật ly gián
của mình. Ðức Phật quở trách:
- Các ông là người ngu si, tại sao cùng sống trong một giáo pháp mà lại đâm thọc
để gây chia rẽ, ly gián nhau?
Nhân đó, để giáo hóa kẻ ngu, Ngài dẫn chuyện xưa, Ngài nói:
- Thuở đời quá khứ có một sư tử tên là Thiện Nha và một con cọp tên là Thiện
Trảo, cùng nhau kết bạn thân tình... Có một con chồn rừng thường đi theo đôi bạn
kia để ăn đồ thừa, nhưng chẳng bao giờ sư tử và cọp nói chuyện với nó. Một thời
gian sau, chồn có nhận xét: “Hai con thú này rất ái trọng nhau, ta phải tìm cách
gây rối để thừa hưởng thức ăn dư của hai bên được nhiều hơn”. Chồn thực hiện kế
hoạch bằng cách lân la đến cọp, nói kệ rằng:
Thiện Trảo, ông hùng mạnh
Sắc tướng lại oai phong
Thiện Nha nói ông xấu
Tôi nghe chẳng vui lòng.
Sau đó, chồn cũng đến bên sư tử nhỏ to vần kệ:
Thiện Nha, ông hùng dũng
Sắc tướng lại oai phong
Thiện Trảo nói ông xấu
Tôi nghe không vui lòng.
Hai con thú sau khi nghe lời chồn, đâm ra lạnh lùng với nhau, nhưng Thiện Nha
thông minh hơn, nhìn thấy vấn đề, nên có suy nghĩ: “Thiện Trảo không chắc đã nói
như vậy. Biết đâu chồn rừng muốn gây đấu loạn nội tình để thủ lợi?”. Thiện Nha
thử khai thác tìm hiểu. Ngày ấy, Thiện Nha bắt được con trâu nghé, mang đến cho
Thiện Trảo. Thiện Trảo im lặng không nhận ăn. Hiểu được vấn đề, Thiện Nha nói
trắng âm mưu ly gián của chồn để Thiện Trảo hiểu được sự thâm độc kia, nhằm bảo
tồn tình thân ái, bằng lời kệ như sau:
Mồi ngon tôi đem biếu
Cớù sao bạn không dùng?!
Tình thân không hề lỗi
Sao xoay mặt buồn ngơ?!
Lời chồn, kẻ vô tín
Cốt ly gián tình ta
Tin theo, ôm tình hận
Rồi ra thành oán cừu
Việc này chẳng ai khác
Chính chồn rừng gièm pha
Kẻ hèn mọn rối ta
Nay phải tìm giết vậy.
Ðức Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Súc sanh còn coi việc gây rối, ly gián là tội ác, huống chi con người, sao lại
làm việc này?! Từ nay, Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới cấm không được nói lời gây
rối, đâm thọc.
KHÔNG NÓI
PHÁP QUÁ NĂM, SÁU LỜI
Lúc bấy giờ, đức Phật lưu trú nơi thành Xá-vệ. Trong thành có rất nhiều nhà cư
sĩ, nhưng Tỳ-kheo Bạt-nan-đà lại thường hay lui tới chỉ một nhà Cư sĩ nọ để nói
pháp, lo liệu việc quan, cứu chữa ốm đau, bệnh tật, khổ não...Tuy nhiên, gia
đình này gặp buổi suy tàn, nên một thời gian sau dẫn đến kiệt quệ, ly tán. Trong
nhà chỉ còn lại một mẹ chồng và một nàng dâu. Vì tình thân hậu, nên Bạt-nan-đà
nói pháp cho mẹ chồng nghe, nhưng khi con dâu đến thì Bạt-nan-đà lại dừng. Và
mỗi khi nói pháp cho con dâu nghe, mẹ chồng đến, Tỳ-kheo cũng thôi không nói
nữa. Ðiều này dẫn đến nghi kỵ nhau, mẹ chồng nghĩ con dâu có tình ý, thông đồng
bất tịnh với Bạt-nan-đà, và ngược lại cũng thế. Mẹ chồng, nàng dâu trở nên gay
gắt, rêu rao nói xấu sự nghi ngờ ấy khắp nơi. Những người không có lòng tin kính
Phật pháp, cơ hiềm nói: “Sa-môn Thích tử làm hạnh phi pháp, còn hơn cả hạng
người dâm đãng ở thế gian. Họ không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn”.
Khi sự việc này được các Trưởng lão trình lên đức Phật, Bạt-nan-đà bị khiển
trách và đức Phật chế cấm trường hợp nói pháp này.
Sau đó, giới này được bổ sung bởi nhân duyên sau: Lúc bấy giờ, có một Tỳ-kheo
oai đức vào thành khất thực, đến nhà một gia đình nọ. Người nữ chủ nhân trải tòa
mời Tỳ-kheo ngồi. Bà thiết cúng một bữa cơm đầy đủ. Sau bữa cơm, bà ta lấy chiếc
ghế gỗ nhỏ ngồi trước Tỳ-kheo, thưa:
- Xin Ðại đức vì con nói pháp.
Sau khi quan sát, Tỳ-kheo biết người nữ này không còn bao lâu nữa sẽ trúng gió
chết, và đọa vào địa ngục. Nếu được nghe pháp thì bà ta có thể từ chỗ ngồi xa
trần lìa cấu. Biết thế, nhưng nghiệt nỗi, Phật đã chế cấm: “Trước đối tượng là
người nữ, không được thuyết pháp”, cho nên Tỳ-kheo đành nói lời an ủy, từ chối
rồi ra về... Ðúng như điều Tỳ-kheo suy nghĩ, nữ gia chủ ấy không lâu sau đó
trúng phong chết. Trước các Tỳ-kheo, rồi tiếp đến là Phật, vị Tỳ-kheo oai đức
kia trình bày cảnh thương tâm ấy đã không được cứu độ. Ðức Phật hỏi:
- Nếu vì phụ nữ đó thuyết pháp, thì ông cần nói bao nhiêu lời để họ hiểu được
vấn đề?
- Chừng năm, sáu lời5
là họ hiểu được. Bạch Thế tôn!
Do nhân duyên này, đức Phật chế giới bổ sung, tức cho phép nói pháp năm, sáu
lời. Tuy nhiên, vấn đề vẫn chưa rốt ráo, chẳng hạn như nói đủ năm, sáu lời mà
người nữ chưa hiểu thì sao? Hay trong số đông nữ có người nam, thì có cho phép
Tỳ-kheo thuyết quá năm, sáu lời không? Giới điều được Phật nói bổ sung, sau cùng
cho thấy sự chặt chẽ của nó: “Tỳ-kheo nào vì người nữ nói pháp quá năm, sáu lời,
trừ có người nam biết phân biệt được lời nói thiện ác, phạm Ba-dật-đề
6”.
Cũng từ trong phần duyên khởi của giới này, đức Phật cho phép: “Từ nay cho phép
người nữ thọ Tam qui, Ngũ giới, Tám phần giới, vì họ thuyết Mười điều thiện,
Mười điều bất thiện”.
CHƠI NHAU
ÐÚNG PHÁP
Lúc bấy giờ, đức Phật đang lưu ngụ tại thành Xá-vệ. Một dạo, Lục quần Tỳ-kheo có
được thế thượng phong, còn các thiện Tỳ-kheo thiếu đi thế mạnh này. Do vậy, Lục
quần Tỳ-kheo thường cản ngăn năm loại Yết-ma: Yết-ma ha trách7,
Yết-ma khu xuất8,
Yết-ma y chỉ
9, Yết-ma cử tội10,
Yết-ma hạ ý11.
Tỳ-kheo nào bị năm Yết-ma này, Tăng muốn giải cũng bị Lục quần ngăn chận không
cho. Sau đó, Lục quần Tỳ-kheo mất thế mạnh, các thiện Tỳ-kheo lại có thế thượng
phong. Chúng Tăng có việc, cần Yết-ma, nhân lúc Lục quần Tỳ-kheo đang may y, các
Tỳ-kheo nói:
- Phải gọi Lục quần Tỳ-kheo đến để cùng Tăng làm Tăng sự. Nếu các vị bận may y,
không đến được thì Chúc thọ12.
Ðiều này cho phép chúng ta được như pháp mà giải quyết việc.
Khi Tăng tập, có người đến mời, Lục quần Tỳ-kheo bận việc may vá nên sai một
người đến trước Ðại chúng chúc thọ. Hội đủ sự hợp pháp, Tăng cần thực hiện 5 thứ
Yết-ma, thì liền cùng nhau tác bạch 5 thứ Yết-ma. Tăng cần giải 5 thứ Yết-ma,
thì liền tác bạch giải 5 thứ Yết-ma...Yết-ma xong, vị Tỳ-kheo chúc thọ kia về
lại chỗ Lục quần Tỳ-kheo. Lục quần hỏi vị ấy:
- Tăng làm việc gì?
- Tăng làm việc Yết-ma, Yết-ma điều chúng ta không muốn Yết-ma, ngược lại điều
chúng ta muốn Yết-ma thì Tăng không làm Yết-ma. Nói khác hơn, Tăng cùng nhau Yết-ma giải quyết những việc Tăng, theo sự đề
xuất của Tăng.
Thua trí, tìm cách gỡ gạc, Lục quần đến các Tỳ-kheo bị Yết-ma phân bua:
- Các thầy đừng lo buồn, chúng tôi sẽ trợ lực cho các thầy. Vừa rồi, vì chúng
tôi không biết các thầy rơi vào trường hợp bị Yết-ma, nên mới chúc thọ. Nếu biết
thế, chúng tôi bỏ ngay việc mà đến, thì làm gì hội đủ duyên để Yết-ma thành
tựu?!.
Lục quần lại đến chỗ Tỳ-kheo được giải Yết-ma, nói:
- Tôi không chấp nhận cho thầy giải Yết-ma, không nhận sự sám hối của thầy.
Làm khơi dậy việc Tăng đã giải quyết nhằm gây mâu thuẩn, đấu tranh của Lục quần
Tỳ-kheo đã bị các Trưởng lão và đức Phật khiển trách một cách nghiêm khắc, và
Ngài chế giới cấm hành động thiếu xây dựng này.
CHÊ KHÔNG PHẢI CÁCH
Từ thành Xá-vệ, đức Phật cùng với 500 Tỳ-kheo đến ấp A-trà-tỳ (A-trà-bệ). Bấy
giờ, nơi ấp có một Cư sĩ nọ suy nghĩ: “Ðức Phật lâu lắm mới đến đây, chưa được
gặp thì Ngài lại sắp đi. Ta nên đến gần gũi các Tỳ-kheo để học tụng kinh kệ,
thưa hỏi những điều chưa hiểu, ngõ hầu, sau khi Thế tôn đi, ta có chỗ nương
tựa”. Cư sĩ liền đến nơi ngụ của Tỳ-kheo, thưa:
- Ðại đức dạy cho con đọc tụng kinh kệ.
- Ðức Phật chưa cho phép chúng tôi hướng dẫn người Cư sĩ tụng kinh. Các Tỳ-kheo
nói.
Việc này, sau đó các Tỳ-kheo bạch lên Phật và Ngài cho phép.
Sau khi biết cách đọc tụng, các Cư sĩ hòa âm thật rập ràng. Nhưng các Tỳ-kheo từ
nhiều nước ngồi lại cùng nhau đọc tụng, vì thổ ngữ không đồng, nên âm thanh chõi
nhau, không ăn rập, các Cư sĩ có phần tự phụ, chê trách rằng:
- Tại sao các Tỳ-kheo lúc nào cũng gần gũi, chung đụng nhau mà không phân biệt
được giọng nào là giọng nam, giọng nào là giọng nữ, giọng nào là của kẻ huỳnh
môn13,
của người hai căn14...
kể cả ngữ pháp tối thiểu cũng chẳng biết!
Các Tỳ-kheo nghe lời phê phán này rất lấy làm xấu hỗ. Vấn đề được bạch lên Phật
và trước Tăng, sự thật được xác nhận. Ðức Phật liền cho chuyển lời quở trách của
Ngài đến các Cư sĩ như sau: “Các ngươi là người ngu si, tại sao lại hiềm trách,
chê bai âm ngữ của Tỳ-kheo thuộc nhiều nước khác nhau, tụng kinh không ăn
rập?!”. Ðức Phật lại dạy các Tỳ-kheo: “Từ nay không được chỉ dạy người chưa thọ
Cụ túc cách đọc tụng”.
Không lâu sau đó, có Cư sĩ đến xin học cách tụng kinh, các Tỳ-kheo nói:
- Các người đã mỉa mai chê trách âm thanh đọc tụng của chúng tôi, đâu có cần đến
học, nay các người đến cầu xin, chỉ uổng công mà thôi!
- Thưa Ðại đức! Con không hủy báng Phật pháp, cũng không cầu phước điền nào
khác, lẽ nào vì cái lỗi của người kia mà không dạy cho con cách đọc tụng! - Cư
sĩ thưa.
Lại một việc khác: Có các Sa-di mong muốn đọc tụng kinh, nên xin được hướng dẫn.
Các Tỳ-kheo nói:
- Chờ thọ Cụ túc rồi mới dạy cho các ông.
- Chúng con xuất gia rồi, cần phải biết cách đọc tụng kinh kệ! Tại sao phải đợi
thọ Cụ túc xong mới dạy việc đọc tụng? - Các Sa-di thưa.
Sau đó, sự việc này được bạch lên Phật. Trước các Tỳ-kheo, đức Phật dạy:
- Nay cho phép dạy người chưa thọ giới Cụ túc đọc tụng kinh, nhưng không được
đồng tụng.
(Thầy đọc hết một câu, trò mới đọc lặp lại).
NGỦ Ở NHÀ XÍ LÀ YÊN CHUYỆN
Lúc bấy giờ, đức Phật lưu trú tại ấp A-trà-tỳ. Các Cư sĩ nghe Phật sắp đi nên
đến thăm, tạm nghỉ ở các phòng Tỳ-kheo. Nơi đây, các Cư sĩ cùng các Tỳ-kheo ngồi
thiền, hoặc cùng kinh hành, đầu đêm cuối đêm không ngủ. Có một Tỳ-kheo không
chuyên cần hệ niệm, nên ngủ say như chết, đạp
tuột chiếc y ra khỏi người, để lộ “cương hình”. Cư sĩ thấy, lấy y phủ lại. Ðến
ba lần như vậy, Cư sĩ bèn nổi giận, chê trách:
- Những người này thường nói dục tâm là điều đáng chê trách, nay để lộ “cương
hình” mãi, phải chăng họ không vui sống với đạo, sao không chịu hoàn tục cho
rồi?!
Tỳ-kheo kia nghe lời này, cảm thấy vừa xấu, vừa nhục. Các Tỳ-kheo Trưởng lão
cũng thấy tàm quí vô cùng. Sau đó, các vị đem vấn đề và cả đương sự lên trình
đức Phật. Trước Tăng, Tỳ-kheo đương sự thú nhận sự việc ấy là sự thật. Ngài quở
trách Tỳ-kheo rồi nói:
- Ta thường khen ngợi người ngủ không có tâm tán loạn, thì không có năm điều xấu
xảy ra. Nay ông ngủ, tại sao không nhiếp niệm? Tỳ-kheo, ở chỗ kinh hành, ngồi
thiền, đứng, ngồi, nằm... chẳng có oai nghi thì người nào trông thấy hẳn không
vui, không sanh lòng tin, hoặc đã có lòng tin thì lòng tin bị suy thoái. Như
vậy, chẳng phải là gương mẫu làm ánh sáng cho đời?
Ðức Phật lại dạy các Tỳ-kheo:
- Từ nay các thầy không cùng với người chưa thọ đại giới ngủ ở một chỗ.
Do bởi lý do này, sau đó các Cư sĩ đến chỗ Tỳ-kheo để cùng ngồi thiền, bị các
Tỳ-kheo mời ra, không cho vào phòng. Các Cư sĩ thưa:
- Chúng con không muốn thấy Ðại đức xua đuổi như thế! Chúng con không tìm cầu
phước điền nào khác, mà chỉ mong nương nhờ Ðại đức, không lẽ chỉ một người có
lỗi lại đuổi bao nhiêu người tốt còn lại?!
Do sự từ chối này, ngày ấy có một số Cư sĩ khỏe mạnh, tự đột nhập vào phòng
Tỳ-kheo. Không ngăn cản được, các Tỳ-kheo bèn ra ngoài trời ngủ, bị muổi mòng,
gió, mưa, bụi đất làm khổ não.
Bấy giờ, đức Phật từ ấp A-trà-tỳ đến nước Câu-xá-di, Ngài ngụ lại ở vườn
Cù-sư-la15.
Riêng La-hầu-la, một mình đến một căn phòng nơi Ba-kỳ-la, dọn dẹp, rưới nước,
lau quét sạch sẽ, trải tọa cụ, lấy nước để dùng, đâu đó tươm tất, La-hầu-la đóng
cửa lại rồi đến chỗ Phật. Căn phòng này, sau đó được Tỳ-kheo quản lý giao lại
cho một vị khác. Tỳ-kheo này nhận ở. La-hầu-la đầu đêm nghe pháp xong, trở về
lại căn phòng đã bỏ công dọn dẹp trước đó. Nghe tiếng động, Tỳ-kheo ấy hỏi:
- Ai đó?
La-hầu-la trả lời:
- Tôi là La-hầu-la.
- Ông đến đây có việc gì?
- Phòng này là của tôi.
- Tỳ-kheo quản lý đã giao cho tôi rồi. - Tỳ-kheo kia bảo thế.
- Phòng này trước đây tôi đã thu dọn làm vệ sinh,trải sẵn ngọa cụ... Tôi chỉ tạm
đến chỗ Phật nghe pháp, trước mắt nó là sở hữu của tôi, xin trả lại cho tôi!. -
La-hầu-la nói.
- Tuy ông đã dọn dẹp đâu vào đó, song tôi là Thượng tọa nên phòng này tôi được
ở. - Vị Tỳ-kheo ấy nói.
- Thưa, tôi có thể cùng ở tạm được không?. - La-hầu-la hỏi.
- Không được. - Vị ấy trả lời.
La-hầu-la xin ngồi, đứng trong phòng, hay ở tạm ngoài hành lang đều không chấp
nhận. Trong thế cùng này, La-hầu-la nảy ra ý nghĩ: “Ta đến phòng nào khác, rồi
cũng như vậy, chỉ còn cách là đến ngủ nơi nhà vệ sinh là yên chuyện”. Nhưng
chuyện không yên với sự chọn lựa đơn giản này của La-hầu-la. Trong nhà vệ sinh
có một con rắn mun đang sống trong ngõ ngách ở đây... Do thiên nhãn của Phật,
Ngài thấy được hành động của La-hầu-la, liền có suy nghĩ: “Nếu Ta không đến thì
chỉ trong chốc lát, La-hầu-la sẽ bị rắn cắn chết”. Ðức Phật liền đến nhà vệ
sinh, khảy móng tay, tằng hắng. La-hầu-la cũng khảy móng tay, tằng hắng.
- Ai đó?. - Ðức Phật hỏi.
- Thưa, con là La-hầu-la.
- Tại sao con ở nơi đây?. - Ngài hỏi.
La-hầu-la liền kể lại sự việc đã xảy ra để trả lời câu hỏi của Phật. Biết rõ sự
việc như vậy, đức Thế tôn dẫn La-hầu-la về phòng của Ngài... Sáng ngày, Ngài cho
tập Tăng và xác minh rõ sự việc. Thượng tọa kia thú nhận:
- Thưa Thế tôn, sự thật đúng như vậy.
Ðức Phật nghiêm khắc quở trách:
- Ông là người ngu si, làm sao con cáo rừng có thể xua đuổi nổi con sư tử. Sau
khi khiển trách, đức Phật kết hợp với chuyện Cư sĩ vào phòng, Tỳ-kheo ra ngoài
trời ngủ, Ngài kiết giới không cho phép Tỳ-kheo cùng với người chưa thọ đại giới
ngủ quá hai đêm16
trong phòng Tỳ-kheo.
KHOE KHOANG
Mùa An cư năm ấy, toàn thành Tỳ-xá-ly gặp phải nạn hạn hán mất mùa, đói kém xảy
ra. Các Tỳ-kheo, tùy theo
chỗ quen biết, phân tán mỏng để có thực phẩm tối thiểu dùng vào việc tu tập, an
cư. Riêng các Tỳ-kheo an cư ven sông Bà-cầu-mạt17
thì rất đầy đủ, sung túc nhờ thủ thuật khen nhau mình chứng quả này, quả
nọ...trước những người Phật tử ở đây. Nhưng sự thật này, sau mùa an cư lại phơi
bày bởi sự thú nhận của chính các Tỳ-kheo ấy trước Phật và Tăng. Ðức Phật hết
sức nghiêm khắc quở trách sự hư dối này, và dù có chứng quả đi nữa cũng không
nói ra sở đắc ấy trước người chưa thọ đại giới. Ðức Phật chế giới cấm này tại
thành Tỳ-xá-ly.
THÓI HỚT
HỎNG TỌC MẠCH
Lúc bấy giờ, có các Tỳ-kheo phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa18,
hoặc vì cố ý xuất bất tịnh, hoặc rờ rẫm người nữ, hoặc trước người nữ nói lời
thô tục, hoặc tự khen mình để chiếm cảm tình người nữ, mong họ hiến dâng thân
xác. Trong số các Tỳ-kheo phạm tội, có người đến Tăng xin Biệt trú19,
Tăng cho Biệt trú, hoặc thi hành Ma-na-đỏa20
hoặc hành Bổn nhật21,
hoặc có người xuất tội22.
Trong chúng, Lục quần Tỳ-kheo châm biếm các vị này, khiến các vị này càng thêm
tủi nhục, xấu hỗ...
Nhưng chưa hết, Lục quần không buông tha. Ngày ấy, có người Ðàn-việt mời Tăng
thọ trai. Người gia chủ này lại rất trọng một vị Tỳ-kheo phạm tội cố ý xuất bất
tịnh, đã bị Tăng cho Biệt trú, nên trải riêng cho vị này một tọa cụ tốt. Lục
quần đến sớm hơn, lại ngồi ngay lên tọa cụ ấy. Gia chủ liền thưa:
- Xin đừng ngồi lên tọa cụ này vì chỗ này tôi chỉ dành riêng cho một vị Tỳ-kheo
quen thân của tôi rồi.
Lục quần Tỳ-kheo liền bảo:
- Tỳ-kheo kia không nên ngồi vào chỗ ngồi này.
- Nên hay không nên tôi tự biết được điều đó. - Cư sĩ thưa.
- Vị kia, trước đây thì nên ngồi chỗ này, còn bây giờ thì lại phải ngồi vào chỗ
thấp nhất. - Lục quần Tỳ-kheo nói.
- Vì lý do gì vậy? - Cư sĩ lại hỏi.
- Tỳ-kheo ấy có tội. - Lục quần nói.
- Phạm tội gì? - Cư sĩ lại hỏi.
-Tội cố ý xuất bất tịnh. - Lục quần đáp.
Cư sĩ thất vọng cơ hiềm, mỉa mai:
- Các Sa-môn này thường ba hoa rằng: Trừ bỏ tư tưởng dục,chấm dứt lửa dục, cắt
đứt cảm giác dục, nay lại như thế này thì còn gì để nói. Họ làm ô uế đạo, không
có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn.
Lời cơ hiềm này không mấy chốc đến tai các Trưởng lão Tỳ-kheo, và các Ngài đã
quở trách thói xấu này của Lục quần. Sau đó, sự việc được bạch lên Phật. Lại một
lần nữa, trước Tăng, đức Phật nghiêm khắc khiển trách Lục quần và Ngài chế giới.
Giới này sau đó được hai lần bổ sung mới hoàn chỉnh như sau: “Tỳ-kheo nào biết
Tỳ-kheo khác phạm tội Thô ác (Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa) mà nói cho người
chưa thọ giới Cụ túc biết thì phạm Ba-dật-đề”.
PHIỀN CHI
PHẢI HỌC LUẬT
Lúc bấy giờ, đức Phật lưu trú tại thành Xá-vệ. Trước Tăng, Ngài rất khéo léo
khen ngợi Tỳ-ni, khen ngợi người tụng Tỳ-ni, khen ngợi người cẩn trọng gìn giữ
Tỳ-ni. Ngài khen ngợi Ưu-ba-ly trì luật nên có được 5 công đức:
1- Tự mình kiên cố hộ trì giới phẩm.
2- Có khả năng giải tỏa nghi ngờ của người biết tàm quí.
3- Tự mình có chỗ đứng tốt trong chánh pháp.
4- Khi cần nói giữa Tăng thì rất bản lĩnh.
5- Hàng phục được oán địch.
Qua sự khen ngợi này, các Tỳ-kheo lại có ý nghĩ: “Ðức Phật đã vì chúng ta mà dạy
như vậy, tại sao chúng ta không siêng năng đọc tụng, học hỏi Tỳ-ni?”. Bởi thế,
đêm ngày các Tỳ-kheo dốc sức tụng tập rất chuyên cần.
Thấy thế, Lục quần Tỳ-kheo sanh lòng đố kỵ, tự nghĩ: “Nay các Tỳ-kheo siêng năng
học hỏi, đọc tụng Tỳ-ni, chắc chắn họ hiểu rõ các tội tướng, thấy cái lỗi của
chúng ta, cuối cùng làm tổn hại ta. Nay ta hợp tác, tìm cách chê bai Tỳ-ni, chỉ
trích người học Tỳ-ni, khiến họ mất hết cảm hứng, xao nhãng việc học tập, nghiên
cứu này”. Lục quần bèn đến các Tỳ-kheo hỏi:
- Thầy đọc tụng thứ gì đó?
- Ðọc tụng Tỳ-ni. - Các thầy trả lời.
Lục quần phê phán:
- Phiền gì phải học tập, đọc tụng các giới linh tinh ấy? Sao không đọc tụng 5
ấm, 6 nhập v.v... và các nghĩa của kinh? Ðọc tụng Tỳ-ni thì bất quá cũng chỉ bốn
việc, mười ba sự, hai pháp bất định, chẳng cần phải biết nhiều làm gì! Biết
nhiều càng mang phải cái tội nghi ngờ kẻ khác mà thôi!
Như đánh đúng chỗ yếu, các Tỳ-kheo đồng ý: “Biết nhiều, nghi nhiều, chúng tôi
cũng thấy như vậy!”
Chất xúc tác này liền có hiệu lực, các Tỳ-kheo ấy chểnh mảng, thôi không tụng
tập nữa. Lục quần Tỳ-kheo tự mãn, bảo nhau:
- Chúng ta đã thắng lợi, sự an lạc sẽ đến với chúng ta, kết quả thật thỏa mãn...
Hành động này của Lục quần Tỳ-kheo được đưa ra trước Tăng phê phán, xử lý. Sau
đó, đức Phật chế giới cấm chỉ việc làm tiêu cực này.
CẤM CHẶT
PHÁ THẢO MỘC
Từ nước Câu-tát-la, đức Phật cùng 500 Tỳ-kheo đi về ấp A-trà-tỳ. Hay tin Phật
sắp đến, các Tỳ-kheo có suy nghĩ: “Trong ấp này, các Cư sĩ không có lòng tin
kính Phật pháp, lại không có giảng đường. Phật và Ðại chúng về đây sẽ ở nơi
đâu?”. Các vị liền họp lại để có quyết định chung, ấy là cùng chung sức tìm kiếm
các vật liệu, kể cả đốn cây, cắt cỏ để xây dựng một ngôi nhà lớn. Việc làm này
vấp phải sự chỉ trích của Cư sĩ rằng:
- Chúng ta là Cư sĩ, đốn phát cây cỏ còn không nỡ lòng, huống hồ người xuất gia,
lẽ nào làm như vậy? Bọn người này thường nói từ tâm, kham nhẫn, hộ niệm chúng
sanh, nay lại chặt phát cây cỏ, làm cái việc tổn thương, vô đạo. Họ đánh mất
hạnh Sa-môn, phá pháp Sa- môn.
Sau khi đến ấp, đức Phật vào nhà giảng đường mới cất, rồi ngồi vào tòa. Ngài hỏi
các Tỳ-kheo:
- Nhà này ai đứng ra xây dựng?
- Chúng con tự xây dựng. - Các Tỳ-kheo thưa.
- Ai chặt phát cây cỏ? - Ðức Phật lại hỏi.
- Chúng con tự chặt. - Các Tỳ-kheo thưa.
Ðức Phật liền nghiêm khắc quở trách:
- Các ông là người ngu si! Các ông không nên làm việc này, sanh mạng trong cây
cỏ thiết tưởng cũng giống như sanh mạng con người. Các ông làm việc này chẳng
khác nào gieo cái ác vào lòng người.
Ðức Phật nghiêm cấm Tỳ-kheo làm việc này. Ngài nói giới bổ sung như vầy:
“Tỳ-kheo nào, tự mình sát hại sự sống cây cỏ, hoặc sai bảo người đốn chặt, phạm
Ba-dật-đề”.
Việc lại xảy ra, vào dịp nọ, các Tỳ-kheo có ý định làm phòng xá mới. Ý định này
như hội đủ, vì có Cư sĩ đến xem xét chỗ xây cất, nói với Tỳ-kheo:
- Lành thay! Ðại đức, vật liệu làm phòng xá này con xin cúng hết. Các vị nên sớm
hoàn thành việc xây cất để chúng con được phước cúng vật dụng.
Các Tỳ-kheo nói:
- Ðức Phật không cho phép chúng tôi đích thân, hoặc nhờ người chặt cây cỏ, thì
làm sao hoàn thành sớm nỗi?!
Bởi thế, Tỳ-kheo rất thiếu thốn nhà ở, còn trong vườn, ngoài sân cỏ tốt lút
đầu... Không những thế, tăm xỉa răng lấy từ cây cỏ cũng bị ảnh hưởng, không có
dùng. Khi vấn đề bạch lên đức Phật, Ngài liền cho tập Tăng rồi bảo:
- Có 4 loại mầm sống: Mầm sống do gốc, mầm sống do nhánh, mầm sống do lóng, mầm
sống do hạt. Phàm các loại cây cỏ đều do bốn loại mầm sống này mà sinh trưởng.
Nếu Tỳ-kheo cần dùng loại cây cỏ nào thì nói với Tịnh nhơn như vầy: “Người biết
việc này cho”. Nếu Tịnh nhơn không hiểu ý nghĩa, nên lập lại: “Người xem cho
việc này”. Nếu cũng không hiểu thì lập lại: “Tôi cần việc này”. Nếu không hiểu
nữa thì nói: “Cho tôi việc này”. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào
tự mình chặt phá “quỉ thôn”23
hoặc sai khiến người, nói: “Chặt cái này” thì phạm Ba-dật-đề”.
CỨ MÃI
CHỌC TỨC
Lục quần Tỳ-kheo, gần như lúc nào cũng phạm tội, phá vỡ oai nghi, muốn sao thì
làm vậy. Khi lên giường, khi xuống giường không đúng pháp. Lúc nào ăn cũng được,
ăn biệt chúng. Vào xóm làng không đúng lúc, lại cũng không thưa báo với thiện
Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo thấy vậy khuyên bảo:
- Các thầy chớ nên liên tiếp phạm những tội như vậy. Nên thấy tội của mình để
đến các Thầy xin sám hối, đừng nên phụ lòng tín thí để rồi nhiều kiếp phải gánh
lấy cái khổ.
- Tôi phạm tội à?! Tội gì?. - Lục quần Tỳ-kheo hỏi.
Các thầy liền vạch các tội như vậy, như vậy... cho Lục quần Tỳ-kheo thấy. Lục
quần Tỳ-kheo không phủ nhận, mà cũng không công nhận, lại nói lãng sang chuyện
khác. Các Tỳ-kheo lại bảo:
- Tại sao thầy không trả lời thẳng vấn đề là phạm hay không phạm, mà lại tránh
né nói sang chuyện khác, không đúng trọng tâm điều chúng tôi muốn hỏi?!
- Tôi biết các thầy không hỏi việc đó, mà tôi tự nói ra, có sao đâu!. - Lục quần
Tỳ-kheo nói.
Các Tỳ-kheo bằng nhiều hình thức khác nhau quở trách Lục quần Tỳ-kheo, rồi đưa
các đương sự lên gặp Phật, trình bày đầy đủ sự việc đã xảy ra. Trước Phật và
Tăng, Lục quần Tỳ-kheo cúi đầu chịu tội. Vì 10 điều lợi ích, đức Phật chế giới
cấm hành động không tùy thuận này.
Tánh nào tật ấy, Lục quần Tỳ-kheo lại tái phạm các tội như trước. Các Tỳ-kheo
bảo sám hối, Lục quần Tỳ-kheo không thèm ư hữ, lặng thinh. Các Tỳ-kheo nói:
- Ðức Phật chế giới phải tùy thuận trả lời, trao đổi với nhau. Tại sao các thầy
lại cố tình im lặng?
Lục quần Tỳ-kheo nói:
- Ðức Phật cấm như thế nhưng nay tôi không nói thì có tội gì?
- Nói loanh quanh với không hé miệng có khác gì nào? - Các Tỳ-kheo nói.
Sự việc lại đưa ra giữa Tăng. Sau khi quở trách, đức Phật chế giới đầy đủ như
sau: “Tỳ-kheo nào cố ý không trả lời đúng câu hỏi, phạm Ba-dật-đề”. Giới này đức
Phật nói tại thành Xá-vệ.
TỪ VÀ ÐỊA
Lúc bấy giờ, đức Phật đang lưu trú tại thành Vương-xá. Tỳ-kheo Từ, Ðịa lại chỉ
trích Tỳ-kheo Ðà-bà quản lý công việc tùy theo cảm tính: thích, giận, si, sợ. Rõ
ràng, trong chúng Tăng đều cho lời này là lời vu khống của Từ và Ðịa. Sự thật
khi đưa ra trước đức Phật, Từ và Ðịa đã thú tội:
- Thật sự chúng con có nói lời vu cáo ấy.
Như vậy, trước mặt bị cấm vu khống, thì sau lưng mình vu cáo. Rồi Từ và Ðịa ở
chỗ không có ai, tự mình vu cáo rằng:
- Tỳ-kheo Ðà-bà, tùy tiện điều hành việc Chúng theo sở thích, giận hờn, si mê và
sợ hãi.
Lẽ đương nhiên Tỳ-kheo Từ và Ðịa bị các Trưởng lão - sau đó là đức Phật - quở
trách nặng nề. Giới này lại nói như vầy: “Tỳ-kheo nào vu cáo người được Tăng
sai, phạm Ba-dật-đề”.
Ý THỨC
TRÁCH NHIỆM
Bấy
giờ đức Phật lưu trú tại Tỳ-xá-ly. Nơi đây, có một trú xứ nằm ở chỗ ẩm thấp. Khi
nhận phòng ở, Tỳ-kheo đem ngọa cụ ra ngoài chỗ đất trống phơi cho bớt ẩm. Ðến
giờ, Tỳ-kheo đắp y bưng bát vào thành khất thực. Không lâu sau khi ra đi, trời
đổ ập mưa, nước ngập thoát nhanh, ngọa cụ phơi bị trôi mất. Sau mưa, Tỳ-kheo trở
về đi tìm ngọa cụ thì cũng tìm thấy các vật dụng khác như giường, mền, ghế, câu
nhiếp24...
trôi tấp đó đây. Ðể xảy ra sự việc này là do Tỳ-kheo thiếu đề phòng, không cẩn
trọng thu xếp trước khi ra đi, nên các Trưởng lão Tỳ-kheo quở trách Tỳ-kheo kia
rằng:
-
Thầy làm điều phi pháp! Khó khăn lắm Tăng mới có được ngọa cụ. Ðem ra phơi, tại
sao không đem vô? Ðến giờ đi cũng không thu dọn, đến nỗi nước mưa cuốn trôi đi
cả! Vật dụng, tư cụ mất thì phòng lại trống không!
Các
Trưởng lão đem sự việc này bạch lên Phật. Ðể có trách nhiệm gìn giữ vật dụng của
Tăng, đức Phật chế giới: “Tỳ-kheo đích thân đem phơi ngọa cụ của Tăng mà không
thu cất trước khi đi, pham Ba-dật-đề”.
Nhìn thấy kẽ hở của điều cấm, Lục quần Tỳ-kheo sai bảo Sa-di hay người giữ vườn
đem phơi ngọa cụ nơi đất trống, rồi bỏ mặc cho mưa, gió, chim, chuột cắn phá...
làm hư hoại. Khi bị quở trách, Lục quần Tỳ-kheo trả lời rằng:
- Tôi sai người khác trải phơi thì không trái lời Phật dạy.
- Ðích thân, và sai người khác trải thì khác nhau chỗ nào? - Các Tỳ-kheo vặn hỏi
lại.
CácTỳ-kheo đem sự việc bạch Phật, đức Phật dạy: “Tỳ-kheo nơi đất trống, tự mình
trải ngọa cụ của Tăng, hoặc sai người trải, hoặc người khác trải, mình ngồi nằm
lên đó, khi đi không tự thu dọn, không bảo người dọn, không dặn người dọn, phạm
Ba-dật-đề”. Ngoài ra, còn nhiều cách xử lý vấn đề này, được đức Phật chỉ bày cặn
kẽ, nhằm giáo hóa Tăng chúng giữ tròn mọi oai nghi của mình, trước những ân nặng
mà người xuất gia bao giờ cũng phải ghi nhớ.
THẬP THẤT
QUẦN VỚI LỤC QUẦN
Lúc bấy giờ, đức Phật lưu trú tại thành Xá-vệ. Thập thất quần Tỳ-kheo25
trở về trú xứ và nhận được phòng ốc để ở. Sau đó, Lục quần Tỳ-kheo đến, liền hỏi
Tỳ-kheo cựu trú:
- Theo thứ bậc, chúng tôi ở phòng nào?
- Các thầy thích ở phòng nào?
- Chúng tôi muốn ở phòng của Thập thất quần đang ở.
Tỳ-kheo cựu trú phân theo ý muốn Lục quần. Lục quần Tỳ-kheọ đến phòng ấy nói:
- Các thầy đi ra! Chúng tôi được phân ở phòng này.
Thập thất quần Tỳ-kheo liền đề nghị:
- Phòng này khá lớn, quý thầy có thể ở cùng với chúng tôi.
Lời đề nghị này khiến Lục quần phân vân, suy nghĩ: “Nhóm Tỳ-kheo này có tàm quí,
siêng học giới pháp, đầu đêm cuối đêm không ngủ, không nằm, chắc họ thấy rõ lỗi
của ta”. Không thể chấp nhận, nên Lục quần Tỳ-kheo bảo:
- Chúng tôi không thích ở chung, các thầy nên chuyển sang phòng khác.
Thập thất quần Tỳ-kheo thưa:
- Nếu không thích ở chung, thì quý Thượng tọa ở nhà trước, chúng con ở phòng
sau.
- Cũng không được. - Lục quần Tỳ-kheo nói.
Thập thất quần xin ở ngoài chái, ngoài sân, nơi chỗ trống, nhưng cũng không được
chấp thuận. Nhưng dù có chấp nhận hay không chấp nhận, Thập thất quần Tỳ-kheo
cũng không đi. Lục quần Tỳ-kheo dùng sức mạnh cưỡng bức, lôi họ ra khỏi phòng.
Thập thất quần kêu la, các Tỳ-kheo ùa ra hỏi:
- Việc gì mà phải ầm ĩ đến thế?!
- Lục quần Tỳ-kheo cưỡng bức kéo chúng con ra khỏi phòng! - Thập thất quần thưa.
Việc này trước hết bị các Tỳ-kheo Trưởng lão chê trách... Sau đó, trước Tăng,
đức Phật bằng nhiều lời lẽ khiển trách Lục quần Tỳ-kheo, và Ngài đã chế giới
nghiêm cấm hành động lôi kéo này. Về sau, xảy ra vài việc có liên hệ, nên giới
điều được Phật bổ sung hoàn chỉnh.
MỘT KIỂU
XÚC NÃO CƯỠNG BỨC
Lưu trú tại nước Câu-tát-la, đức Phật và đầy đủ số Tỳ-kheo Tăng một ngàn hai
trăm năm mươi vị. Với số đông như vậy, nhưng việc phân phối ngọa cụ vẫn đầy đủ,
hoặc ở trong phòng, hoặc dưới tàng cây, các Tỳ-kheo đều có chỗ trú ngụ. Lục quần
Tỳ-kheo đến giờ đắp y bưng bát vào thôn khất thực. Sau khi thọ thực, Lục quần
đến các trục đường ngã tư la cà với các Cư sĩ ngoại đạo, Sa-môn, Bà-la-môn để
bàn tán chuyện vua, chuyện đánh giặc, việc lợi hại, không việc nào của thế tục
lại không bàn. Các hạng người trên, đều cơ hiềm chỉ trích:
- Chúng Ta là người thế tục, vì gia đình,vợ con, miếng cơm manh áo, vì kế sanh
nhai ở đời nên bàn tán chuyện này, chuyện nọ. Còn Sa-môn Thích tử cũng la cà bàn
luận việc đời, thì họ đâu có khác gì với ta? Nếu có khác chăng là cái đầu tròn
áo vuông...
Cứ mãi mê hý luận như thế, đến chiều tối Lục quần Tỳ-kheo mới về đến trú xứ. Lục
quần lại tiếp tục chuyện trò với Sa-di, với người giữ vườn... cho đến khi gần đi
ngủ. Bấy giờ, Lục quần đến một phòng nọ, hỏi các Tỳ-kheo trong phòng:
- Các ông bao nhiêu tuổi?
- Tôi... tuổi. - Tỳ-kheo kia thưa.
- Như vậy là nhỏ tuổi, ông nên nhường phòng, đi ra. Thượng tọa là ở chỗ này. -
Lục quần nói.
Các Tỳ-kheo vặn hỏi:
- Trưởng lão đến khuya như thế, chắc là có mục đích phải không?
- Tôi đi theo sau Phật, đến muộn. - Lục quần nói.
Các Tỳ-kheo đáp lại:
- Tôi cũng đi theo Phật nên đến muộn. Nếu bây giờ, tôi đến xin phòng khác thì
làm phiền Tỳ-kheo ở đây, cũng như trước mắt Trưởng lão đang xúc não tôi.
Không trả lời, Tỳ-kheo Lục quần lấy ngọa cụ trải chen vào giữa chỗ các Tỳ-kheo
đang nằm, rồi nằm ngay lên đó. Ðầu đêm, cuối đêm cao tiếng tụng kinh, vấn nạn
nhau, nửa đêm ngủ ngáy rì rầm, gây trở ngại cho các Tỳ-kheo ngồi thiền, hành
đạo... Hành động này bị các Trưởng lão hết lời khiển trách Lục quần:
- Các thầy cố ý gây não các Tỳ-kheo mà chẳng đau thương cho Phật pháp sao?!
Vấn đề sau đó bạch lên Phật, Ngài lại quở trách và kiết giới cấm hành động này.
Và giới này, sau đó được bổ sung vì có sự việc xảy ra liên hệ.
THIẾU HỆ
NIỆM 26
Trong thành Xá-vệ, ở một trú xứ nọ có một nhà gác nhiều tầng, Tỳ-kheo được chia
nhau ở trên dưới. Có một tầng gác đặt cái giường chân nhọn27,
nên giường lỏng lẻo, dễ gãy hay sút chân, trên giường trải phu cụ. Tỳ-kheo ở
đây, vì luôn hệ niệm khi nằm ngồi, nên chẳng có gì xảy ra.
Dịp nọ, có một Tỳ-kheo khách là bậc Thượng tọa đến, nên vị kia nhường chỗ.
Tỳ-kheo này thân thể ồ ề, lại thiếu cẩn thận, ngồi thịch xuống giường, quả nhiên
giường bị gãy, chân sút ra, rơi xuống tầng dưới, trúng ngay đầu một Tỳ-kheo ở
đây. Vị này đau quá, kêu lớn lên, vị Tỳ-kheo khách vội xuống xin lỗi. Tỳ-kheo bị
thương liền quở trách:
- Trước đây, vị Tỳ-kheo ấy ở, tôi không hề nghe một tiếng động khi nằm ngồi, còn
bây giờ thầy mới đến lại gây ra cơ sự này! Thế Tôn dạy Tỳ-kheo luôn hệ niệm,
thầy quên mất điều đó rồi sao?
Tỳ-kheo khách này, sau đó lại nhận sự quở trách của các Trưởng lão rồi của Thế
tôn. Ngài chế giới nhằm làm cho oai nghi của Tỳ-kheo ngày một tốt đẹp hơn. Ngài
nói giới này tại thành Xá-vệ.
HẬU QUẢ
CỦA THAM
Lúc bấy giờ, đức Phật lưu ngụ tại nước Câu-xá-di. Như đã biết, Tỳ-kheo Xiển-đà
có tài lo việc cho người, nên trở thành ân nhân nhiều người. Sư muốn gì thì liền
được thân chủ cúng dường, hỗ trợ. Vào thời gian ấy, Xiển-đà muốn cất một nhà ở.
Sau khi chọn được địa điểm tốt, vật liệu được kẻ chịu ân giúp ngay, Xiển-đà trực
tiếp chỉ đạo việc xây cất. Cất xong, ngôi nhà chẳng giống ai, không tuân thủ
theo nguyên tắc xây dựng, móng thì quá yếu không chịu lực, trong lúc tường vách
vì ham hố xây đắp nên dày dục, cộng với bên trên mái lợp không biết bao nhiêu
lớp, cho nên lực rất lớn so với móng. Ngôi nhà không mấy chốc đỗ sập toàn bộ,
gây thiệt hại lớn cho người. Ruộng lúa của Bà-la-môn sát cạnh bị hư hại nặng nề.
Ông ta nổi giận quát tháo, xỉ vã:
- Bọn Sa-môn này muốn sống trọn đời, trọn kiếp, muốn truyền tử, lưu tôn hay sao
mà xây cất kiểu ấy, lợp một, hai lớp cũng đủ sống trọn đời rồi, chuyện gì phải
tham lam lợp nhiều lớp như vậy, móng nào chịu cho nổi, sụp đổ là đáng kiếp!.
Họ lại cay nghiệt nói:
- Bọn này tiêu phí của cải của kẻ khác, chứ đâu phải của cha mẹ họ, nên họ tha
hồ làm ác theo ý muốn của họ. Họ chẳng tiếc thương mồ hôi, nước mắt của kẻ khác.
Họ không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn...
Ðức Phật quở trách và kiết giới, quy định rõ việc xây cất này.
Cũng tại nước Câu-xá-di, cũng lại Tỳ-kheo Xiển-đà, ông ta lại xây dựng phòng ốc
lớn, sử dụng nước có trùng trộn hồ, tưới lên cỏ, cũng sai bảo người tưới trộn.
Cạnh ấy, Ưu-đà-di dùng nước có trùng để ăn uống, giặt giũ, tắm rửa. Các Cư sĩ
thấy việc làm này không mấy bằng lòng. Bữa nọ, Tỳ-kheo đem nước mời Cư sĩ uống,
Cư sĩ nói:
- Nước này có trùng.
- Chỉ uống nước, chứ đâu uống trùng. -Tỳ-kheo trả lời.
- Ðại đức! Uống nước là đã uống trùng! -Các Cư sĩ nói.
Tỳ-kheo không thèm trả lời. Các Cư sĩ cơ hiềm, chê trách rằng:
- Các Sa-môn này thường nói từ mẫn hộ niệm chúng sanh, nay lại sử dụng nước có
trùng để tưới trộn hồ, ăn uống, tắm rửa, không chút lòng thương xót. Họ không có
hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn.
Lời chỉ trích này đến tai các Trưởng lão, các vị quở trách rồi bạch lên Phật.
Trước Tăng, sự việc được xác nhận đúng sự thật. Ngài kiết giới ngăn chận việc
này.
GIÁO GIỚI
NI KHÔNG ÐƯỢC TĂNG SAI
Lúc bấy giờ, đức Phật lưu trú tại thành Xá-vệ. Có sự việc xảy ra như vầy: Các
Tỳ-kheo không nhận làm người giáo hóa Tỳ-kheo ni, không vì họ nói pháp, do đó ni
không có chỗ đắc chứng, lại mắng họ rằng:
- Do các ngươi nên giáo pháp của Phật giảm bớt 500 năm, khiến mọi người không
kính Sa-môn, khinh tiện Tỳ-kheo, không cúng dường...
Khi ấy, Tỳ-kheo ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng 500 Tỳ-kheo ni đến chỗ đức Phật. Trước
Thế Tôn, đầu mặt đảnh lễ sát chân Phật rồi đứng lui ra một bên. Ðức Phật hỏi Cù
Ðàm di:
- Các Tỳ-kheo Thượng tọa có hay thuyết pháp cho Tỳ-kheo ni, để được sở đắc
không?
- Bạch Thế Tôn, không có. Do không có Tỳ-kheo giáo giới, không được nghe pháp
nên Tỳ-kheo ni không sở đắc được điều gì! - Cù-đàm di thưa.
Bà cũng nhắc lại lời mắng mỏ của các Tỳ-kheo.
Ðức Phật vì các Tỳ-kheo ni nói pháp, chỉ bày sự lợi ích và điều hoan hỷ, rồi
khiến họ trở về trú xứ. Nhân việc này, đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, và sau khi
xác định rõ sự việc, Ngài dạy:
- Không nên mắng như vậy. Nếu vi phạm, phạm tội Ðột-kiết-la. Từ nay các Tỳ-kheo
nên giáo giới Tỳ-kheo ni, nên vì họ thuyết pháp.
Lời dạy này được các Tỳ-kheo thực hiện nghiêm túc, các Tỳ-kheo ni có được chỗ sở
đắc. Một thời gian sau, Lục quần Tỳ-kheo lại cũng đến trú xứ Tỳ-kheo ni, bảo:
- Các cô tập hợp lại, tôi sẽ giáo giới, nói pháp để tiếp thu học hỏi.
Các Tỳ-kheo ni được tập trung lại. Trước Tỳ-kheo ni, Lục quần Tỳ-kheo thuyết
những lời xấu, thô tục, dâm dục... Trong số Tỳ-kheo ni, những vị đắc các Thiền
giải thoát, Chánh thọ Tam-muội28,
thì đều không chấp nhận những lời lẽ như thế. Còn đối với Lục quần Tỳ-kheo ni
thì khen ngợi như vầy:
- Các Tỳ-kheo này khéo nói lời giáo giới, chẳng ai bằng!
Trước sự thể như thế, Tỳ-kheo ni Ba-xà-ba-đề lại cùng 500 Tỳ-kheo ni đến chỗ
Phật. Ðức Phật hỏi Cù Ðàm di:
- Các Tỳ-kheo có giáo giới, nói pháp cho Tỳ-kheo ni không?
Cù-đàm di thưa:
- Thoạt đầu, Tỳ-kheo thực hiện tốt lời dạy của Ngài, Tỳ-kheo ni có nhiều tiến
bộ, được nhiều lợi ích. Sau đó, Lục quần Tỳ-kheo lại đến bảo ni tập hợp lại để
giáo giới, nhưng nói những điều thô ác, dâm dục. Ðã vậy, Lục quần Tỳ-kheo ni lại
khen, cho là hay không ai bằng.
Ðức Phật vì các Tỳ-kheo ni thuyết pháp, rồi khiến họ trở về trú xứ. Nhân việc
này, đức Phật cho tập Tăng. Trước Tăng, Lục quần Tỳ-kheo thú nhận sự thật. Ðức
Phật quở trách rồi dạy:
- Tăng không sai thì không được đến giáo giới ni.
Lợi dụng kẽ hở Tăng sai, Lục quần Tỳ-kheo quậy tiếp... Vì thế, dẫn đến Phật quy
định cụ thể: Tỳ-kheo được Tăng sai phải thành tựu 10 pháp, ấy là:
1-Thành tựu
giới, thành tựu oai nghi, thường sợ những lỗi nhỏ.
2-Ða văn,
thường lắng nghe, hiểu rõ thấu đáo vấn đề,
nhận thức được lời Phật dạy: sơ, trung, hậu đều thiện. Ðầy đủ hình tướng
thanh bạch, phạm hạnh.
3-Có khả năng
tụng tốt 2 bộ giới luật và lý giải thấu đáo.
4-Có khả năng
thuyết giảng, trình bày nghĩa lý phân minh.
5-Từ con nhà
vọng tộc xuất gia, các căn đều có nét đặc thù.
6-Ở trong Phật
pháp, hoàn toàn không uế trược.
7-Cử chỉ nhã
nhặn, thân đoan nghiêm, đĩnh đạc, mặc pháp phục thanh khiết, tề chỉnh.
8-ChúngTỳ-kheo
ni kính trọng.
9-Có khả năng
tùy thuận để nói pháp, chỉ bày sự lợi ích và điều vui mừng.
10- Có đủ, hay hơn 20 tuổi hạ.
Lại nữa, Tăng không sai Tỳ-kheo có 5 khiếm khuyết sau:
1-Tụng kinh hay
giới mà có chỗ quên sót.
2-Các căn không
đầy đủ,
3-Nhiều tham
dục.
4-Biểu hiện
tướng ác.
5-Bày vẻ
Tỳ-kheo ni gần gũi với kẻ xấu.
Rõ ràng, từ đây, Lục quần Tỳ-kheo không còn đủ điều kiện để Tăng sai giáo giới.
OAN CHO NI
Lúc bấy giờ, đức Phật lưu ngụ tại thành Xá-vệ. Theo lời dạy của Phật, Tỳ-kheo
được phân bố thứ tự đến giáo giới Tỳ-kheo ni. Xong lượt của mình, Tỳ-kheo kia
nói với Tỳ-kheo ni rằng:
- Sáng mai tới phiên Ban-đà29giáo
giới, các cô đến đó thọ lãnh giáo pháp.
Sau khi về lại trú xứ, vị này nói với Ban-đà :
- Sáng mai đến lượt thầy giáo giới Tỳ-kheo ni
Sáng ngày ấy, đến giờ, Trưởng lão Ban-đà mặc y, bưng bát vào thành khất thực.
Sau khi ăn, trở về chỗ trú, Ban-đà quét dọn trong ngoài, lấy nước sạch, đặt sẵn
khăn lau tay, lau chân, bày tòa ngồi nơi đất trống, tự lấy giường dây30
để bên cạnh ngồi thiền.
Sau đó, các Tỳ-kheo ni đến trú xứ Ban-đà, đầu mặt kính lễ sát chân Trưởng lão.
Lễ xong, các ni đến chỗ ngồi. Bấy giờ, Trưởng lão Ban-đà hỏi các Tỳ-kheo ni:
- Các cô từng nghe Tám kỉnh pháp chưa?
- Chúng con đã nghe rồi. - Các cô thưa.
Trưởng lão bảo:
- Các cô nghe lại. Hãy nghe đây:
1- Chúng Tỳ-kheo ni, mỗi nửa tháng nên đến chúng Tỳ-kheo thỉnh vị giáo giới.
2- Chúng Tỳ-kheo ni phải nương theo Tỳ-kheo Tăng để an cư.
3- Chúng Tỳ-kheo ni, khi Tự tứ nên bạch nhị Yết-ma sai Tỳ-kheo ni đến chúng
Tỳ-kheo thỉnh tội thấy, nghe, nghi.
4- Thức-xoa-ma-na hai năm học sáu pháp rồi, nên đối trước hai bộ chúng cầu thọ
giới Cụ túc.
5- Tỳ-kheo ni không được mắng Tỳ-kheo, không được nói với Bạch y tội phạm giới,
phạm oai nghi, tà kiến, tà mạng của Tỳ-kheo.
6- Tỳ-kheo ni không được cử tội Tỳ-kheo, nhưng Tỳ-kheo được quở trách Tỳ-kheo
ni.
7- Tỳ-kheo ni phạm thô tội, nên đến hai bộ Tăng cầu nửa tháng hành Ma-na-đỏa,
hành A-phù-ha-na31,
và đến trước 20 vị Tỳ-kheo và 20 vị Tỳ-kheo ni xuất tội.
8- Tỳ-kheo ni tuy thọ giới Cụ túc trước một trăm năm, song nên lễ bái Tỳ-kheo
mới thọ giới.
Nói Tám kỉnh pháp xong, Ban-đà nói kệ:
Muốn tâm được tốt đừng phóng dật
Cần học pháp lành của Thánh nhân
Nhất tâm ấy là người trí tuệ
Họa ưu sầu đâu nữa phải lo
Nói kệ xong, Ban-đà nhắm mắt ngồi thẳng. Khi ấy, các Tỳ-kheo ni trộm lời với
nhau: “Tỳ-kheo này chỉ biết có mỗi một bài kệ, làm sao có thể giáo giới chúng
ta?!”. Ban-đà nghe thế liền suy nghĩ: “Các Tỳ-kheo ni này khinh dễ ta”. Ban-đà
liền vụt bay lên hư không, hiện một thân thành vô số thân, rồi từ vô số thân
hiện thành một thân. Ði xuyên qua vách, đi trên nước như đi trên đất, vào trong
đất như vào trong nước; hoặc hiện nửa thân, hoặc hiện toàn thân; hoặc thân trên
tuôn ra khói, thân dưới tuôn ra lửa, hoặc thân trên tuôn ra lửa, thân dưới tuôn
ra khói, hoặc thân trên tuôn ra nước, thân dưới tuôn ra lửa, hoặc thân trên tuôn
ra lửa, thân dưới tuôn ra nước, hoặc nằm, ngồi trên hư không như chim dang hai
cánh, hoặc lấy tay rờ mặt trời, mặt trăng, hoặc thân đứng thẳng đến trời Phạm tự
tại... Hiện thần biến như vậy rồi, Ban-đà trở về chỗ cũ, nói lại bài kệ như
trên. Các Tỳ-kheo ni thấy các thần biến này, tâm rất hoan hỷ, thưa rằng:
- Bạch Ðại đức! Xin Ngài hãy dùng thần túc để giáo hóa.
Liền khi ấy, Ban-đà hiện ra nơi phương Ðông, chìm mất vào phương Tây, hiện ra
nơi phương Tây, chìm mất vào phương Ðông. Các phương khác cũng vậy. Hiện tất cả
thần biến như vậy rồi trở về chỗ cũ, lại nói bài kệ trên cho đến mặt trời lặn,
Ban-đà mới cho các Tỳ-kheo ni ra về.
Bấy giờ, trời đã xẩm tối, cửa thành vừa đóng. Ðến đây, các Tỳ-kheo ni gõ cửa
thành xin vào. Người giữ cửa hỏi:
- Các người là ai?
- Chúng tôi là Tỳ-kheo ni. - Các ni đáp.
- Ði đâu mà về tối thế? - Người giữ cửa lại hỏi.
- Tôn giả Ban-đà mãi giáo giới chúng tôi, nên phải về trễ! - Các Tỳ-kheo ni trả
lời.
- Có thể quay về lại chỗ cũ, chứ dù có vua đến, tôi cũng không dám mở. - Người
giữ cửa nói.
Các Tỳ-kheo ni đành tạm nghỉ lại ngoài thành, bên cửa, bên hào, bên mương hoặc
dưới gốc cây... tựa lưng, suốt đêm bị mòng, muổi, gió, bụi gây não.
Sáng ra cửa thành mở, các ni vào thành trước mọi người. Các Cư sĩ thấy cảnh ít
xảy ra này, nghi ngờ bảo nhau rằng:
- Các Tỳ-kheo ni này từ đâu đến mà vào thành sớm hơn cả mọi người?
Trong số họ có người bảo:
- Biết đâu các ni này đi tìm đàn ông, trở về!
Còn những người không có lòng yêu mến Phật pháp thì miệt thị, nói xấu:
- Chúng ta là Bạch y, không tu phạm hạnh... chứ bọn Tỳ-kheo ni này, đầu cạo
trọc, mặc áo hoại màu mà cũng làm chuyện như vậy ư?!!...
Sự việc này đồn ầm lên, đến tai các Trưởng lão Tỳ-kheo... Trước Phật và Tăng,
Ban-đà nhận khuyết điểm này. Ðức Phật chế giới không cho phép giáo giới ni cho
đến chiều tối.
TỲ-KHEO NI
- MỘT VẤN ÐỀ
Lúc bấy giờ, đức Phật lưu ngụ tại thành Xá-vệ. Nhờ các Tỳ-kheo lần lượt giáo
giới Tỳ-kheo ni, nên các ni đạt đến sở đắc của mình, như được các thiền giải
thoát, chánh định. Ðối với Lục quần Tỳ-kheo, tuy không được Tăng sai nhưng vẫn
đến giáo giới, các thầy chỉ nói những lời thô ác, bất thiện. Các Tỳ-kheo ni
Trưởng lão im lặng, tỏ vẻ không phục. Ngược lại, Lục quần Tỳ-kheo ni32
thì khen ngợi rằng:
- Lành thay! không ai hơn được.
Với sự việc như vậy,Tỳ-kheo ni Ba-xà-ba-đề cùng với 500 Tỳ-kheo ni đến chỗ đức
Phật, báo lên Ngài... Ngài cho tập Tăng, trước Phật và Tăng, Lục quần Tỳ-kheo
thú nhận việc đã xảy ra. Ðức Phật cấm Tỳ-kheo không được đến trú xứ Tỳ-kheo ni
nếu không được Tăng sai.
Qua việc cấm này, nên dù có việc muốn đến trú xứ ni, Tỳ-kheo cũng rất ái ngại
không đến... Bấy giờ, Tỳ-kheo ni Bạt-đà lâm bệnh, sai người tin cậy đến bạch Tôn
giả Xá-lợi-phất, mời Tôn giả đến để thuyết pháp lần cuối cùng. Tôn giả nói:
- Ðức Phật không cho phép Tăng không sai mà cố ý vào trú xứ Tỳ-kheo ni, dù để
giáo giới.
Bởi thế, Tôn giả từ chối lời mời. Qua sự việc này, sau đó trước Tăng, Ngài chế
giới bổ sung: “Trừ khi ni bị bệnh thì có thể đến thăm, thuyết pháp”.
Ðể đáp lại sự ân cần giáo giới của các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni thường hay cúng
dường, như biệt thỉnh cúng, hoặc cúng tư cụ như: đãy đựng bát, dây lưng, y phục,
thuốc thang... Lục quần Tỳ-kheo thấy vậy, nói với các Tỳ-kheo:
- Có thể sai chúng tôi làm người giáo thọ.
Các Tỳ-kheo nói:
- Theo lời Phật dạy thì người thành tựu 10 pháp mới sai. Các thầy không đạt được
thì làm sao sai?!
Lục quần Tỳ-kheo bèn nói:
- Các Tỳ-kheo giáo giới Tỳ-kheo ni vì lợi lộc cúng dường.
Lời xuyên tạc này đã khiến Lục quần bị khiển trách. Ðức Phật nghiêm cấm Tỳ-kheo
phát ngôn sai sự thật.
Ðức Phật chế cấm để ngăn ngừa sự gần gũi giữa Tỳ-kheo và Tỳ-kheo ni, song sự gần
gũi vẫn xảy ra nơi chỗ vắng. Từ đó, sanh nhiễm tâm, không vui sống phạm hạnh, có
kẻ hoàn tục, có người làm ngoại đạo. Các Cư sĩ thấy sự bại hoại này, liền chỉ
trích thẳng:
- Những Sa-môn này cùng Tỳ-kheo ni, riêng tây ngồi nơi chỗ vắng, chẳng khác nào
bạch y đối với dâm nữ. Ăn của tín thí mà làm việc như thế, họ là kẻ không có
hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn...
Lại một lần nữa, đức Phật chế giới nghiêm cấm Tỳ-kheo gần gũi Tỳ-kheo ni nơi chỗ
vắng vẻ. Giới này được đứùc Phật chế cấm tại thành Xá-vệ.
LẠY TRỜI ÐỪNG NHẬN
Tại thành Xá-vệ, đức Phật đang lưu trú ở đây. Có một Tỳ-kheo A-lan-nhã sống nơi
A-lan-nhã. Thoạt đầu, không thân quen bất cứ ai. Nhưng một hôm vào buổi sáng,
Tỳ-kheo này mặc y, bưng bát vào thôn khất thực. Trên đường đi gặp hai Tỳ-kheo
ni. Ni này liền nói với ni kia:
- Nay tôi muốn làm quen với Tỳ-kheo kia, cô đồng ý không?
- Tốt lắm! - Ni kia trả lời.
Khi Tỳ-kheo ấy đến, cô ni tác lễ,
Tỳ-kheo im lặng không nói một lời. Hai cô ni lại bàn với nhau:
- Tỳ-kheo này không muốn chúng ta
làm quen giữa đường. Chúng ta nên đến trú xứ của Tỳ-kheo để bái chào.
Sáng hôm sau, hai ni thực hiện
đúng như ý muốn, trước Tỳ-kheo A-lan-nhã, hai ni bái chào, lạy một lạy, lạy hai
lạy... Tỳ-kheo không nói một lời, đến lạy thứ ba, Tỳ-kheo mới đáp lời: “Lão thọ” (Cầu chúc tốt lành). Hai Tỳ-kheo ni tác lễ xong ra về.
Sau đó, Tỳ-kheo kia vào thôn khất
thực, hai Tỳ-kheo ni lại gặp thầy nơi đường hẻm, liền lễ bái hỏi chào rồi trao
đổi chuyện... Hai Tỳ-kheo ni bèn dùng một đoạn vải và chỉ may nhuộm rồi, cúng
cho Tỳ-kheo. Tỳ-kheo chịu nhận. Hai cô ni lại thưa:
- Ðại đức có mỏi mệt, xin mời đến
trú xứ của chúng con tạm nghỉ một chút, rồi sẽ đi khất thực.
Tỳ-kheo nhận lời và đến nơi đó
nghỉ. Sau khi nghỉ, gần đến giờ khất thực, Tỳ-kheo ni lại thưa:
- Trú xứ con có đủ rau tương, nếu
có thức ăn rồi, xin mời thầy về lại đây thọ thực.
Tỳ-kheo nhận lời, không phải một
mà đến nhiều lần như vậy. Khi thì Tỳ-kheo khất thực về trước, đợi Tỳ-kheo ni.
Khi thì Tỳ-kheo ni khất thực về trước lại chờ Tỳ-kheo. Từ đó họ thường khen ngợi
lẫn nhau, khi đến với gia đình nào đó. Một hôm, Tỳ-kheo nhận được một tấm vải
may y tốt, bèn có ý nghĩ không lành mạnh, rằng: “Nay ta đem vải y này biếu cho
Tỳ-kheo ni kia, ắt cô ta không nhận, như thế ta sẽ nhận được cái ân huệ cho
nhiều hơn nữa”. Với ý đồ như thế, nên việc trước hết là đến các Tỳ-kheo ni, đem
lời khen ngợi Tỳ-kheo ni kia rằng:
- Tỳ-kheo ni... là con nhà vọng
tộc xuất gia có lòng tin kiên định, chánh trực, ít ham muốn, biết vừa đủ.
Các Tỳ-kheo ni nói:
- Người xuất gia như vậy là đáng
khen.
Làm theo ý nghĩ, sau đó, Tỳ-kheo
A-lan-nhã đem y cho Tỳ-kheo ni kia. Chữ ngờ không đến, Tỳ-kheo ni kia nhận vải y
ngay. Không đúng với mưu đồ nên ôm lòngï não hận, Tỳ-kheo Lan-nhã đổi ý, liền
đến các Tỳ-kheo nói:
- Tỳ-kheo ni... thôi rồi, tín tâm
mỏng lắm, cô ta thật ra nhiều ham muốn, không biết tự đủ là gì!
Các Tỳ-kheo liền hỏi lại:
- Mới đó, thầy bảo cô ta nào là
tri túc, nào là thiểu dục, còn bây giờ sao lại chê trách hết cở vậy?
Như đánh trúng vào “tử huyệt”,
đành phải bày tỏ cái lắc léo của lòng mình, Tỳ-kheo Lan-nhã thú thực ý đồ: “Cho,
nhưng lạy trời đừng nhận”. Dù vậy, cũng bị đồng phạm hạnh chê trách:
- Tại sao tâm thầy không xả vật,
đã hứa cho người mà còn tính đến việc người ta không nhận. Mua chuộc cảm tình
người khác bằng sự hư dối, vọng ngữ như vậy sao?!.
Việc này được các Trưởng lão bạch
lên đức Phật, và sau khi được xác minh, Ngài chế giới cấm Tỳ-kheo đem y cho
Tỳ-kheo ni. Giới này, sau đó được bổ sung hoàn chỉnh qua các sự việc xảy ra liên
hệ, chẳng hạn như đem y cho ni bà con thì không phạm.
HẾT NGÕ NÓI
Lúc bấy giờ, đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Ở đây, có một
Tỳ-kheo ni ít người quen biết, nhận được vải y nhưng không biết may y phải nhờ
Tỳ-kheo ni khác may giúp.Các Tỳ-kheo ni nói:
- Chúng tôi bận nhiều việc không
thể may được, cô có thể đến trong chúng Tỳ-kheo thưa với quý thầy, chắc quý thầy
dũ lòng thương sẽ may cho cô.
Nghe theo lời, cô ni này đến
chúng Tỳ-kheo thưa:
- Con nhận được vải y, nhưng con
lại không biết may, người thân thì chẳng có ai, xin quý thầy thương xót may giúp
cho con!
Dù vậy, các Tỳ-kheo đều từ chối
vì nhiều lẽ... Như sực nhớ ra, cô đến chỗ Trưởng lão Ưu-đà-di thưa như trên.
Ưu-đà-di bảo:
- Tôi có thể may được, nhưng
đừng hối thúc tôi, để tùy tôi may xong khi nào cũng được. Có đồng ý như vậy, tôi
mới may cho.
- Tùy Trưởng lão, may xong khi
nào cũng được. - Cô ni thưa.
Ưu-đà-di nhận vải, và vải cứ để
đó, Ưu-đà-di chẳng buồn cắt may. Qua một thời gian khá lâu, không thấy giao y,
Tỳ-kheo ni đến hỏi:
- Thưa Ðại đức, thầy đã may y
cho tôi xong chưa?
Ưu-đà-di nói:
- Trước đây tôi đã giao hẹn như
vậy, tại sao nay lại hối thúc?
- Con đến hỏi để biết, chứ không
dám hối thúc. - Cô ni thưa.
Cô ni rút lui êm. Sau đó,
Ưu-đà-di cắt may, thầy dùng các loại chỉ đủ màu thêu hình nam nữ giao hội trên
một chiếc lá đặt giữa tấm y. Công việc xong, Ưu-đà-di gọi cô ni đến giao, với
lời dặn:
- Không được mở ra xem, và cũng
không được cho ai xem y. Ðợi khi nào bà Tỳ-kheo Ba-xà-ba-đề đến chỗ đức Phật,
nơi đầu đường, khi đó mới lấy ra mặc.
Tỳ-kheo ni kia
mang y về, ngoan ngoãn thực hiện đúng lời thầy dạy. Thế rồi, ngày ấy, Tỳ-kheo ni
Ba-xà-ba-đề cùng với các Tỳ-kheo đến chỗ đức Phật, tại đầu đường, cô ni mặc y
vào... Người đi đường trông thấy hình ảnh kia rõ mồn một, không ai là không vỗ
tay hoan hô! Họ cùng nhau đàm tiếu:
- Tỳ-kheo ni này thật hết sức
khéo tay mới có thể thêu hình hành dục trên y như vậy được.
Trước sự việc như thế, Tỳ-kheo
ni kia vô cùng xấu hỗ, liền quay trở về trú xứ. Tỳ-kheo ni Ba-xà-ba-đề cuốn y
kia lại, mang đến chỗ đức Phật. Trước Thế tôn, bà mở chiếc y ra và thưa:
- Cúi xin đức Thế tôn chứng kiến
cho việc làm này!!!
Ðức Phật vì Cù-đàm di nói pháp,
rồi bảo bà trở về trú xứ. Sau đó, đức Phật cho tập họp Tăng. Trước Phật và Tăng,
Ưu-đà-di thú nhận tội lỗi, Ngài quở trách Ưu-đà-di bằng lời lẽ nghiêm khắc nhất.
Ngài kiết giới cấm Tỳ-kheo không được may y cho Tỳ-kheo ni, trừ ni bà con, thân
tộc.
GIẶC TRẤN LỘT CON
Ðức
Phật đang lưu trú tại thành Xá-vệ. Lúc bấy giờ, có các Tỳ-kheo ở nước Ma-kiệt-đà
cùng các Tỳ-kheo ni du hành trong nhân gian, hoặc từng cặp cho đến số đông
Tỳ-kheo và Tỳ-kheo ni cùng nhau, hoặc lội qua nước sâu, hoặc leo lên ghềnh
cao..., họ thấy “chỗ kín” của nhau, từ đó sanh tâm nhiễm trước, không vui sống
phạm hạnh, dẫn đến thối hóa, hoàn tục hay làm ngoại đạo. Bạch y biết việc này,
cơ hiềm, chỉ trích:
-
Bọn Sa-môn này, giống như người đời đưa vợ con hay dâm nữ đi dạo chơi. Họ là
loại phá đạo, chẳng xứng đáng Sa-môn chút nào!
Lời miệt
thị này đến tai các Trưởng lão Tỳ-kheo. Sau khi quở trách các Tỳ-kheo này, các
vị bạch lên Phật. Sau khi sự việc được đương sự xác nhận sự thật, đức Phật
nghiêm khắc khiển trách, rồi kiết giới cấm: “Tỳ-kheo không được cùng hẹn đi với
Tỳ-kheo ni một đường”.
Hồi
ấy, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo ni thường du hành nhân gian. Tỳ-kheo ni biết lộ trình
đang đi sẽ gặp nhiều bất trắc hiểm nguy, thấy Tỳ-kheo liền kêu lên:
-
Xin Ðại đức đến nhanh để cùng đi, nếu có gì xảy ra thì giúp đỡ nhau.
Tỳ-kheo kia liền từ chối vì tuân thủ giới cấm. Tỳ-kheo ni thưa:
- Ðoạn
đường này nguy hiểm, con là nữ yếu ớt, xin được nương Ðại đức mới có thể qua
khỏi đây an toàn được!
Tỳ-kheo một mực từ chối, bỏ đi một mình...Và chuyện gì đến đã đến, dù một khoảng
cách khá xa, Tỳ-kheo kia vẫn nghe rõ tiếng Tỳ-kheo ni chới với kêu lớn: “Giặc
trấn lột con! Giặc trấn lột con!”. Sự việc đau lòng này, sau đó, dẫn đến đức
Phật chế giới bổ sung hoàn chỉnh.
Ngoài sự việc trên, còn có sự việc Tỳ-kheo cùng Tỳ-kheo ni đi chung thuyền, hoặc
từng cặp, hoặc số đông dẫn đến có tình ý nhau... để rồi thối hóa, biến chất...
Khi sự việc trình bày lên Phật, Ngài kiết giới cấm không cho đi cùng chung
thuyền. Giới này sau đó được bổ sung bởi nhân duyên sau:
Có
một Tỳ-kheo ni đứng chờ đò ở bến sông A-di-la33.
Sau đó, một Tỳ-kheo đến, Tỳ-kheo ni thưa:
-
Bến đò này vắng vẻ, phức tạp, thường xảy ra trấn lột. Có thể thầy cho con cùng
qua chung chuyến đò?!
Tỳ-kheo trả lời:
-
Ðức Phật cấm không cho Tỳ-kheo chúng tôi cùng Tỳ-kheo ni đi trên cùng một đò.
Người lái đò nghe thế, liền nói:
-
Cả hai vị cùng lên đò, mỗi vị ngồi một đầu.
Tỳ-kheo không đồng ý. Tỳ-kheo ni thưa:
-
Nếu không được thì mời Ðại đức sang trước...
Chuyến đò đưa Tỳ-kheo chưa sang bến bên kia, thì nghe tiếng thất thanh kêu cứu
vì Tỳ-kheo ni bị bọn cướp lột trần... Người lái đò bất bình, khinh khi, chê
trách Tỳ-kheo rằng:
-
Các người đồng xuất gia mà không bảo hộ cho nhau, huống là đối với người khác.
Ông không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn.
ÐẠI LONG, TIỂU ÐỨC
Trên đường du hành nhân gian, Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đến thành
Vương-xá. Hai vị được Cư sĩ đón tiếp nồng hậu và mời thọ trai.
Sáng ấy, hai vị đến nhà người Cư sĩ kia để nhận bữa cúng dường. Tình cờ, khi đến
trước nhà Cư sĩ này, Tôn giả Xá-lợi-phất nghe bên trong vọng ra tiếng nói của
Tỳ-kheo ni Thâu-la-nan-đà, hỏi gia chủ rằng:
-
Nay gia chủ sửa soạn thức ăn, trải tọa cụ tốt để rước vua hay làm đám cưới?
Gia
chủ trả lời:
-
Không rước vua, cũng chẳng làm đám cưới, mà để cúng dường Tôn giả Xá-lợi-phất và
Mục-kiền-liên.
Tỳ-kheo ni Thâu-la-nan-đà bảo:
- Tại sao không thỉnh Ðại long mà lại cúng dường Tỳ-kheo Tiểu đức này?
Cư sĩ vặn hỏi lại:
- Vị nào là Ðại Long?
Cô ni đáp:
- Lục quần Tỳ-kheo. Vì sao? Vì muốn thỉnh hàng Tỳ-kheo vọng tộc xuất gia, tu
hạnh Ðầu-đà, Tứ niệm xứ, cho đến Tám phần Thánh đạo, Tu-đà-hoàn, cho đến
A-la-hán, nhằm cầu được người rể tốt, đứa con quý, sanh thiên, giải thoát, hiện
đời này giàu sang thì nên mời cúng dường Tỳ-kheo Lục quần.
Như thích thú với lời khen ngợi này, cô ni đứng im lặng.
Ngay khi đó, Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên đi vào. Tỳ-kheo Thâu-la-nan-đà hơi
sượng, song cô ni liền đến thưa chào hai vị:
- Lành thay, Tôn giả! Mời nhị vị an tọa nơi tòa ngồi này.
Xoay sang gia chủ, cô ni nói:
- Lành thay Cư sĩ! Nay người
được phước lớn, mới thỉnh được Tỳ-kheo thuộc hàng Ðại Long như thế này.
Nghe thế, Cư sĩ tỏ vẻ chê
trách, bảo:
- Vừa rồi cô nói “Tiểu đức” bây
giờ lại bảo “Ðại long”? Ăn nói ngược ngạo như vậy, tại sao không xấu hổ?! Từ nay
về sau, cô đừng đến nhà này nữa, tôi không còn muốn cúng dường cho cô nữa đâu!
Sau đó Cư sĩ thực hiện việc
cúng dường của mình một cách tốt đẹp. Gia chủ đích thân hầu hạ hai vị Tôn giả
rất chu đáo. Sau bữa ăn, gia chủ nghe diệu pháp, lòng rất vui mừng.
Hai Tôn giả ra về, đến chỗ Phật
lưu trú trong thành Vương-xá. Ðức Phật thấy hai vị Tôn giả, liền hỏi:
- Lành thay Xá-lợi-phất,
Mục-kiền-liên! Quý vị dùng cơm khách nơi nào về đó?
- Bạch đức Thế Tôn! Vừa rồi
chúng con đến nhà một Cư sĩ, lại được nghe một Tỳ-kheo ni bảo với người gia chủ
rằng: chúng con là Tiểu đức, rồi liền sau đó lại bảo là Ðại long. -Nhị vị tôn
giả thưa.
- Tại sao gọi như thế? - Ðức
Phật hỏi.
Hai Tôn giả kể lại đầu đuôi
chuyện xảy ra tại nhà Cư sĩ kia.
Việc này kết hợp với việc
Nan-đà, Bạt-nan-đà trước đây đã ăn thức ăn do Tỳ-kheo ni khen ngợi, tán dương mà
có được. Trước Tăng, đức Phật kiểm vấn và Tỳ-kheo Lục quần xác nhận sự việc đúng
như sự thật đã xảy ra. Ðức Phật chế giới cấm Tỳ-kheo ăn thức ăn do bởi sự ca
ngợi của Tỳ-kheo ni mà có được.
Giới này về sau được đức Phật
chế bổ sung, dẫn đến giới điều hoàn chỉnh.
TRƯỞNG GIẢ BẤT NGỜ
Có một người nghèo nọ, nhìn thấy một đại thần thành Vương-xá thường cúng dường
Phật và Tỳ-kheo Tăng, ông ta suy nghĩ: “Vị đại thần này hiện tại phước đức lớn
lắm mới có thể cúng dường Phật và Tăng như thế này”. Người nghèo ao ước: “Nếu ta
có của cải thì cũng sẽ làm như vậy”. Người nghèo lại suy nghĩ: “Nay ta không có
tài vật thì đi làm thuê, lấy tiền công chính đáng để mà cúng dường”.
Người nghèo liền tích cực thực hiện ý nghĩ này. Hằng ngày, công làm thuê chỉ ăn
một phần và để dành lại một phần. Thấy vậy, người chủ hỏi:
- Tại sao ông để lại một phần không ăn?
- Tôi để dồn lại một phần, đợi lúc đủ tôi nhận luôn. - Kẻ nghèo bảo thế.
Thời gian trôi qua nhanh trên lưng người làm thuê, kẻ nghèo biết số tiền dành
dụm đã đủ để thực hiện việc cúng dường, ông ta bèn nói với chủ:
- Xin ông chủ cho tôi lấy hết số tiền dồn từ lâu và nhờ ông làm giùm thức ăn đầy
đủ với số tiền ấy.
- Hiện ông rất
nghèo khổ, tại sao sử dụng hết số tiền
ấy sắm
sửa các thức ăn uống ngon để làm gì? - Người chủ hỏi.
- Trước đây tôi thấy vị đại thần Vương-xá thường thỉnh Phật và Tăng để cúng
dường bữa ăn, nên tôi phát nguyện cũng sẽ làm như vậy. Do đó, để thực hiện lời
nguyện này, tôi đi làm thuê cho ông. Nay xét ra số tiền bấy lâu tích lũy từ sức
lao động ấy đủ để thiết lập trai soạn cúng dường. Bây giờ, thì phải nhanh chóng
chuẩn bị đầy đủ cho việc cúng dường này. - Kẻ nghèo bày tỏ tâm tư của mình.
Người chủ nghe lời này rất đổi xúc động, ông liền suy nghĩ: “Kẻ nghèo đi làm
thuê, làm mướn còn có tấm lòng tốt như thế, huống chi ta là chủ, là kẻ giàu có,
nếu muốn cúng dường thì tức khắc có đủ mọi thức ăn uống thế nhưng không thể làm
được! Thôi thì ta trả tiền gấp bội để người làm thuê, tha hồ sắm các thức ăn
uống ngon lành mỹ vị để cúng dường theo lời nguyện”.
Khi đã nắm đủ điều kiện, kẻ nghèo kia liền đi đến chỗ Phật, rồi sắm sửa đầy đủ
các thức ăn cao sang nhất trên đời. Nhờ tấm lòng trân trọng, chí thành này,
ngoài mọi người hết lòng hỗ trợ, còn có cả quỷ thần giúp đỡ nữa. Chỉ trong môt
thời gian ngắn, trai bàn mỹ vị thiết bày xong.
Hôm ấy, gặp ngày tiết hội, nhiều người cúng dường, họ tranh nhau đến thỉnh chư
Tăng về nhà thọ trai. Trước sự mời thỉnh này, các Tỳ-kheo dặn với nhau: “Hôm nay
người nghèo này tận lực để cúng dường, đối với các gia đình khác chúng ta nên
dùng một ít thôi”. Tuy thế, nhiều nhà, cúng mỗi nhà ăn một ít nên chư Tăng khá
no...
Khi người nghèo sửa soạn xong, mời thọ trai, chư Tăng tập trung đến, an vị vào
tòa ngồi, chỉ trừ đức Phật, Ngài ở lại phòng.
Người nghèo phấn khởi, tự tay san sớt các thức ăn. Dù vậy, các Tỳ-kheo thọ thực
rất ít, chỉ ăn chiếu lệ thôi. Trước sự biếng ăn này, khiến người nghèo suy nghĩ:
“Các Tỳ-kheo vì thương ta nghèo, khổ cực nên không dám ăn cho no, hay vì thức ăn
không ngon mà các ngài nuốt không xuống?!”.
Ðể tìm hiểu thật hư, người
nghèo hỏi thẳng một số Tỳ-kheo để biết lý do. Câu trả lời người nghèo nhận được
là như vầy: “Sợ thức ăn ít nên đã ăn trước ở các nhà người khác”. Người nghèo
buồn lòng, thưa:
- Tại sao quý Ðại đức đã nhận
lời mời của con trước, lại ưu tiên đến nhà người khác để nhận ăn?! Con dốc hết
mọi khả năng để cúng dường cho bằng được, nay các Ðại đức không thể dùng hết thì
tùy ý các ngài cứ mang đi hết chỗ thức ăn, đừng để dư.
Các Tỳ-kheo nghe thế bèn cố ăn,
nhưng vẫn không hết phân nửa chỗ cúng dường. Chúng Tăng dùng bữa rồi, người
nghèo lại hối tiếc, nghĩ: “Ta cố ép chư Tăng dùng như vậy không biết có phạm tội
hay không?”. Người nghèo đến bạch Phật để giải tỏa nỗi thắc mắc này.
Ðức Phật dạy:
- Lành thay kẻ sĩ nghèo! Ngươi
làm phước, đem thân đi làm thuê để được làm phước như người, thì tuy ngươi đang
thọ thân người, nhưng nhân duyên để sanh lên cõi trời của ngươi đã đầy đủ. Từ
khi ngươi phát tâm muốn cúng dường Phật và Tăng đến nay thì mọi hành động của
ngươi đều có vô lượng công đức. Dù cho Tăng không thọ thực món cúng dường của
ngươi một hạt cơm đi nữa, thì công đức của ngươi vẫn cứ đầy đủ. Hiện đời này,
ngươi nhận được phước báo không xa nữa đâu!
Ðức Phật lại vì người nghèo nói
các pháp vi diệu. Trong nỗi vui mừng hớn hở, người nghèo liền từ nơi chỗ ngồi,
mọi trần cấu được xa lìa, được con mắt pháp trong sạch. Thấy pháp rồi liền thọ
ba pháp quy y, phụng trì năm giới. Từ chỗ ngồi đứng dậy, người nghèo đầu mặt
đảnh lễ sát chân Phật rồi nhiễu quanh Ngài, cáo lui.
Bấy giờ có năm trăm người lái buôn, từ nước
Ưu-thiền-na34
đến. Chưa đến thành Vương-xá nhưng đã ba ngày rồi họ cạn hết lương thực. Họ tính
khi đến thành Vương-xá là phải có thức ăn ngay, nên sai người thúc ngựa đến
trước để tìm thức ăn nấu sẵn. Người ấy rao:
- Chúng tôi gồm năm trăm người
lái buôn, từ nước Ưu-thiền-na đến, hết lương thực ba ngày rồi, tôi đến trước tìm
thức ăn nấu sẵn. Nếu ai đáp ứng được thì với giá nào chúng tôi cũng sẵn sàng
mua.
Người trong thành nói:
- Nơi đây chẳng có ai đáp ứng yêu cầu này, chỉ có
một người nghèo đang cúng dường tại Tăng phường35
có dư thức ăn rất nhiều, ông thử đến đó, hy vọng có thể đáp ứng cho ông.
Trước người nghèo, sứ giả trình
bày tình cảnh khốn đốn ấy. Người nghèo trả lời:
- Nay tôi thiết lễ cúng dường
Phật và Tăng, không vì tài lợi. Ông cần đưa gấp đoàn của ông đến đây, đừng nghĩ
đến chuyện tiền nong, giá cả.
Sứ giả mừng khôn xiết, liền quay về... Khi đoàn năm trăm lái buôn đến chỗ người
nghèo thì họ đã lã người, hối hả thưa:
- Cho chúng tôi ăn mau! Ðói
kiệt sức rồi. Chúng tôi sẽ hậu tạ.
Bao nhiêu thức ăn cúng dường
chư Tăng còn lại hóa ra bây giờ cứu đói tạm thời cho năm trăm người. Họ no đủ
với thức ăn cao cấp như thế, khiến năm trăm người vui mừng không kể xiết. Họ
không lường được sự nhiệm mầu đến với họ một cách cũng rất mầu nhiệm... Ðể tỏ
bày lòng biết ơn của mình, đoàn lái buôn họp lại, góp nhau được một trăm ngàn
lượng vàng, trao tặng cho người nghèo kia.
Ðoàn buôn năm trăm người đến Vương-xá còn có một mục đích khác: Hỏi thăm một
người, đó là thầy của mình đã xa cách từ lâu. Khi họ dò tìm và biết rõ người
thầy mình đã qua đời, đoàn buôn lại hỏi:
- Ông ấy có còn con cháu nào không?
- Người vừa rồi cho các ông ăn đó là con của ông ấy. - Người thành Vương-xá trả
lời.
Cả đoàn buôn nghe thế, vui mừng thốt lên rằng:
- Ðúng rồi, người nghèo ơi! Cụ thân sinh của ông chính là thầy của chúng tôi.
Ðoàn buôn liền lấy ra một trăm ngàn lượng vàng nữa để tặng người nghèo, gọi là
báo đáp ân tình trước kia.
Ðại thần thành Vương-xá và người chủ thuê mướn ấy biết rõ việc này rất đổi vui
mừng, lại mỗi người biếu tặng một ngàn lượng vàng để kết tình bạn đối với người
nghèo kia. Cũng trong ngày ấy, vua Bình-sa tấn phong cho người nghèo chức Ðại
thần. Như vậy, chỉ trong một ngày, người nghèo kia trở thành kẻ giàu có, quyền
quý trong xã hội. Nhân đó, người trong nước ban cho tước hiệu là “Trưởng giả bất
ngờ”.
Từ vấn đề các Tỳ-kheo được mời ăn nhiều lần trên, dẫn đến đức Phật chế giới cấm.
Trước Tăng, Ngài quở trách:
- Các ông là người ngu si, tại sao đã nhận lời thỉnh của người này trước, lại đi
ăn trước ở nhà người khác? Từ nay các thầy không được ăn nhiều bữa như thế.
Giới này về sau được bổ sung, nêu rõ lý do nào được ăn nhiều lần.
KHI SA-MÔN ÐẠI HỘI
Khi đức Phật ở tại thành Vương-xá, bấy giờ để tìm ngươiø làm hậu thuẩn, Ðiều-đạt
đặt trọng tâm giáo hóa Cư sĩ. Ðiều-đạt chỉ dẫn cho họ, mỗi nhà thỉnh bốn, hoặc
năm, hoặc mười vị Tăng đến cúng dường. Các trưởng lão Tỳ-kheo quở trách các
Tỳ-kheo nhận lời mời đến nhà Cư sĩ thọ thực, rằng:
- Tại sao vì làm vây cánh cho Ðiều-Ðạt-mà nhận thỉnh ăn riêng chúng?
Việc này sau đó được bạch lên Phật. Trước Tăng, đức Phật chế cấm việc làm này.
Giới điều này có
những lý do, không thể không cho phép ăn riêng chúng, như những lý do chính đáng
sau: Khi bệnh, khi may y, khi thí y, khi đi đường, khi đi thuyền, khi đại hội
36.
Ngoài những lý do này, Tỳ-kheo không được nhận mời ăn riêng chúng.
Tuy nhiên, có sự việc sau đây cũng được coi là một lý do chánh đáng sau cùng của
giới điều cấm này:
Bấy giờ, em của
vua Bình-sa tên là Ca-lưu phụng thờ một đạo khác37.
Ðạo này hằng năm tổ chức đại hội đều mời rộng rãi chín mươi sáu hàng Sa-môn đến
tham dự, nghe Sa-môn Thích tử không nhận sự mời ăn riêng chúng và theo khả năng
thì Ca-lưu không thể thỉnh cả chúng Tăng. Do thiếu Sa-môn của đạo Phật nên ông
ta buồn rầu không vui. Ca-lưu nghĩ đến vua Bình-sa và đã cầu cứu anh mình đến
chỗ Phật xin Phật cho chúng Tỳ-kheo đến tham dự đại hội. Vua Bình-sa nhận lời
người em và đã đến Phật thưa thỉnh sự việc trên.
Sau khi nhà vua ra về, đức Phật cho tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo:
- Nay cho phép
các Tỳ-kheo khi Sa-môn đại hội38
được nhận lời mời ăn riêng chúng.
NHẤT TÚC THỰC
Bấy giờ đức Phật đang lưu trú tại thành Vương-xá. Vương-xá lúc ấy, Tỳ-kheo các
nơi quy tụ về đây rất đông, vì khắp nơi trong nước Ma-kiệt-đà xảy ra nạn đói kém
khá gay gắt.
Ngoài thành Vương-xá, hầu như mọi nơi đều vắng bóng Tỳ-kheo, vì việc khất thực
chẳng có ai cúng dường. Các Cư sĩ có suy nghĩ và bàn bạc: “Chúng ta xây dựng một
ngôi nhà ở địa điểm nào đó để có thể tiếp Tỳ-kheo ngủ qua một đêm, ăn một bữa”.
Các Cư sĩ thực hiện và có kết quả tốt.
Khi ấy có một gia đình thường làm thức ăn ngon. Lục quần Tỳ-kheo du hành nhân
gian, thường đến nhà này, không thực hiện đúng tinh thần “ngủ nhờ một đêm, ăn
một bữa”. Các Tỳ-kheo khác không thể đến nhà này, nói với các Cư sĩ:
- Các vị vì Tăng thiết lập chỗ này, tại sao tôi không được dự phần?
- Bổn nguyện của chúng con là vì Tăng thiết lập chỗ này, nhưng Lục quần Tỳ-kheo
cứ bám trụ nên chúng con chẳng biết làm cách nào để đón tiếp các vị khác. Ðây là
lỗi của Tỳ-kheo Lục quần, chứ chẳng phải lỗi của chúng con.
Vấn đề này, Lục quần Tỳ-kheo đã bị sự khiển trách của các Trưởng lão sau đó, đưa
Lục quần ra giữa Tăng. Lục quần thú nhận tội, đức Phật quở trách và kiết giới:
“Tỳ-kheo nào, chỗ cúng một bữa ăn, ăn quá một bữa phạm tội Ba-dật-đề”.
Vì tuyệt đối gìn giữ điều Phật cấm, sau đó Tôn giả Xá-lợi-phất dứt khoát ra đi
nơi “nhất túc thực” dù sức khỏe ở trong tình trạng ốm đau.
Khi sự việc này được bạch lên Phật, Ngài lại nói giới bổ sung quy định trường
hợp ốm đau, hay được đàn việt mời ở lại.v.v... thì không phạm trong khuôn khổ
của giới này.
BÀI HỌC TỪ KHẤT THỰC
Trong thành Vương-xá có một gia đình nọ có một
người con gái sắp về nhà chồng. Họ chuẩn bị các thứ bánh dùng làm lương thực đi
đường. Vào lúc ấy, có một Tỳ-kheo đến nhà khất thực. Người con gái ấy hỏi:
- Thầy cần gì?
- Tôi cần thức ăn. - Tỳ-kheo nói.
- Có thể ăn
khư-xà-ni39
được không? -Người con gái hỏi.
- Vâng, ăn được. -Tỳ-kheo đáp lời.
Cô gái liền lấy bánh chuẩn bị đi đường đặt đầy bình bát. Tỳ-kheo nhận rồi ra đi.
Ðược thông tin từ Tỳ-kheo này, nhiều Tỳ-kheo khác cũng đến nhà này khất thực và
tất cả đều được đáp ứng đầy đủ, kể cả bánh vừa mới vớt ra cũng đều đem ra cúng
dường cho Tỳ-kheo khất thực.
Liền sau đó, phía nhà chồng cho người đến hối lên đường, người con gái lại trả
lời:
- Lương thực làm chưa xong.
Ðâu phải một lần mà đến ba lần làm lại thức ăn, nhưng tất cả đều đem cúng cho
các Tỳ-kheo lần lượt đến nhà khất thực. Ba lần nhà chồng đến hối thúc, người nữ
vẫn đều trả lời: “Lương thực làm chưa xong”. Nghe thế, người chồng đùng đùng nổi
giận, nghĩ rằng: “Cô gái vợ mình đã đổi ý, bèn sai người đến nói: “Ta đã cưới
người vợ khác rồi, không cần đến người con gái mù lòa như cô nữa”. Trước sự từ
hôn này, cả gia đình phía gái vô cùng tức giận và đổ trút tội rằng: “Do Sa-môn
Thích tử nên con gái ta bị góa bụa”. Họ mạ nhục đủ thứ, không chừa một lời thô
bỉ nào. Người xung quanh lại giả vờ hỏi:
- Người ta bạc bẻo đối với con bà, đâu có can dự gì đến Sa-môn mà bà lại nhục mạ
họ thậm tệ đến thế?
Gia đình kể rõ lý do đã xảy ra. Người không có lòng kính tin Phật pháp rất khoái
chí, mỉa mai: “Do kính Sa-môn hết lòng mới nông nổi như thế. Nếu còn gần gũi thì
chắc chắn gặp nhiều điều tệ hai hơn nữa!”.
Bấy giờ lại có người chủ khách buôn nói với lái buôn rằng:
- Hãy chuẩn bị đầy đủ lương thực, đến ngày... là ngày tốt, chúng ta sẽ khởi
hành.
Các lái buôn mua sắm lương thực đi đường rất đầy đủ. Ngày ấy, có một Tỳ-kheo
tuần tự khất thực, đến nhà người lái buôn kia, người lái buôn ấy hỏi:
- Thầy cần gì?
- Tôi cần thức ăn. - Tỳ-kheo đáp lời.
- Bánh bún dùng được không? -Người lái buôn hỏi.
- Vâng, dùng được. - Tỳ-kheo trả lời.
Người lái buôn liền lấy bình bát đặt một bát đầy bánh để cúng dường. Tỳ-kheo
nhận bát, về lại trú xứ.
Việc lại xảy ra như trường hợp trên. Các Tỳ-kheo đến sau khất thực, đều được
người lái buôn đáp ứng đầy đủ. Do vậy, lương thực đi đường của người lái buôn
hết sạch.
Ngay sau đó, người lái buôn được trưởng đoàn đến thông báo ngày mai tốt, phải
lên đường.
- Lương thực chưa sắm xong. - Người lái buôn trả lời.
- Trước đây tôi đã bố cáo việc này, sao nay lại trả lời chưa xong? -Người chủ
lái buôn vặn hỏi như thế.
- Vì Sa-môn đến xin, tưởng chưa đi vội nên tôi đem lương thực ấy cúng dường hết.
- Người lái buôn trả lời.
- Thôi thì tùy, hôm nay là ngày tốt, tôi đưa đoàn đi trước, ông đi sau vậy.
Người chủ lái buôn nhanh chóng đưa đoàn buôn lên đường.
Chuyến buôn này suôn sẻ, thuận lợi, và sau khi đoàn quay về mang theo thật nhiều
lợi nhuận. Riêng người lái buôn đi sau kia gặp bọn cướp đoạt sạch của cải. Trước
thất bại suýt bị mất mạng, người lái buôn khóc than, oán trách như để than vãn:
- Do Sa-môn Thích tử nên tôi mới khốn đốn thế này!
Bọn cướp nghe thế liền hỏi:
- Chúng tôi cướp đoạt của cải ông, tại sao không oán chúng tôi mà lại oán người
khác?
Người lái buôn kể lại đầu đuôi sự việc đã xảy ra. Bọn giặc nghe rồi lại nói:
- Ông gần gũi với bọn Sa-môn nên bị đánh, bị giết, bị cướp của cải là đúng lắm.
Nếu cứ tiếp tục gẫn gũi nữa cũng sẽ bị khốn đốn nhiều hơn nữa.
Những lời chỉ trích cay nghiệt Tỳ-kheo trên đây, cuối cùng cũng đến tai các
Trưởng lão Tỳ-kheo. Sau khi quở trách, các Trưởng lão đưa các đương sự ra giữa
Tăng. Ðức Phật lại khiển trách họ và chế giới quy định rõ mức độ nhận thức ăn
được cúng dường cũng như nói rõ mọi oai nghi xử lý vấn đề này sao cho được tốt
đẹp. Giới này được đức Phật chế định tại thành Vương-xá.
--- o0o ---
Mục
Lục |
01
|
02
| 03
| 04
|05
|06
| 07|
08
|
09
| 10
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-04 -2003