NHỮNG
TRUYỆN DUYÊN KHỞI
TRONG LUẬT
NGŨ
PHẦN
Lược thuật: Phước
Thắng
Hiệu đính:
Thích Đỗng Minh
Chú thích: Tâm Nhãn
--- o0o ---
THẤT NHÂN TÂM
Bấy
giờ đức Phật và Tăng chúng của Ngài đang lưu trú tại nước Câu-xá-di
.
Tỳ-kheo Xiển-đà cũng là một tay cự phách của nhóm sáu Tỳ-kheo. Thầy ta thường
lui tới các gia chủ của mình để nói pháp, đồng thời cũng lo liệu, xử lý việc nhà
quan cũng như chữa trị, thuốc thang cho người bệnh bổn đạo. Quốc vương, Ðại
thần, Trưởng giả, Cư sĩ không ai là không thân tình, trọng thị. Họ coi Xiển-đà
như ông Thánh sống. Bổn đạo thuộc các giai cấp trên thường đến Tăng xá để thăm
viếng Xiển-đà. Ngày ấy đang kinh hành, các bổn đạo quý ấy đến tận nơi kinh hành,
đảnh lễ sát chân Xiển-đà. Nhân đó, Xiển-đà thuyết pháp cho họ nghe, họ rất vui
mừng, vì phúc lợi của việc nghe pháp đối với họ thật lớn lao. Khi mọi người thân
lui về, Xiển-đà cũng trở về phòng của mình thì phòng này đã có Thượng tọa đến
trưng dụng rồi. Cứ như vậy phòng nào cũng có Tỳ-kheo ở cả, thậm chí phòng nhỏ
nhất cũng có sở hữu chủ. Xiển-đà hiểu rõ vấn đề mất chỗ ở. Thầy đành phải lên
đường du hành nhân gian.
Sau
đó không lâu, các bổn đạo thuộc giai cấp trên ấy đến thăm, mới hay thầy mình đã
lên đường. Hỏi thăm các Tỳ-kheo đang kinh hành nơi đất trống, nhưng nào ai có
biết thầy Xiển-đà ở chân trời góc bể nào mà trả lời. Các bổn đạo quý kia đành ra
về với nỗi lo... Họ tìm khắp nơi nhưng bặt vô âm tín...
Ra đi rồi lại quay về, Xiển-đà mặc y, bưng bát
đến các gia chủ cũ của mình. Trông thấy thầy mình đến, họ mừng hết lớn, họ vồn
vã đón tiếp. Có người thưa:
- Bạch Trưởng lão, gần đây chúng con có đến Tăng
phòng tìm thăm Ngài mà không gặp, vậy Ngài từ
đâu đến đây?
Xiển-đà trả lời:
- Tôi là hàng Hạ tọa nhỏ nhất, tất cả phòng, các
Thượng tọa đều ở hết, cho nên tôi phải du hành. Rất tiếc các vị đến thăm mà
không gặp nhau.
Các gia chủ thưa:
- Có thể tìm nơi nào đó, chúng con sẽ cất phòng
xá cho Trưởng lão ở, không những chúng con được phước mà Trưởng lão lại có chỗ ở
an ổn để tu hành, việc thăm viếng của chúng con cũng không bị trở ngại.
Xiển-đà trả lời:
- Tôi không thể đứng ra tự làm, vì sẽ xao nhãng
việc hành đạo. Hơn nữa, khi tuổi càng lớn thì theo thứ lớp, tự nó sẽ có được chỗ
ở, đó là lẽ tự nhiên.
Các gia chủ thưa:
- Chúng con may mắn có vật
liệu vừa lại có thiện tâm. Tài vật thì vô thường, còn thiện tâm khó lòng giữ
được lâu, vậy xin Trưởng lão tranh thủ tìm chỗ, chúng con nhanh chóng cất phòng
xá cúng dường Ngài.
Xiển-đà thấy họ quá ân cần,
khó lòng từ chối, bèn đi khắp vùng tìm đất cất thất. Nhận thấy địa điểm Thọ thần8
là nơi rất tốt cho việc tạo dựng phòng xá. Quyết chọn nơi đây, nên Xiển-đà liền
cho triệt hạ cây cổ thụ này. Người trong nước coi cây cổ thụ này như một vị
thần. Họ thờ phụng, cúng bái, cầu khẩn thần đại thọ này rất mê say. Họ đều nhận
được sự cảm ứng tốt lành của thần, cho nên lòng kính cẩn của họ đối với thần đại
thọï này cao vời vợi. Cổ đại thọ này bị Xiển-đà triệt hạ không tiếc thương, đó
là một cú sốc lớn của toàn dân, họ hốt hoảng, vô cùng kinh ngạc, tưởng chừng như
tai họa sắp giáng xuống đầu họ. Sẵn lòng tin Phật pháp không có, họ đồng loạt
mắng nhiếc không tiếc lời:
- Sa-môn Thích tử thật vô
đạo hết chỗ nói, chỉ biết lợi cho mình mà làm thương hại đến trời, người, quỉ
thần.
Ðối với những người có lòng
tin Phật pháp thì nói:
- Cây này có Thần ở, mọi
người đều kính sợ, ngày đêm hằng khấn nguyện không dám ngạo mạn, xúc phạm, nay
các Tỳ-kheo lại chặt cây không chút ngại ngùng. Nghĩ rằng, nơi đây rồi ra mọi
sắc tâm đều trong sáng như thường. Có thể nói
rằng vị thần cây này đã vô cùng kính trọng Tỳ-kheo.
Lời khen, tiếng chê đồn vang
khắp nước. Các Trưởng lão nghe được và sự việc được làm rõ trước Tăng. Ðức Phật
lại nghiêm khắc quở trách Xiển-đà. Ngài kiết giới cấm vấn đề này.
HẬU QUẢ CỦA VIỆC VU
KHỐNG
Bấy giờ đức Phật lưu trú
tại thành Vương-xá, là kinh đô nước Ma-kiệt-đà, thuộc Trung Ấn. Ðối
với Phật pháp, vua Bình-sa rất thâm tín. Hằng
ngày, cứ lần lượt vua thỉnh 500 vị Tăng vào trong cung để thọ trai. Thần dân
cũng theo gương ấy cúng dường như vậy. Hồi ấy, các Tỳ-kheo chỉ nghĩ đến việc
hành đạo, không quan tâm mấy đến việc quản lý Tăng, cho nên việc sắp xếp theo
trên dưới, đi thọ trai nơi này hay nơi khác không đặt thành vấn đề. Ðối với Lục
quần Tỳ-kheo, đây là cơ hội tốt, sáu vị này luôn luôn có mặt ở chỗ tốt. Ngày ấy,
Lục quần được mọi người đặt câu hỏi như vầy:
- Chúng con thỉnh Tăng theo thứ tự thọ trai, tại
sao các Trưởng lão thường đến đây mà không thấy các vị khác,?
Ðây là câu hỏi chê khéo Lục quần không biết tự
trọng, song đối với Lục quần, biết điều hay không biết điều chả là gì!
Mặc dù còn nhỏ, tuổi đang 14, tuy mới xuất gia
hành đạo, Ðà-bà Lực Sỹ Tử
, nhìn thấy cái cảnh mất trật tự
trong Tăng chúng như thế, nên trong chốn thanh vắng đã có suy tư: “ Vua Bình-sa
cũng như thần dân, hằng ngày mời 500 thầy theo thứ tự thọ trai, song trong Tăng
không có người chuyên trách phân phối việc thọ trai, nên đưa đến tình trạng Lục
quần cứ lựa chỗ tốt mà đến, điều này làm mất sự ngưỡng vọng chung và lệch đi ý
nghĩ của người tín thí. Nếu đến tuổi 20, ta thọ giới Cụ túc, đắc A-la-hán,
có được thần thông, sẽ vì chúng Tăng làm người chỉ định Tăng đi phó hội,
và phân phối tư cụ cho Tăng”.
Ý nghĩ sâu kín đầy trách nhiệm này của Ðà-bà,
ngày một hiện thực: Năm 16 tuổi, Ðà-bà thành tựu quả A-la-hán,
sở đắc lục thần thông. Năm 20 tuổi thọ Cụ túc giới. Như thế, bao điều nguyện
trước kia nay đã hội đủ điều kiện, Ðà-bà đi ngay đến thành Vương-xá. Trước các
Tỳ-kheo, Ðà-bà nói lên lời nguyện từ trước của mình. Vì lời nguyện này, các
Tỳ-kheo bạch lên Phật. Ðức Phật cho tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, hỏi Ðà-bà:
- Thật sự ông muốn vì Tăng làm người sai Tăng đi
tham dự hội và phân phối ngọa cụ
cho Tăng phải không?
Ðà-bà thưa:
- Bạch Thế Tôn thật sự lòng con là như vậy.
Ðức Phật bằng mọi hình thức khen ngợi hạnh thiểu
dục, tri túc, khen ngợi giới, khen ngợi người gìn giữ giới, rồi bảo các Tỳ-kheo:
- Nay cho phép Ðà-bà vì Tăng làm người chỉ định
Tăng đi tham dự hội, và phân phối ngọa cụ... Tăng nên sai một Tỳ-kheo bạch nhị
Yết-ma để sai.
Trước toàn thể Tăng, lời dạy của đức Phật được
thực hiện như sau, một vị Tăng thưa:
“Ðại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo Ðà-bà này
muốn vì Tăng làm người sai Tăng đi tham dự hội và phân phối ngoạ cụ. Nếu việc
làm này đối với Tăng là thích hợp, Tăng chấp thuận thì lời thưa này là lời đề
nghị trước Tăng”.
Tăng tác pháp Yết-ma: “Ðại đức Tăng xin lắng
nghe! Tỳ-kheo Ðà-bà này muốn vì Tăng làm người sai Tăng đi tham dự hội và phân
phối tư cụ cho Tăng. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không
đồng ý thì xin nói lên”.
Vị Yết-ma chung quyết: “Tăng đã chấp thuận
Tỳ-kheo Ðà-bà làm người sai Tăng đi tham dự hội và phân phối tư cụ cho Tăng rồi.
Tăng đã đồng ý nên im lặng. Việc Yết-ma thành tựu phải thi hành đúng như vậy”.
Từ đó Ðà-bà đủ tư cách pháp lý sai Tăng, điều
phối công việc của Tăng chúng, đối với đời sống tu hành hằng ngày.
Ðể nhanh chóng ổn định tổ chức, cũng như đạt được
hiệu quả cao, Ðà-bà tiến hành việc phân phát ngọa cụ thành Chúng, theo hạnh tu
của Tăng: Chúng thiểu dục tri túc - Chúng Lạc tịnh - Chúng tụng Tu-đa-la (Kinh)
- Chúng Trì luật - Chúng Pháp sư - Chúng Tán tụng - Chúng A-lan-nhã - Chúng khất
thực - Chúng ngồi thiền v.v...
Nhờ có khiếu tổ chức mà việc quản lý, điều hành
của Ðà-bà trở thành nền nếp, kỷ cương, đặt Tăng đúng chỗ, đúng người và cũng
chính nhờ thế mà tất cả Tỳ-kheo, dù tu theo hạnh tu nào, cũng được an ổn.
Ðối với các Tỳ-kheo phương xa có việc đến trú xứ
của Ðà-bà, dù trời đã tối cũng vội đến người quản lý này để xin chỗ tạm trú nghỉ
ngơi. Ðà-bà liền nhập Hỏa quang tam muội, tay trái phóng ra ánh sáng, tay phải
chỉ chỗ trải ngọa cụ một cách trung thực, hợp tình, hợp lý.
Chính sự điều hành mầu nhiệm này mà Ðà-bà được
đồn vang và mọi người hết sức ngưỡng mộ con người quản lý đầy đức độ ấy. Vì hiếu
kỳ, mọi người đến trú xứ thăm hỏi đức Thế tôn càng đông hơn, luôn thể họ được
diện kiến Ðà-bà, cũng như để được trông thấy thần lực của người. Có lúc, cứ vào
xẫm tối, người phương xa về xin tạm trú rất đông, và qua việc sắp xếp nơi ăn
chốn ở, họ chứng kiến sự thật về đức độ và cách hành xử của Ðà-bà.
Với thần lực này, việc sai Tăng đi dự hội của
Ðà-bà bỗng chốc trở thành dễ dàng. Tăng đã tuân thủ sự điều phối đúng người,
đúng việc, đúng nơi, đúng chốn này một cách triệt để.
Thế nhưng, với việc làm cắt cử Tăng đi dự hội,
Ðà-bà đã bị vu khống. Sự việc xảy ra như vầy:
Hồi ấy, trong thành Vương-xá có một Trưởng giả
tên là Thiện Phạn. Qua nhận thức được các pháp mà ông đắc quả. Hằng ngày ông
đích thân mời hai Tỳ-kheo về nhà cúng dường bữa ăn thượng vị. Hai Tỳ-kheo Từ và
Ðịa
là hai anh em, tự thân họ là kẻ thiếu phước nên rơi vào cấp bậc thấp. Họ thường
nhận sự phân phối tương xứng. Tuy nhiên, ngày ấy bỗng Từ, Ðiïa được Tăng sai đến
nhà Trưởng giả Thiện Phạn thọ trai.
Thiện Phạn biết được sự cắt cử này của Tăng, ông
không mấy vừa lòng, thầm nghĩ như vầy: “Hai vị này là người ác, không có hạnh
thanh tịnh, tại sao lại được nhận thức ăn thượng vị của ta cúng dường?!”. Với ý
nghĩ này, Trưởng giả liền lui về trước và tìm gặp vợ, căn dặn rằng: “Hôm nay bà
chỉ nên làm thức ăn đơn giản, đạm bạc để mời họ mà thôi”.
Kẻ ăn người ở được lệnh trải tòa phu cụ tiếp đón
anh em Từ, Ðịa. Từ lúc huynh đệ Từ, Ðịa đến, cho đến lúc trì bát, gia đình Thiện
Phạn ngồi yên nơi tòa ngồi của mình, mặc cho nô tỳ lo việc dâng cúng thức ăn
thô, kém phẩm chất do người vợ Trưởng giả chế biến.
Từ, Ðiïa thấy vậy hỏi:
- Này chị em! Nhà này thường cúng dường bữa ăn
rất ngon, tại sao nay lại cúng thức ăn thô dở đến thế?!
Nô tỳ thưa:
- Tôi là kẻ thấp hèn, làm sao biết rõ lý do này!
Ăn xong ra về. Trên đường đi, trong lòng Từ, Ðiïa
đầy hậm hực, định bụng dạy cho Ðà-bà Lực Sĩ Tử một bài học.
Về đến trú xứ, Từ và Ðiïa đến
ngay các Thượng tọa buộc tội Ðà-bà, bảo
rằng:
- Ðà-bà Lực Sĩ Tử, làm việc theo cảm tính: Yêu,
ghét, giận, thù, si mê, sợ hãi. Sợ ai thì cho đồ tốt, ai không sợ thì cho đồ
xấu.
Các Tỳ-kheo nói:
- Hai thầy chớ nên nói những lời như thế. Tỳ-kheo
Ðà-bà nào có tùy tiện vì yêu ghét, giận hờn, si mê, sợ hãi. Tại sao vậy? - Bởi
lẽ, Tỳ-kheo Ðà-bà đã đắc A-la-hán, đầy đủ sáu thần thông, mà làm việc theo cảm
tính kia là điều không cơ sở.
Từ, Ðiïa nói:
- Chính vì đắc thần thông nên biết
được nhà nào có thức ăn ngon, nhà nào có thức ăn dở. Chỗ nào ngon thì dành cho
người khác, chỗ nào dở thì sai chúng tôi đến. Cho nên tôi kết luận: Ðà-bà làm
việc theo yêu ghét, giận thù, si mê, sợ hãi. Mắng như thế vẫn chưa thỏa, sau đó
Từ, Ðiïa đến chỗ nào, việc hàng đầu là rêu rao nói xấu Ðà-bà. Ðến thành
Vương-xá, Từ và Ðịa tìm gặp người em gái là ni cô Di-đa-la. Trông thấy hai anh
đến, ni cô ra nghinh đón, đảnh lễ hỏi chào, nhưng anh em Từ, Ðiïa lặng thinh
không nói một lời. Trước sự biến đổi này, Di-đa-la thưa:
- Em không nhớ, em có phạm điều chi, tại sao hai
anh có thái độ thế này?!
Từ, Ðiïa trả lời:
- Tại em không giúp hai anh, nên khiến cho Ðà-bà
làm khổ hai anh như vậy!
Di-đa-la hỏi:
- Hai anh muốn em trợ giúp hai anh bằng cách nào?
Từ, Ðiïa bảo:
- Em hãy giúp hai anh bằng
cách đến chỗ đức Phật thưa rằng: “Kính bạch đức Thế Tôn, con từ chỗ không có lo
sợ, hốt hoảng, xoay lại bị sự khủng bố, sợ hãi. Nay con không còn chỗ nào để tìm
được sự an ổn. Ðà-bà vốn được cho là người phạm hạnh, thì giờ đây, đến xúc phạm
làm hoen ố con, phạm Ba-la-di”.
Di-đa-la nói:
- Ðà-bà thanh tịnh, nếu em hủy
báng người thì ắt Tăng sẽ tác pháp Tự ngôn,
đuổi em. Em đã xuất gia, cần phải có chỗ để nương tựa!
Từ,
Ðiïa nói:
-
Hai anh sẽ làm chứng cho em, để Ðà-bà bị đuổi, làm gì có chuyện em bị tác pháp
Tự ngôn để đuổi em.
Di-đa-la nói:
-
Nếu Tăng đuổi Ðà-bà thì Tăng có thêm được cái gì nữa đâu?
Hai anh
em Từ và Ðịa nói:
-
Ðiều cần thiết là làm cho Thế Tôn ruồng bỏ Ðà-bà. Há lẽ Ðà-bà bị đuôûi đi, làm
cho em khổ sở hay sao? Hai anh cần tự do, cần có hình ảnh tốt đẹp để được sống
an lành với trú xứ.
Với
lời lẽ như thế, ni cô Di-đa-la im lặng, không dám trái mạng và để làm vừa lòng
hai ông anh của mình, Di-đa-la đến trước đức Phật tố cáo Ðà-bà với lời lẽ như
trên.
Khi
ấy, Ðà-bà và La-hầu-la đang đứng hầu hai bên đức Phật, đức Phật hỏi Ðà-bà:
-
Ông có nghe Di-đa-la nói điều gì không?
-
Bạch Thế Tôn, con có nghe, nhưng việc đó Thế Tôn đã tự biết rõ rồi. -Ðà-bà đáp
lời.
Ba
lần đức Phật hỏi như vậy, và ba lần Ðà-bà cũng trả lời đúng như vậy.
Trước sự việc như thế, La-hầu-la bạch Phật:
-
Bạch đức Thế Tôn, phiền gì phải ba lần hỏi Ðà-bà, chỉ cần tẫn xuất cô ni là
xong.
Ðức
Phật lại hỏi:
-
Nếu Di-đa-la sử dụng thủ thuật này để phỉ báng La-hầu-la thì La-hầu-la phải xử
trí ra sao đây?
La-hầu-la thưa:
-
Con sẽ nói việc này, Phật tự biết cho con.
Ðức
Phật dạy:
-
Ông có thể làm như thế song đối với Ðà-bà lại cũng nói như vậy được sao?
Ðức
Phật xoay sang Ðà-bà dạy:
- Ông nên
đứng lên tự làm sáng tỏ vấn đề, nay không phải là lúc ông im lặng. Ông cần vận
dụng ký ức của mình, có thì nói có, không thì nói không, không được tránh né mà
nói “Phật tự biết điều này”.
Ðà-baø liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục rồi quỳ gối, chấp tay
thưa:
-
Kính bạch đức Thế Tôn, từ khi con sinh ra đến nay, kể cả trong mộng con cũng
chưa hề nghĩ tưởng về việc này. Tại sao, nay với sự việc như thế, lại có được
trong trí nhớ của con?
Ðức
Phật khen Ðà-bà:
-
Lành thay! Hay thay! Ông đã quả quyết tự biện minh được vấn đề. Người muốn tự
biện minh phải nói lên được như vậy.
Ðức
Phật bảo các Tỳ-kheo:
-
Nên trao cho Ðà-bà Ức niệm Tỳ-ni
, không nên nêu tội, phải bạch
tứ Yết-ma trao cho Di-đa-la pháp Tự ngôn, đuổi ra khỏi Tăng chúng. Thi hành lời
dạy này, trước Tăng, một Tỳ-kheo dõng dạc đọc lên Yết-ma sau đây để lấy biểu
quyết tẫn xuất cô ni: “Ðại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo ni Di-đa-la đã tự nói
lời vu khống: Ðà-bà làm ô nhiễm cô ta. Nay Tăng trao cho Tỳ-kheo ni này pháp Tự
ngôn diệt tẫn. Nếu bây giờ, việc này là thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận
thì lời thưa này là lời đề nghị trước Tăng”.
Pháp Yết-ma: “Ðại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo ni Di-đa-la tự nói lời vu
khống: Ðà-bà làm ô nhiễm cô ta. Nay Tăng trao cho Di-đa-la pháp Tự ngôn diệt
tẫn. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng, nếu không đồng ý thì xin cho ý
kiến (Lời này được đọc lại lần thứ hai, lần thứ ba).
Tăng chung quyết: “Tăng đã đồng ý trao cho Tỳ-kheo ni Di-đa-la pháp Tự ngôn diệt
tẫn rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Vậy Yết-ma thành, việc thi hành phải nghiêm
túc thực hiện”.
Tỳ-kheo ni Di-đa-la sau khi bị diệt tẫn, lang thang lê bước giữa nhân gian đa sự
này. Còn về phía hai người anh Từ và Ðịa thì vẫn ngoan cố đỗ trách sự việc ấy
xảy ra là do Ðà-bà Lực Sĩ Tử phá hoại phạm hạnh em gái của hai ông ta. Trước
giọng điệu phỉ báng này, các Tỳ-kheo bạch Phật. Ðức Phật nhân đó cho tập hợp
Tỳ-kheo Tăng. Ngài bảo các Tỳ-kheo:
-
Các thầy phải phối kiểm lại, hỏi Từ và Ðịa: “Các ông nói Ðà-bà phá hoại phạm
hạnh của em gái các ông là thật hay là hư cấu, đặt điều?
Các
Tỳ-kheo làm theo lời chỉ giáo, hỏi thẳng Từ và Ðiïa vấn đề. Từ, Ðịa trả lời:
-
Ðiều tôi nói là sự thật.
Tăng lại hỏi:
-
Ông thấy khi nào? Thấy chỗ nào? Thấy trong trường hợp nào?
Từ,
Ðiïa trả lời:
-
Tôi thấy chỗ đó, tôi thấy khi đó, tôi thấy như vậy?
Tăng liền hỏi Ðà-bà:
-
Khi ấy thấy ở chỗ nào?
Ðà-baø liền đáp:
- Lúc ấy
tôi ở chỗ kia.
Tăng lại dồn dập hỏi Từ, Ðiïa:
-
Ðịa điểm không tương ứng, thời gian không tương ứng. Tại sao ông nói là chỗ đó,
lúc đó, thấy như vậy?
Tăng lại đem lời thức tỉnh Từ, Ðiïa:
-
Nếu đối trước một Tỳ-kheo có lòng tin kiên cố mà nói láo, thì tội nặng như giết
hại vô số chúng sanh. Còn nếu đối trước một vị mà chánh pháp của vị này rất kiên
cố, đem lời nói láo với vị này, thì tội nặng gấp trăm lần hơn đối với vị có lòng
tin kiên cố. Như vậy, đối với trước Tăng mà cứ lần lữa nói dối, thì tội này của
ông nặng gấp trăm lần vị A-la-hán bị giết. Tăng lại vặn hỏi Từ, Ðịa:
-
Nay Tăng quy tụ về hội họp, không tùy thuộc yêu ghét, giận hờn, si mê, sợ hãi,
thì điều này ông bảo là sự thật hay là hư dối?
Từ,
Ðịa nói:
-
Ðà-bà làm theo yêu ghét, giận hờn, si mê, sợ hãi nên tôi phải nói Ðà-bà như vậy.
Các
Tỳ-kheo bằng lời lẽ nghiêm khắc quở trách, rồi cùng đưa Từ, Ðiïa đến chỗ đức
Phật, trình bày lên Ngài sự việc đã làm rõ.
Trước toàn thể Tăng, Từ Ðiïa thú nhận tội lỗi của mình. Ðức Phật lại quở trách:
-
Hai ông là kẻ ngu si! Tại sao lại dùng sự việc không căn cứ thuộc Ba-la-di để
hủy báng Tỳ-kheo phạm hạnh thanh tịnh? Các ông há không nghe về ba hạng người
đọa vào địa ngục sao? Ðó là:
-
Một là người phạm giới, không có pháp Sa-môn mà tự nhận là mình có, không tu
phạm hạnh mà tự nói mình tu. Với hạng người này là loại giặc trong Phật pháp.
-
Hai là hạng người hành động như vậy, thấy như vậy, lại bảo rằng dâm dục không
phải là điều xấu, rồi làm việc phóng dật.
-
Ba là hạng người dùng vô căn cứ Ba-la-di hủy báng vị Tỳ-kheo thanh tịnh, phạm
hạnh.
Ba
hạng này người chắc chắn đọa vào địa ngục. Tại sao, nay ông lại làm việc ác
này?!
Sau
khi quở trách và vì 10 điều lợi15
cho Tăng chúng, đức Phật kiết giới nghiêm cấm việc này.
BIẾN CHỨNG
Chuyện này xảy ra lúc đức Phật
lưu trú tại thành Vương-xá.
Tỳ-kheo Ðà-bà là bậc thần thông
có oai đức lớn nên nhiều người đến thăm viếng, nghe pháp là chuyện bình thường.
Trong số người này, có Tỳ-kheo ni Thâu-la-nan-đà. Ngày ấy trong cùng một trú xứ,
cô ni ngồi nghe pháp. Ðôi ba phen Từ, Ðiïa nhìn thấy chuyện này và rồi lòng sẵn
ôm hận, Từ, Ðiïa tìm cách xuyên tạc phỉ báng16...
Bữa nọ, từ trên núi Kỳ-xà-quật17
đi xuống, nhìn thấy hình ảnh hai con khỉ đang làm trò khỉ, Từ, Ðịa đắc ý, gán
ghép ngay cho Ðà-bà là con khỉ đực và Thâu-la-nan-đà là con khỉ cái. Hình ảnh
này đã ghim chặt vào lòng hai ông, biến nó trở thành sự thật, họ nói với các
Tỳ-kheo Trưởng lão rằng: “Trước đây chúng tôi vận dụng pháp thiếu cơ sở để hủy
báng Ðà-bà, nay thì không như thế, chính chúng tôi nhìn thấy Ðà-bà cùng với cô
ni Thâu-la-nan-đà làm hạnh bất tịnh”.
Các Tỳ-kheo đem
vấn đề này bạch lên đức Phật. Ðức Phật cho tập hợp Tỳ-kheo Tăng để kiểm vấn.
Trước Tăng, Từ, Ðiïa thẳng thắn nhìn nhận như vầy: “Thật sự chúng tôi không thấy
Ðà-bà làm chuyện bất tịnh nhưng lại Thấy Thâu-la-nan-đà thường lui tới chỗ
Ðà-bà, vì muốn phỉ báng cho hả giận nên mượn hình ảnh hai con khỉ giao hợp mà
chúng tôi thấy trên núi Kỳ-xà-quật đi xuống và liên hệ gán ghép cho con khỉ đực
là Ðà-bà, con khỉ cái là Thâu-la-nan-đà rồi biến gà ra cuốc mà qui kết rằng:
Chính chúng tôi thấy hai người làm hạnh bất tịnh, mà thôi”.
Từ hội đồng Tăng cho đến đức
Phật, Từ và Ðịa bị sự quở trách nặng nề. Sau cùng, đức Phật đã răn cấm như vầy:
“Tỳ-kheo nào, tự thân không như
pháp mà vì giận dữ, ác ý, mượn một sự kiện tách biệt, dùng lấy một khía cạnh nhỏ
hay một khía cạnh tương tự của vấn đề rồi qui kết Ba la di để phỉ báng Tỳ-kheo
không phạm Ba-la-di, nhằm phá hoại phạm hạnh của vị kia. Thời gian sau, Tỳ-kheo
này, hoặc có người chất vấn, hoặc không có người chất vấn, tự thú rằng: Việc này
vì tôi giận hờn nên mượn lấy một sự kiện méo mó để liên hệ qui kết, nhằm phỉ
báng kẻ khác thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa”.
KHOÁI THAY ! KHOÁI THAY !
Có
một thời gian đức Phật ở trong rừng A-nậu, thuộc ấp Di-na18.
Ở đây, các quí tộc thuộc giòng họ Thích, nhiều người đến với đức Phật xuất gia
học đạo. Không bỏ lỡ cơ hội, Thích Ma-nam19,
nói với A-na-luật20:
-
Nay các quý tộc đều xuất gia tu phạm hạnh, tại sao riêng anh em chúng ta không
thực hiện việc này? Nếu ta xuất gia thì em coi ngó việc nhà, còn nếu em xuất gia
thì ta ở nhà lo liệu.
A-na-luật nói:
-
Anh cứ đi xuất gia, em sẽ lo liệu việc nhà.
Thích Ma-nam nói:
-
Trước đây việc nhà có anh lo, em chỉ thụ hưởng sung sướng, đâu có biết gian lao
cực khổ là gì. Tuy nhiên, xuất gia hành đạo, điều cực khổ đâu phải là kém. Nay
em ở nhà thì anh phải chỉ vẽ em phương pháp quản lý gia nghiệp. Hãy nghe anh nói
cách quán xuyến công việc: Ban ngày phải thích ứng với công việc ra sao? Ban đêm
phải đặt kế hoạch thế nào cho khớp? Phương pháp làm ruộng, mua bán, điều hành kẻ
ăn người ở, tất yếu phải khôn khéo dùng lời tác động, theo dõi.
A-na-luật
nghe thế nói rằng:
- Nếu quản lý
gia nghiệp mà phải như vậy mới đạt kết quả, thì một ngày em cũng không thể quản
lý nổi! Thôi thì anh ở nhà, em đi xuất gia vậy.
Thích Ma-nam nói:
-
Pháp của chư Phật Thế Tôn, cha mẹ không cho phép thì không được tu đạo, nay em
muốn xuất gia thì phải đến xin phép mẹ, tự em nói lên ý nguyện này.
Nghe theo lời anh, trước mẹ, A-na-luật giải bày lời xin:
-
Thưa mẹ, con mộ Phật pháp nên muốn xuất gia học đạo.
Bà
mẹ trả lời:
-
Mẹ chỉ có hai anh em con, tình mẹ yêu thương hai con quá sâu đậm, làm sao mẹ,
con có thể sống xa lìa nhau được! Nhà mình rất giàu có, thích hợp với việc tu
công đức con cứ thực hiện việc này, con xuất gia là làm đau lòng mẹ!
Tưởng thuyết phục được con mình, không ngờ A-na-luật vẫn sắt đá với việc xuất
gia. Lần thứ ba, A-na-luật xin phép, bà mẹ đặt vấn đề với con như một điều tiên
quyết, bà mẹ bảo như vầy:
-
Nếu Vua Bạt-đề21
xuất gia thì mẹ cũng đồng ý để con xuất gia.
Ðã
từ lâu Vua Bạt-đề cùng A-na-luật, Nan-đề, Ðiều-đạt, Bà-bà, Kim-bệ-lô.v..v... rất
nặng tình thương mến nhau, nên có việc gì thì cũng đều chung thề không làm trái
ý nhau.
Với
ý của mẹ như thế, A-na-luật đến ngay Vua Bạt-đề, ngõ lời như vầy:
-
Nay tôi có chút ý nguyện, mà ý nguyện này lại gắn liền với lời thề của vua.
Chúng ta đã long trọng thề rằng: Không làm trái ý nhau, nếu làm trái ý nhau
đầu bị vỡ thành bảy mảnh.
Vì thế, nay lời nguyện của vua ắt phải gắn liền với lời thề ấy.
A-na-luật liền đem ý kiến của mẹ mình trình bày lên Vua Bạt-đề.
Nhà
vua nghe rồi, bảo rằng:
- Ý
nguyện này của khanh, ta chưa có thể thực hiện ngay được. Tại sao vậy? Vì ta
nguyện làm vua, cái quả này ta mới bắt đầu. Thân tộc ta giàu sang, chẳng có gì
để lo lắng cả, làm sao có thể bỏ ngay nếp sống này để xuất gia học đạo?!
A-na-luật nói:
-
Nếu vua xuất gia thì nguyện tôi mới toại, tham đắm sự phồn vinh thì tôi phải
trầm luân lâu dài. Xin vua suy nghĩ kỹ, đừng để trái với lời thề trước kia!
Vua
Bạt-đề nói:
-
Tôi sẽ làm theo ý nguyện của bạn nhưng để cho tôi sau 7 năm, tôi sẽ cùng bạn
xuất gia học đạo.
A-na-luật nói:
-
Sau 7 năm chắc gì đức Phật còn tại thế?! Hơn nữa, mạng sống của tôi khó có thể
bảo đảm được đến ngày ấy. Tại sao nay Vua lại nêu ra kỳ hẹn này?
Vua
Bạt-đề nói:
-
Bảy năm, nếu có lâu thì 6 năm không được sao?
A-na-luật cũng trả lời như trên. Vua lại hẹn 5 năm rồi 4, 3, 2 năm, đến còn một
năm, rồi lại hẹn từ bảy tháng đến còn một tháng, từ 7 ngày đến còn một ngày...
đều không được A-na-luật chấp nhận.
Nhà
vua nói:
-
Chúng ta là bậc vương giả, đâu có thể đột ngột ra đi như vậy. Chúng ta cần phải
chuẩn bị đầy đủ phương tiện, xa giá hết sức nghiêm chỉnh, mượn con đường du hành
để thực hiện chí nguyện xuất gia. Bây giờ bạn có thể nói rõ ý định này với
A-nan-đà.v..v...
A-na-luật liền thông tin cho 5 người bạn còn lại. Năm người này rất hân hoan,
tâm đầu ý hợp.
Ngay trong đêm ấy, đội quân tinh nhuệ nhanh chóng hoàn tất nghiêm chỉnh một
chuyến đi. Một thế gian cực kỳ lộng lẫy, oai nghiêm vào lúc trời vừa sáng. Vua,
tôi ra khỏi thành, con đường du hành của nhà vua đang bước sang một ngã rẻ khác,
một sự giải thoát đột biến đến kỳ lạ...
Cuối cuộc du hành thưởng lãm, Ưu-ba-ly - người thợ cạo tóc - được mật báo... Bảy
hoàng thân quốc thích kín đáo rời khỏi đoàn tùy tùng, rồi mất hút trong rừng
sâu, họ ẩn mình trong sự tịch vắng. Những trang phục quí giá trên mình họ, bây
giờ là cái giá để cho người thợ cạo Ưu-ba-ly cạo tóc cho họ. Họ cải đổi y phục
rồi nhanh chóng lên đường xuất gia...
Bảy
người đi chưa bao lâu, Ưu-ba-ly giật mình nghĩ ngợi: “Các hào tộc họ Thích cường
bạo, nếu biết ta cạo đầu cho bảy người này, chắc họ sẽ giết ta. Hơn nữa, các quý
tộc này còn bỏ nhà xuất gia, nay ta tại sao không bỏ đồ nghề hớt tóc và các y
phục quí giá này để xuất gia?”
Không do dự, Ưu-ba-ly tự cạo đầu, rồi đem các y phục quí báu kia treo lên gốc
cây, với ý nghĩ: ai cần thì lấy sử dụng. Ưu-ba-ly đi thật nhanh như muốn chạy,
và không bao lâu đuổi kịp 7 người, Ưu-ba-ly nói:
-
Nay tôi cũng muốn theo quý vị xuất gia.
Bây
giờ, 8 con người bình đẳng nhau trong sự giải thoát. Họ tiến nhanh về khu rừng
A-nậu, nơi đây đức Phật đang chờ đón họ.
Trước Thế Tôn, tám người đầu mặt đảnh lễ sát chân Ngài, họ thưa:
-
Kính bạch đức Thế Tôn, nay chúng con muốn xuất gia tịnh tu phạm hạnh. Riêng đối
với Ưu-ba-ly là người nô bộc của chúng con, xin Ngài độ cho ông ta thọ Cụ túc
giới trước, sau đó mới độ chúng con. Ðiều này cần phải như thế để cho chúng con
và các Thích chủng phá tâm kiêu mạn đối với Ưu-ba-ly.
Ðức
Phật liền độ Ưu-ba-ly, sau đó mới độ 7 người.
Ngay sau lúc độ này, đức Phật có suy nghĩ:: “Ca-duy-la-vệ22
cách đây không xa, các người dòng họ Thích biết được có thể gây trở ngại. Ðức
Phật cùng đưa 8 người đến thành Bạt-đề-la23.
Nơi đây, dưới tàng cây Võng Lâm, đức Phật đã vì họ nói diệu pháp, bao gồm những
vấn đề: Nhãn vô thường, Sắc vô thường, Nhãn thức, Nhãn xúc, Nhãn xúc nhân duyên
sanh thọ vô thường. Cho đến Ý vô thường, Pháp vô thường, Ý thức, Ýù xúc, Ý xúc
nhân duyên sanh thọ vô thường. Các người là Thánh đệ tử nên phải thực hiện quán
sát như vậy, sanh tâm yểm ly, sở đắc trí tuệ giải thoát, chỗ phải làm đã làm
xong, phạm hạnh đã lập, không thọ thân sau...
Sau khi nghe
pháp, có 6 người đoạn hết lậu hoặc, đắc A-la-hán. A-nan vì hầu Phật nên các lậu
hoặc không đoạn hết. Ðiều-đạt, người duy nhất không thu hoạch được điều gì.
Tỳ-kheo Bạt-đề sau khi đắc quả
A-la-hán, tâm vua trong sạch không còn sự lo sợ nào. Hoặc tọa thiền hay kinh
hành, dưới tàng cây hay nơi hoang vắng, tự thân liền được sự vui sướng, thanh
thản, vua đã thốt lên lời:
- Khoái thay! Khoái thay!
Âm thanh này, một Tỳ-kheo khác
nghe được, lại có tác ý, nghĩ rằng: “Chắc Tỳ-kheo Bạt-đề nhớ đến niềm vui thế
tục mà không vui với phạm hạnh nữa!”. Ngay sau đó, vị ấy đến bạch Phật:
- Con đã hướng đến Bạt-đề và nghe
vị này nói: “Khoái thay! Khoái thay!”. Chắc ông ta nhớ lại niềm vui khi còn làm
vua, không thích sống phạm hạnh nữa!
Ðức Phật bảo Tỳ-kheo ấy gọi
Tỳ-kheo Bạt-đề đến. Trước Phật, Tỳ-kheo Bạt-đề đầu, mặt kính lễ sát chân Ngài
rồi đứng qua một bên.
Ðức Phật hỏi Bạt-đề:
- Sự thật ông có nói “Khoái thay” hay không?
- Bạch đức Thế Tôn, thật sự con có thốt lên “Khoái thay”. -
Bạt-đề thưa.
- Ông nói “Khoái thay” với ý nghĩa như thế nào? - Ðức Phật
hỏi.
- Thưa Thế Tôn, lúc trước sống trong cung vua là sống trong
bảy lớp thành vây bọc, bảy hàng voi, bảy hàng ngựa, bảy hàng xe, bảy hàng bộ
binh, bốn binh chủng bao quanh. Ấy vậy, khi nghe một âm thanh khác lạ thì lòng
kinh sợ, lông tóc dựng ngược lên. Nay ở dưới tàng cây, nơi đất trống mà thản
nhiên không một chút lo sợ, cho nên con đã phải nói lớn “Khoái thay” là vậy!
Ðức Phật bảo các
Tỳ-kheo:
- Bạt-đề đã đắc
A-la-hán mà không vui với nếp sống phạm hạnh là điều không có cơ sở. Từ Bạt-đề,
một thực tại của vấn đề lúc bấy giờ mà nhân đó đức Phật nói kệ:
Khoái thay!
A-la-hán
Không còn ân ái buộc
Phá được dục, nhuế, si
Xóa đi lưới kiết sử
Niết bàn đây nơi đến
Nào còn tâm uế trược
Nào nhiễm đắm thế gian
Giải thoát mọi nhiễm ô
Năm uẩn tường tận rõ
Bảy rừng pháp hành du
Chỗ đi con rồng lớn
Chế phục mọi khủng nguy
Thành tựu mười
Chủng đức
Vua đức Tam muội thiền
Mọi hủ lậu đã sạch
Là đệ nhất thế gian
Bất động không sợ hãi
Không nhận lại thân sau
Tịch diệt đều dứt sạch
Khổ, lạc báo hằng không
Vững vàng trí vô học
Thân này, thân sau cùng
Phạm hạnh kiên cố lập
Ðâu điều không thể tin
Khắp cả thế gian này
Còn đâu các dục lạc
Vang lừng sư tử rống
Nào ai hơn đức Phật.
Nhận lời mời của Long vương, đức Thế Tôn cùng các Ðại đức Thanh-văn đến
A-nậu-đạt24.
Ðiều-đạt chưa sở đắc thần thông nên không thể đi cùng. Ðiều này đã làm cho
Ðiều-đạt xấu hổ vô cùng, do vậy, nảy sanh ý nghĩ: “Nay ta cần phải tìm học pháp
tu thần thông”. Trước hết, Ðiều-đạt đến bạch Phật:
-
Cúi xin Phật hãy vì con dạy cho pháp tu thần thông.
Ðức
Phật hướng dẫn. Ðiều-đạt thọ giáo và trong thời gian an cư, Ðiều-đạt đắc thần
thông.
Sau
khi đắc thần thông, Ðiều-đạt nghĩ ngay đến việc khuếch trương thanh thế. Vấn đề
giáo hóa được đặt ra, và ai là người cần giáo hóa trước? Ðiều-đạt nghĩ ngay đến
Thái tử Chúng Lạc25,
con vua Bình-sa. Ðối tượng đã được xác định, lập tức Ðiều-Ðạt-mất dạng khỏi Võng
Lâm...
Trên giường của Thái tử, Ðiều-đạt hiện thành một đứa trẻ nít nằm ngữa, mút ngón
tay. Thái tử thấy thế vô cùng hoảng sợ, hỏi:
- Mi là
trời hay là quỉ thần?
Ðứa
trẻ trả lời:
-
Tôi là Ðiều-đạt, đừng nên sợ chi cả!
-
Nếu là Ðiều-đạt thì nên hiện nguyên hình trở lại. - Thái tử bảo thế.
Ðứa
bé liền biến thành Ðiều-đạt, đầy đủ oai nghi như cũ. Thái tử hoan hỷ trước sự
biến hóa của thầy mình. Tâm niệm kính phục càng lên cao, hằng ngày Thái tử đích
thân đến thăm hỏi, theo liền sau là 500 chiếc xe. Ðiều-đạt lại hóa 500 đứa trẻ
nằm ngữa, mút ngón tay trên mỗi chiếc xe. Thái tử lại dùng 500 chiếc xe chở từng
loại thức ăn sang trọng, ngon lành đến cúng dường...
Bấy
giờ, người các nước không ai là không đồn ầm lên rằng: “Ðiều-đạt có đại thần lực
nên mới biến hóa được như vậy. Vì thế khiến Thái tử Chúng Lạc ngày nào cũng đến
thăm hỏi, cúng dường quá nhiều các loại thức ăn ngon bổ cho Ðiều-đạt”.
Về
phía Ðiều-đạt đã không tự lượng sức mình, nên cứ làm theo ý muốn chiêu dụ, bảo
bọc, nuôi dưỡng đồ chúng. Thanh thế lên như diều gặp gió.
Vào
thời gian ấy, đức Phật rời Võng Lâm đi vào nhân gian hành du hóa độ. Ngài đến
nước Câu-xá-di, trú ngụ trong vườn Cù-sư-la26.
Riêng Mục-liên đi theo Phật đã an trú ở một nơi hoang vắng tịch mịch.
Tại nước
này, trước đây có Kiều-trần-như Tử, tên là Kha-hưu27,
tịnh tu phạm hạnh, đắc quả A-na-hàm, sau sanh lên cõi trời Phạm Thiên28.
Nửa đêm vắng lặng, vị này từ cõi trời xuống, phóng ra ánh sáng rực rỡ, đến chỗ
Mục-liên, đầu mặt kính lễ sát chân rồi có lời thưa báo với Mục-liên như sau:
- Nay
Ðiều-đạt giáo hóa Thái tử Chúng Lạc, hiện các thần thông biến hóa. Tuy vậy,
trong thâm tâm Ðiều-đạt có điều lo sợ nên quyết định thu nhận, nuôi dạy đồ chúng
với ý đồ phá hòa hiệp Tăng.
Vừa dứt
lời thưa, Kha-hưu nhanh như chớp biến mất.
Trời vừa sáng, Mục-liên y phục chỉnh tề, đến thẳng chỗ đức Phật, trình bày lên
Ngài cặn kẽ hành động của Ðiều-Ðạt-mà Kha-hưu đã thưa báo.
Ðức
Phật hỏi Mục-liên:
- Ý
ông thế nào? Có nên xem xét lời của Kha-hưu thưa báo hay không?
- Ý
con là nên như vậy. - Mục-liên thưa.
-
Không nên nói lời ấy, tại sao vậy? Vì khắp thế gian này, Ta không thấy Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên, Ma, Phạm nào có thể thống lãnh đồ chúng của Phật.
Ðức
Phật lại bảo Mục-liên:
- Ở
đời có 5 hạng thầy, hiện nay đều có đủ, đó là:
1.
Giới không thanh tịnh, tự nói thanh tịnh. Các đệ tử của họ đều biết rõ sự thật
này nhưng che giấu tội lỗi của thầy để mong cầu lợi dưỡng.
2.
Tà mạng, siễm khúc, tự nói mình chánh trực. Các đệ tử cũng che giấu điều đó.
3.
Nói điều bất thiện, lại tự cho là lời nói thiện, nên các đệ tử vui mừng cho là
thiện.
4.
Hiểu biết không thanh tịnh, tự nói là thanh tịnh, cho nên các đệ tử hết lời ca
tụng rằng sự hiểu biết ấy là trong sạch.
5.
Nói lời không phải pháp luật, lại nói là pháp luật, nên các đệ tử cũng hùa theo
nói là đúng pháp, vì thế đã không thể thuyết phục được kẻ trí chấp nhận tin
theo.
Này
Mục-liên! Giới của Như Lai thanh tịnh, không siễm khúc, đâu nói lời bất thiện,
chỗ thấy, chỗ hiểu biết thanh tịnh, điều nói ra như pháp, kẻ trí chấp nhận tin
theo, không cần đệ tử hùa theo che giấu và khen ngợi.
Cũng trong thời gian ấy, nguồn thông tin khác đến từ thành Vương-xá, đó là các
Tỳ-kheo sau an cư về thăm Thế Tôn. Các thầy bạch lên Phật sự việc Ðiều-đạt giống
như Kha-hưu đã thưa báo với Mục-kiền-liên. Ðức Phật dạy:
- Này Tỳ-kheo! Ðừøng ham muốn
theo kiểu Ðiều-đạt làm các biến hóa đó..., đến cả lợi lộc cúng dường. Sự cung
kính cúng dường ấy nếu có, nó càng làm tăng gánh nặng tối tăm, thống khổ mà
thôi! Cũng như con chó dữ, dùng gậy đánh nó thì chỉ càng làm cho nó hung dữ hơn
lên. Ðiều-đạt cũng như vậy, nhận được nhiều phẩm vật cúng dường thì phiền não
càng nhanh chóng gia tăng. Ðức Phật vì muốn làm rõ ý nghĩa này nên lập lại vấn
đề bằng lời kệ cô đọng như sau:
Người ngu, ác họ tăng
Ác sanh từ lợi dưỡng
Người si đoạn pháp lành
Như đầu lìa khỏi thân
Không tu hạnh thanh tịnh
Lại muốn chiêu dụ Tăng
Muốn ngồi trên mọi người
Vọng cầu mọi quy kính
Có người cầu lợi dưỡng
Có người cầu Niết bàn
Lợi dưỡng hại pháp lành
Tịch diệt trừ xan tham.
Ðức Phật
lại bảo các Tỳ-kheo:
- Cây
chuối, cây trúc, cây lau do kết trái mà chết. Con Cự Hư
29
mang thai cũng bỏ mạng. Nay Ðiều-đạt tham cầu lợi dưỡng cũng lại như vậy.
Ðức Phật
lại đúc kết nhấn mạnh vấn đề này bằng lời kệ:
Do buồng, cây chuối chết
Do trái trúc,
lau diệt
Cự Hư chết vì thai
Kẻ sĩ mất
vì tham.
Tiếp tục du hóa, đức Phật rời nước Câu-xá-di du hành trên quảng đường dài về
thành Vương-xá. Nơi đây, Ngài trú ngụ trong núi Kỳ-xà-quật. Ngài được các
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Quốc vương, Ðại thần, Sa-môn,
Bà-la-môn, Phạm chí, Cư sĩ, cung kính, tôn trọng, tán thán và cúng dường thức
ăn, y phục, đồ nằm, thuốc men... Giữa bao lợi dưỡng này, Ngài như hoa sen không
hề đắm trước. Lúc bấy giờ, giữa một rừng người đủ mọi giai cấp vây quanh lắng
nghe Phật thuyết pháp. Chộp lấy cơ hội, Ðiều-đạt từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y
phục, để trống vai bên phải, đầu mặt đảnh lễ sát chân Phật, rồi quỳ gối, chấp
tay bạch Phật:
-
Kính bạch đức Thế Tôn, cúi xin Ngài hãy sống trong sự an lạc, mà hôm nay cho
phép con được lãnh đạo, xử lý việc chúng Tăng.
Ðức
Phật nói với Ðiều-đạt:
-
Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên còn chưa thể thống lãnh đồ chúng của Ta, huống chi
ông là kẻ ngu si, chẳng khác nào loại đờm dãi.
Bị quở
trách như vậy, Ðiều-đạt lòng đầy phẩn hận, lại nghĩ suy: “Tại sao đức Thế Tôn
đối trước đại chúng lại nhục mạ ta thậm tệ như thế!” Khởi ác tâm nhằm vào đức
Phật nên Ðiều-đạt bắt đầu tổn giảm thần túc. Ðiều-đạt lại nghĩ rằng: “Ðức Phật
khen ngợi Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên mà nhục mạ ta”. Lần nữa, Ðiều-đạt sanh ác
tâm đối với Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, nên thần túc của Ðiều-đạt lại bị tổn
giảm lần thứ hai. Ðiều-đạt trở về nơi cư ngụ của mình. Ðiều-đạt lại thuyết pháp,
vây quanh nghe, có quốc vương và đông đảo quần chúng. Có một Tỳ-kheo tham dự
buổi thuyết pháp này, đến bạch lên Phật những điều mắt thấy tai nghe. Ðức Phật
bảo:
-
Này Tỳ-kheo! Ðiều-đạt không những đời này có được đại chúng, mà đời quá khứ đã
từng có được số đông Tỳ-kheo vây quanh. Ðời quá khứ xa xăm ấy, có một Ma-nạp30
ở trong hang núi, tụng sách Sát-lợi31.
Một con cáo rừng ở cạnh đó, chuyên chú nghe tụng sách này nên trong tâm có được
điều tỏ ngộ. Qua sự tỏ ngộ cáo rừng nói lên: “Như chỗ ta hiểu lời văn trong sách
này thì đủ để làm vua trong các loài thú”. Với ý niệm ấy, cáo rừng liền lên
đường. Trên đường du hành, gặp một con cáo rừng khác gầy yếu, nó muốn giết đi.
Con cáo kia nói:
-
Tại sao muốn giết tôi?!
- Ta là
vua loài thú, ngươi không thần phục ta thì bị giết ngay. - Cáo rừng kia nói thế.
-
Xin ông đừng giết tôi, tôi xin làm kẻ tùy tùng ông. - Con cáo gầy yếu van xin.
Thế
là hai con cáo lại tiếp tục lên đường. Lại gặp một con cáo khác và sự việc xảy
ra giống như con cáo yếu đuối trước đây. Cả ba lại lên đường. Cứ như thế, suốt
con đường vua cáo rừng đi qua, nó hàng phục được tất cả loài cáo. Sau đó, sử
dụng bầy cáo của mình để hàng phục loài voi. Lại dùng loài voi hàng phục tất cả
họ hàng nhà cọp. Lại dùng loài cọp hàng phục tất cả sư tử. Con cáo kia lâm thời
làm vua trong các loài thú. Ðã được ngôi vua rồi lại nảy sanh ý nghĩ: “Nay ta đã
là vua trong loài thú thì không nên lấy loài thú làm vợ”. Nó nghĩ ngay đến con
gái vua thành Ca-di32.
Nó phải hàng phục vua để được công chúa.
Ngồi trên lưng con voi chúa trắng, cáo ra lệnh xuất binh, các binh chủng thú
đồng loạt vây hãm thành Ca-di đến ngàn vòng.
Nhà
vua đứng trước sự uy hiếp kinh hoàng này liền sai sứ đến hỏi:
-
Các ngươi là loài thú, tại sao lại hành động như vậy?
Cáo
rừng vua liền trả lời:
-
Ta là vua các loài thú, nên cần cưới con gái nhà vua. Nếu ông thuận ý ta thì mọi
sự tốt đẹp, bằng không ta sẽ tiêu diệt nước ông.
Sứ
thần về báo cáo với vua sự việc nguy kịch nạn như thế. Nhà vua liền triệu tập
quần thần để nghị bàn, cùng tìm ra một giải pháp. Ý kiến gả công chúa cho vua
cáo chiếm đại đa số. Với lý giải hèn kém như vầy: “Bởi lẽ, quốc gia chỉ dựa vào
sức mạnh của voi, ngựa. Ta có đủ voi, ngựa mạnh, nhưng sức mạnh này sẽ bị đè bẹp
bởi sức mạnh sư tử của đối phương. Voi, ngựa chỉ cần nghe rống khí của sư tử là
run rẩy, bò mọp. Do vậy, cuộc chiến không thắng được, đất nước sẽ bị loài thú
tiêu diệt. Sao lại tiếc một công chúa, không chịu gả để cho nước nhà bị tiêu
vong?!”
Ðứng trước lập luận này, độc nhất có một vị thần phản đối. Vị thần thông minh,
mưu lược này tâu với vua rằng:
-
Xưa nay, thần chưa hề nghe thấy có mọât con gái của nhà vua nào đem gả cho loài
thú thấp hèn cả. Thần tuy yếu đuối, nhưng thần xin quyết giết cho kỳ được con
cáo chủ soái kia, như thế là phá tan được hàng hàng, lớp lớp thú đang vây hãm
thành Ca-di.
Nhà
vua hỏi:
-
Mưu kế ra sao, khanh đề xuất cho trẫm rõ?
-
Nhà vua sai sứ hẹn chúng ngày đánh nhau, và trước khi giao chiến yêu cầu vua thú
chấp nhận một điều, là ra lệnh sư tử đánh trước rồi mới rống sau. Chúng nó tưởng
ta sợ nên nhất định ra lệnh cho sư tử rống trước đánh sau. Và đến ngày ấy nhà
vua sắc lệnh cho quân ta nhét kín lỗ tai lại. - Vị đại thần ấy kiến nghị như
vậy.
Nhà
vua chấp nhận ý này, và cho thi hành ngay mưu kế thông minh của vị đại thần kia.
Ðến
ngày hẹn đánh nhau, quân hai bên giàn trận. Vua cáo ngồi trên bạch tượng thật
oai phong, lẫm liệt. Ðến giờ, vua cáo ranh mảnh ban lệnh: “ Lệnh cho toàn bộ sư
tử rống lên trước rồi mới giao chiến”. Tiếng rống sư tử rống lên như sét đánh
giữa trời. Nghe tiếng rống ấy, con cáo rừng “vĩ đại” kia tim vỡ làm 7 mảnh, ngã
nhào từ lưng voi xuống đất, chết không kịp ngáp. Và cũng tiếng rống của “binh
lính” sư tử làm cho các loài thú khác khiếp cả hồn vía, nhanh chóng tán loạn,
bôn tẩu.
Nhân việc này, đức Phật nói kệ:
Cáo đồng lắm kiêu mạn
Muốn tìm cầu vây cánh
Kéo đến thành Ca-di
Tự xưng là vua thú.
Người kiêu mạn cũng vậy
Muốn thống lãnh đồ chúng
Nên tại Ma-kiệt-đà
Tự xưng là Pháp chủ.
Ðức Phật
bảo các Tỳ-kheo:
- Vua
Ca-di thuở ấy, nay chính là Ta. Vị đại thần thông mẫn ấy, nay chính là
Xá-lợi-phất. Vua cáo rừng kia là Ðiều-đạt hiện nay.
Này
các Tỳ-kheo! Xưa kia Ðiều-đạt dối trá để được thuộc hạ, vây cánh, thì nay cũng
chẳng khác nào.
Này
Xá-lợi-phất! Ông nên đến trong chúng của Ðiều-đạt công bố lời này: “Ai chấp nhận
5 pháp của Ðiều-đạt thì người ấy sẽ không thấy Phật, Pháp, Tăng”.
Tôn
giả Xá-lợi-phất thưa:
-
Xưa kia, con đã từng khen ngợi Ðiều-đạt, làm sao nay con lại chê bai được?
Ðức
Phật lại hỏi:
-Trước kia ông khen ngợi là đúng sự thật hay không?
-
Thưa Ngài là đúng sự thật. - Xá-lợi-phất đáp.
-
Nay, Ðiều-đạt là người đáng chê, ông chê cũng là đúng sự thật. - Phật dạy
Xá-lợi-phất.
Ðức
Phật bảo các Tỳ-kheo:
-
Nay, nên bạch nhị Yết-ma, sai Xá-lợi-phất đến trong chúng của Ðiều-đạt tuyên bố
lời chê trách này.
Tăng thi hành lời Phật dạy và Xá-lợi-phất thi hành đúng Yết-ma Tăng sai. Giữa
chúng của Ðiều-đạt, Xá-lợi-phất dõng dạc tuyên bố:
-
Nếu vị nào chấp nhận 5 pháp của Ðiều-đạt thì sẽ không thấy Phật, Pháp, Tăng.
Nghe Yết-ma này, hội chúng của Ðiều-đạt phản ứng ngay, họ nói lớn:
-
Sa-môn Thích tử lại ganh ghét với nhau, thấy Ðiều-đạt nhận được nhiều phẩm vật
cúng dường nên ganh ghét nói như vậy mà thôi!
Tuy
nhiên, vua Bình-sa cũng ở trong hội chúng này, lại tuyên lệnh rằng: Ðừng nên nói
lời ấy. Tại sao vậy? Bởi lẽ chúng đệ tử Phật thanh tịnh, không hề có sự ganh
ghét như thế.
Ðể
cắt ngang việc này, Ðiều-đạt hỏi trong chúng rằng:
-
Ai muốn thấy hoa Mạn-đà-la33
trên cõi trời?
Cả
chúng hội đồng thanh:
-
Muốn thấy!.
Trước hội chúng, Ðiều-đạt biến
mất dạng... Bên hồ A-nậu-đạt trên trời, trong ý niệm ham thích bẻ lấy hoa
Mạn-đà-la, Ðiều-đạt liền mất sạch thần túc.
Trở về lại vị
trí cũ, không một cành hoa, lại mất luôn thần túc, Ðiều-đạt sanh ác tâm muốn hại
đức Phật, và ý đồ này được dàn trải trên một diện rộng.
Ðiều-đạt đặt vấn đề với Thái tử
Chúng Lạc:
- Nay phụ vương của Ðiện hạ là
vua Bình-sa cai trị bằng chánh pháp, theo chỗ tôi hiểu thì triều đại của vua cha
khó suy tàn. Mạng người vô thường, khó bảo đảm được hơi thở sau. Tại sao cái
vương vị này lại kéo dài thời gian để Ðiện hạ phải chờ đợi lâu như vậy? Ðiện hạ
thể mưu đồ sớm chiếm lấy ngôi vua mà nắm lấy bốn biển. Phần tôi, tôi sẽ hại
Phật, thay thế ngôi Pháp vương. Trong nước Ma-kiệt-đà này, sẽ có vua mới, Phật
mới, chúng ta đủ cơ hội để cùng nhau hoằng hóa đạo, đời. Há đây không là điều
tốt sao?
Thái tử trả lời:
- Công ơn cha mẹ lớn hơn trời
đất. Công ơn nuôi dưỡng trời bể ấy tôi muốn báo đền nhưng chưa đền đáp được, tại
sao nay thầy lại chỉ lối cho tôi làm điều nghịch ác như vậy?!
Ðiều-đạt nghe thế mà lòng vẫn
không biết xấu hổ, lại cứ dùng lời điêu ngoa, xảo quyệt để khuyên dụ Thái tử,
nhận chìm Thái tử trong sự mê muội tối tăm, lần lựa làm cho Thái tử mù quáng,
xiêu lòng, mất tự chủ để trở thành con cờ điều động của Ðiều-đạt.
Ngày nọ, Thái tử bí mật mang
gươm đi vào cửa vương cung. Vì ôm lòng ác độc, phản nghịch nên bất giác bị giằng
xé hoảng sợ, lảo đảo té nhào trước vương cung rồi tự gượng đứng lên. Quan giữ
cửa thấy vậy sinh nghi, nhanh trí suy đoán rằng: “Thái tử thường vào đây với oai
nghi đỉnh đạc, tại sao hôm nay lại có hiện tượng như thế, chắc có lý do gì?”
Quan giữ cửa vội vàng đến hỏi thì Thái tử trả lời không chút do dự:
- Tôi muốn giết vua cha nên mới
như thế này!
- Ai xúc giục Thái tử làm phản?
- Quan giữ cửa hỏi.
- Ðiều-đạt. - Thái tử đáp.
Các quan giữ cửa liền họp lại
bàn định:
- Nên giải quyết sao đây?
- Nên giết sạch Sa-môn và Thái
tử Chúng Lạc. - Quan thứ nhất nêu ý kiến.
- Trước đây đức Phật sai
Xá-lợi-phất tuyên bố sự ác nghịch của Ðiều-đạt, tại sao lại muốn giết hết
Sa-môn? Chính tội này chỉ có Ðiều-đạt và Thái tử chịu trách nhiệm. - Ðó là ý
kiến của vị quan thứ hai.
- Chúng ta không nên vội phán
quyết tội này, cần phải tâu lên nhà vua. Nhà vua có sắc chỉ, ta sẽ thừa lệnh thi
hành. - Vị quan thứ ba đề nghị như thế.
Chung quyết
lại, các quan thống nhất tấu trình việc này lên nhà vua.
Nghe tấu trình, nhà vua không
chút biến đổi, lại hỏi:
- Chư thần! Ðối với việc này, ý
kiến của các ông giải quyết sao đây?
Các quan liền trình bày đầy đủ
ý kiến đã thảo luận. Nhà vua liền đuổi quan có ý kiến thứ nhất, cắt chức vị quan
thứ hai và trao thêm quyền hạn cho vị quan đề xuất ý kiến thứ ba. Nhà vua lại
cho triệu tập quần thần để lấy ý kiến về việc này. Các quan đều có nhận định
chung rằng: “Vị quan đề xuất ý kiến thứ hai là hợp lý mà nhà vua còn giáng cấp
bậc, xem thế thì rõ thánh tâm của Vua. Vua không nhẫn tâm nhìn thấy sự sát hại.
Với hình phạt chính đã không áp dụng thì phải dùng hạ kế”.
Các quan nói:
- Người thừa kế ngôi vua không
ai ngoài Thái tử. Nay Thái tử muốn tiếp nhận sớm ngôi vua ấy nên mới làm phản
nghịch. Nên trao ngay ngôi vị vua cho Thái tử thì hy vọng ác tâm kia sẽ chấm
dứt. Ý kiến này hợp với lòng Vua, vua liền thoái vị, truyền ngôi cho Thái tử,
với vương hiệu A-xà-thế.
Buổi đầu ở ngôi vua, A-xà-thế
thụ hưởng 5 thứ dục lạc nên tâm sát nghịch vua cha tạm thời quên đi, nhưng sau
một thời gian ngắn, tâm ấy lại bị tác động khởi lên, cho dù không có việc gì xảy
ra, A-xà-thế vẫn hãm hại phụ vương nơi lao ngục.
Bấy giờ, Vua A-xà-thế có một con
voi rất hung hãn, Ðiều-đạt bí mật đến gặp người nài voi ấy với lời đề nghị đầy
áp lực:
- Ngày mai Cù Ðàm sẽ đi qua con
đường này. Ông vì tôi phục rượu cho con voi thật say, rồi thả nó ra nơi đoạn
đường ấy. Phật với tâm nhiều kiêu ngạo ắt sẽ không tránh nó, do đó, voi say dày
đạp chết. Tôi sẽ hậu tạ ông nếu có kết quả.
Sáng hôm sau đến giờ khất thực,
đức Phật đắp y, trì bát cùng 500 đệ tử vào thành. Từ xa đã trông thấy Phật,
người nài voi liền thả con voi đã say mèm ra đường. Nhìn thấy hiện tượng bất
thường này, những người có lòng tin, yêu mến Phật pháp, sợ Phật bị voi hại, liền
hối hả đến trước bạch Phật:
- Cúi xin Thế Tôn nên đi con
đường khác.
Năm trăm đệ tử và A-nan cũng đều
bạch Phật như vậy.
Song sau ba lần thưa thỉnh của
đệ tử, Phật đều trả lời:
- Không can chi! Rồng còn không
hại ta, huống nữa là voi.
Các đệ tử thấy Phật vẫn bình
tĩnh, nhưng họ hoảng sợ và do phản xạ tự nhiên, họ đều rời Phật đi sang đường
khác, chỉ một mình tôn giả A-nan đi theo hầu sát Phật mà thôi.
Lúc ấy, người hiếu kỳ càng lúc
càng đông dần, từng nhóm đông kháo nhau:
- Nay hai con rồng thử sức, xem
con nào hơn.
Nhóm ngoại đạo thì nhận định:
- Voi, rồng sức đều mạnh, nhưng
phần thắng chắc là voi thôi.
Hàng Phật tử thì nói:
- Người rồng, đạo cao đức trọng,
chắc hàng phục được voi. Hãy đợi đấy!.
Lời qua tiếng lại suông chẳng
ích gì, họ lại cá nhau bằng tiền và chờ kết quả ăn thua. Họ chờ đợi đến nghẹt
thở...
Hai sức mạnh như đang tiếp cận
nhau. Từ xa đã nhìn thấy Phật, con voi say đập tai, cất cao vòi như tạo ra một
sức gió mạnh, xông thẳng về phía đức Phật. Tôn giả A-nan hoảng hốt, khiếp sợ,
bất giác chui ngay vào nách Phật. Ðức Phật lại bảo khẻ với A-nan:
- Này A-nan ! Vừa rồi chính ông
đã nghe ba lần Ta nói: “Không hề chi”. Tại sao không tin mà còn hoảng sợ đến
thế?!
Ðức Phật thấy
con voi tiến tới, Ngài liền nhập Từ tâm Tam muội và nói kệ:
Ngươi đừng hại Ðại Long
Ðại Long ra đời khó.
Nếu ai hại
Ðại Long
Ðời sau đoạ ác đạo.
Nghe bài kệ
rồi, con voi dừng lại, cúi xuống đưa vòi ra trải lên đất, ôm chân đức Thế tôn.
Ðộng tác này được lập lại 3 lần như biểu lộ sự kính cẩn cao độ. Nó chiêm ngưỡng
Phật từ trên xuống dưới, rồi đi quanh bên phải Phật ba vòng, sau đó, voi đi lùi
lại rồi ra đi. Ðược biết, từ đó về sau con voi trở nên hiền lành. Thật là một
điều kỳ lạ!
Mọi người đồng thanh khen ngợi:
- Sa-môn Thích tử không dùng
đao, gậy... mà hàng phục được con voi hung tợn này. Kỳ diệu thay! Người dân
trong nước không còn bị sự khủng bố của voi. Kỳ diệu thay!
Các ngoại đạo không ai không lấy
làm xấu hổ. Còn đối với hàng đệ tử Phật thì hớn hở vui mừng, sung sướng, hảnh
diện... Kiểm thu số tiền thắng cược lên đến bảy mươi vạn...
Sau khi hàng phục được voi, đức Phật lại nói kệ:
Voi say đầy
sân nhuế
Tiến về đấng Ðạo sư
Trăm họ đều thấy rõ
Hơn thua tiền cược nhau
Voi to tựa Thái Sơn
Sáu mươi voi nào bằng
Vang dội rúng lòng người
Rống lên địch quân phá
Ðại lực của Ðạo sư
Thương chúng sanh, xuất thế
Muốn độ con voi dữ
Trước nó Ta đứng yên
Voi lạy mọi người thấy
Ðạo, đời đều vui mừng
Khen Ta hàng voi dữ
Phật là sư tử vương.
Chứng kiến sự
thất bại của mình, ác tâm của Ðiều-đạt lại lồng lộn. Ông ta suy nghĩ: “Nay hại
Phật bằng cách thức này không thắng được, thì nên tìm một hung thủ khát máu,
không biết Phật là ai, thuê nó thật nhiều tiền là có thể hạ thủ được”. Lập tức,
Ðiều-đạt đi khắp nơi tìm kiếm cho ra con người “lý tưởng” này. Ðiều-đạt dò la và
gặp một người đàn ông “đúng tướng”, có thân hình vạm vỡ, dữ dằn. Ðiều-đạt đề
nghị:
- Ông vì tôi
giết Phật, bao nhiêu tôi cũng hậu tạ.
Người kia ham
của, chấp nhận ngay.
Bấy giờ, đức
Phật đang kinh hành nơi đất trống, Ngài nhìn thấy hung thủ đang tiến dần về phía
mình. Ngài vận dụng Từ tâm Tam muội phủ xuống khắp người này rồi đưa tay vẫy
gọi. Như bị thôi miên, hung thủ buông dao trong trạng thái không ý thức. Như đi
theo sự chỉ dẫn, hung thủ tiến gần đến Phật rồi sụp lạy sát chân Ngài. Hung thủ
ngẩng lên nhìn Phật rồi tha thiết thưa rằng:
-
Hiện con là người si cuồng, muốn hại đức Thế Tôn. Con tự biết tội nặng, cúi xin
Ngài gia ân cho con xin sám hối.
Ðức
Phật dạy:
- Ông thật là người ngu si nên
mới ham tiền mà hại đức Như Lai. Trong giáo pháp Ta, nếu người biết có tội mà
sám hối thì sẽ tăng trưởng căn lành.
Ðức Thế tôn lại nói pháp để độ
ông ta. Ngài phân tích việc bố thí, vấn đề trì giới, vấn đề sanh Thiên, vấn đề
nhiễm ô của kẻ tại gia và vấn đề an vui của người xuất thế. Tâm hồn hung thủ như
trút hết gánh nặng, vui mừng hiện rõ lên. Ðức Thế Tôn biết rõ điều đó nên lại vì
ông ta, Ngài nói về các pháp Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Nghe các pháp này, ông ta liền
tỏ ngộ, xa lìa cấu trần, sở đắc con mắt pháp trong sạch. Thấy pháp, đắc quả rồi,
ông ta xin quy y Tam bảo, thọ trì 5 giới.
Ðức Phật bảo ông ta trở về bằng
con đường khác, vì Ðiều-đạt đã thuê hai người đón đường cũ để giết người này, vì
muốn bịt kín tiếng xấu ác.
Ðâu phải dừng lại ở thất bại
này, Ðiều-đạt còn thuê 4 người rồi 32 người và lần nào cũng thất bại.
Tất cả người Ðiều-đạt thuê để
hại Phật, đều đến trước Phật sám hối và được Phật độ. Họ cũng chứng quả
Tu-đà-hoàn như người đầu tiên đến hại Phật.
Nếp sống chư Phật là cứ mỗi sáng
lúc mặt trời mọc, rời phòng ra ngoài trời. Sáng hôm ấy, đức Phật bước ra khỏi
phòng và thấy ngay các Tỳ-kheo cầm dao, gậy đứng hai bên. Ngài liền hỏi:
- Vì lý do gì các thầy cầm đao,
gậy đứng ở đây?
Các Tỳ-kheo thưa:
- Chúng con nghe Ðiều-đạt thuê
người hại Phật, không an tâm, nên tổ chức canh giữ khắp nơi trong trú xứ, kể cả
nơi đây.
Ðức Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Như Lai mà bị hoạnh tử là điều
không thể xảy ra. Năm hạng thầy ở đời mới cần sự hộ vệ, chứ Như Lai thì không,
các thầy cứ an tâm đâu về đó, tự bảo hộ lấy tâm mình.
Gián tiếp không giết được Phật
thì phải trực tiếp, Ðiều-đạt tìm được một người đi với mình rồi cùng leo lên núi
Kỳ-xà-quật. Khi ấy, đức Phật đang kinh hành trên một tảng đá ở phía dưới núi.
Ðiều-đạt nhìn thấy, vội vã sai người kia xô đá tảng xuống hại Phật nhưng người
này vừa vận dụng tâm xô thì tay chân của y bủn rủn, không cử động được. Tâm ác
của y nhanh chóng đổi thay, ý niệm lại nghĩ về Phật, về đức độ bao dung to lớn
của Ngài. Với tâm niệm ấy, tay chân ông ta bình phục như cũ. Ðiều-đạt thấy vậy
quát:
- Tại sao ngươi vô dụng đến thế!
Cút ngay cho khuất-mắt ta!
Nhanh chóng, Ðiều-đạt liền tự
tay đẩy một tảng đá lớn xuống chỗ Phật. Ðá lăn ào ào thì ngay lúc ấy Thần núi
tên là Kim-bính-lô34
xuất hiện, đỡ hòn đá ném ra ngoài xa nhưng có một mảnh vỡ nhỏ văng trúng ngón
chân Phật, làm ngón chân Ngài chảy máu. Ðức Thế Tôn chứng kiến hành động như
thế, Ngài liền nói với Ðiều-đạt:
- Nay ông phạm phải việc Vô
gián. Nếu ai với ác tâm làm cho thân Phật bị chảy máu thì chắc chắn đọa vào Vô
gián A-tỳ điïa ngục...
Ðiều-đạt lại tự nghĩ như vầy:
“Ta đã không thể hại được Phật, nhưng phá hòa hợp Tăng liệu không được sao? Ta
thực hiện được việc này thì dù Phật có đại thần lực, uy danh của ta lại càng
chấn động khắp nơi”. Ðức Phật biết ý đồ đó, liền chận ngay Ðiều-đạt:
- Ông chớ nên phá hòa hợp Tăng.
Nếu Tăng bị phá và ai có thể làm hòa hợp lại thì người đó sẽ được sanh lên cõi
trời. Họ nhận lấy một kiếp vui. Còn người nào phá hòa hợp Tăng thì người đó phải
đọa vào địa ngục một kiếp khổ.
Ðiều-đạt nghe Phật can răn như vậy, tâm ác của ông chùng xuống và ý đồ phá Tăng
tạm gác lại, nhưng sau một thời gian tâm ác ấy lại nổi dậy. Ðức Phật lại khuyên
can Ðiều-đạt như trước bằng lời kệ:
Chúng Tăng hòa hợp vui
Hòa hợp thường an ổn
Ai phá hòa hợp Tăng
Một kiếp địa ngục
khổ
Chúng tăng hòa hợp vui
Hòa hợp thường an ổn
Hàn gắng tăng bị phá
Thọ vui một kiếp trời.
Nếu chia rẽ riêng biệt
Thường nói lời bất thiện
Ðể phá hòa hợp
Tăng
Một kiếp địa ngục khổ.
Không chia rẽ riêng biệt
Thường hay nói lời lành
Ðể hàn gắn Tăng phá
Thọ vui một kiếp trời
Ðiều-đạt nghe
rồi, tạm thời bỏ tâm phá Tăng nhưng thời gian sau tâm ấy lại sống dậy mạnh hơn
trước. Các Tỳ-kheo nghe Ðiều-đạt rấp tâm phá hòa hiệp Tăng, liền đến bạch Phật.
Phật cho tập hợp Tỳ-kheo Tăng khiển trách Ðiều-đạt và lời khiển trách này được
Tăng chuyển đến Ðiều-đạt. Ðức Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Nên sai một Tỳ-kheo thân tình
với Ðiều-đạt đến khuyên can lời như vầy: “Thầy đừng phá hòa hợp Tăng, đừng làm
việc phá Tăng, nên cùng Tăng hòa hợp, Tăng hòa hợp nên được hoan hỷ không tranh
cãi, một lòng, cùng học hỏi như nước với sữa hòa hợp. Cùng nhau phát huy lời
thầy dạy về hạnh an lạc”. Nếu Ðiều-đạt thuận lòng thì tốt, bằng không thì sai
một số đông đến khuyên can. Nếu Ðiều-đạt không nghe theo thì Tăng nên đến can
gián.
Tăng thực hiện lời dạy này đến
lần thứ ba nhưng Ðiều-đạt vẫn ngoan cố phá Tăng như nhằm trả đũa lại Phật.
Do bởi sự ngoan cố này mà điều
giới về việc phá hòa hợp Tăng được Phật tuyên bố trước Tăng nhằm loại trừ, về
lâu về dài, sự phá hòa hiệp Tăng.
MỘT BÈ GỖ HƯ
Ðiều-đạt phá hòa hiệp tăng không
phải không có bè cánh yểm trợ. Có một số Tỳ-kheo tại thành Vương-xá đã nói ra
lời tán trợ Ðiều-đạt như vầy: “Những gì Ðiều-đạt nói là Ðiều-đạt biết, chứ chẳng
phải không biết mà nói, nói đúng pháp chứ chẳng nói phi pháp, nói đúng luật chứ
chẳng nói sai luật. Chúng tôi chấp nhận và vui mừng”.
Các Trưởng lão Tỳ-kheo nghe luận
điệu như vậy đã có lời quở trách, can gián đôi ba phen nhóm Tỳ-kheo này song các
thầy vẫn ngoan cố. Việc này được các Tỳ-kheo trình lên Phật, lúc Ngài đang lưu
trú tại thành Vương-xá.
Trước Tăng đức Phật kiết giới
như sau:
- Tỳ-kheo nào yểm trợ việc phá
hòa hiệp Tăng, hoặc một, hoặc hai, hoặc số đông, nói với các Tỳ-kheo rằng:
Tỳ-kheo này nói ra vấn đề gì là biết rõ vấn đề đó chứ chẳng phải không biết mà
nói. Nói đúng pháp chứ không nói phi pháp, nói đúng luật chứ không nói sai luật.
Những gì Tỳ-kheo này đề cập chúng tôi chấp nhận và vui mừng. Trước luận điệu
này, Tăng phải khuyên bảo Tỳ-kheo ấy: “ Thầy đừng nói những lời như thế. Vì sao
vậy? Bởi vì Tỳ-kheo chủ trương phá Tăng kia xuyên tạc chẳng nói đúng vấn đề. Nói
không đúng pháp, không đúng luật. Các thầy chớ nên vui thích yểm trợ Tỳ-kheo kia
phá hòa hiệp Tăng, nên vui vẻ yểm trợ làm cho Tăng hòa hợp. Tăng hòa hợp là có
niềm vui có sự hoan hỷ, không xảy ra tranh cãi. Một lòng cùng nhau học tập như
nước hòa với sữa, cùng nhau mở rộng hạnh an lạc mà Ðạo sư đã truyền dạy.” Can
gián lời như vậy mà đương sự ngoan cố không sửa đổi thì nên can gián lần thứ
hai, lần thứ ba. Lần thứ hai, lần thứ ba can gián mà bỏ yểm trợ thì tốt, không
bỏ thì phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa35.
MỘT XA-NẶC TRỜI ÐẤT
Chuyện này xảy ra lúc đức Phật
lưu trú tại nước Câu-xá-di.
Tỳ-kheo Xiển-đà36
là một cự phách trong nhóm “Lục quần”. Có những đặc điểm như vầy:
-Vào nhà Cư sĩ
mặc tình nằm ngồi không đúng pháp, thiếu tế nhị.
- Ăn riêng chúng, ăn phi thời
- Không cần
thưa với thiện Tỳ-kheo khi vào xóm làng.
Các Tỳ-kheo thấy tế hạnh của
Xiển-đà như vậy nên có lời chỉ trích:
- Thầy phạm phép tắc như vậy là
có tội. Thầy phải nhìn thấy sự sai phạm của mình mà sửa đổi sám hối, đừng đánh
mất sự thanh tịnh đối với việc tu phạm hạnh. Không lẽ thấy sống mãi với sự tối
tăm, tội lỗi này mà chịu sự khổ não sao? Sao đành làm cho các thí chủ mất hết
công đức?
Xiển-đà trả lời:
- Ðại đức! Các thầy không nên dạy
tôi, tôi dạy các thầy mới phải. Tại sao vậy? Tại vì Pháp Vương Thánh Sư (Thế
Tôn) là chủ của tôi, phép tắc tôi rút ra từ đó, không dính dự gì đến các Ðại
đức. Giống như có trận gió lớn thổi qua, các thứ rác rưởi dơ bẩn tập trung lại
một chỗ. Tất cả các Ðại đức bao gồm nhiều dòng họ, nhiều gia đình, nhiều quốc
gia xuất gia thì cũng tập trung lại nhiều thứ như vậy. Tại sao các thầy lại muốn
răn dạy tôi?! Này các Ðại đức! Ðừng nói với tôi điều gì, hoặc tốt, hoặc xấu, tôi
cũng không nói điều gì hoặc tốt, hoặc xấu với Ðại đức.
Các thầy Tỳ-kheo lại nói với
Xiển-đà:
- Thầy đừng tự cao! Lẽ nào thầy
không dùng lời để cộng tác với chúng tôi. Thầy nên nói với các Tỳ-kheo những
chuyện tốt, xấu. Các Tỳ-kheo cũng nên nói chuyện với thầy những điều tốt xấu. Sự
trao đổi, chỉ giáo cho nhau rộng rãi như vậy sẽ làm chuyển đổi, loại ra các dạng
tội lỗi, như thế mới có thể làm nên chúng Tăng của đức Như Lai.
Các Tỳ-kheo can gián, phân giải
như vậy, song Xiển-đà vẫn ngoan cố không bỏ thói xấu ấy, nên các Tỳ-kheo cùng
đưa Xiển-đà đến chỗ đức Phật, trình bày rõ sự việc lên Ngài.
Trước Tăng, để làm rõ vấn
đề, Phật hỏi lại sự việc đã xảy ra, và được Xiển-đà xác nhận:
- Thưa Thế Tôn,
sự thật con có hành động như vậy.
Ðức Phật lại quở trách Xiển-đà:
- Ông là người ngu si, tại sao
ông nói không thể dùng lời hợp tác xây dựng nhau? Các thầy Tỳ-kheo thấy ông phạm
tội, nên không muốn cùng ông Bố tát, Tự tứ, Yết-ma làm công việc của Tăng. Vì
thế, dũ lòng thương quở trách, can gián ông, tại sao ông không nghiêm chỉnh chấp
nhận?!
Sau khi quở trách, đức Phật kiết
giới nhằm chận đứng tội lỗi, đem lại lợi ích cho chúng Tăng bất luận là thời
gian nào.
ÐUỔI RA KHỎI ẤP
Lúc
bấy giờ, nơi ấp Kiết-la37,
là một ấp ven thành Xá-vệ, có hai Tỳ-kheo, một người tên là An-bệ, người thứ hai
tên là Phân-na-bà38,
làm nhiều việc xấu, không đúng tư cách của người xuất gia, như: đến nhà ai thì
làm cho người ta mang tiếng xấu, hành động không đúng oai nghi, tự kết tràng hoa
đeo lên mình, hay chỉ cho người kết tràng hoa để họ đeo lên người, cùng với
người nữ ngồi một giường, ăn một mâm, ăn thịt, uống rượu, ca múa, đờn hát. Lại
giả làm âm thanh các loài chim, giả làm chim đá nhau. Khi thì bài bạc, khi thì
đi ngã nghiêng như người say, khi thì cười hi hí, khi thì ném bắt, chỉ tay nheo
mắt, làm các trò hề để treo ghẹo người nữ... Thân, khẩu, ý của họ hiện hành
những việc xấu như thế và như thế là phá giới, phá kiến, phá oai nghi chánh
mạng...
Lúc đó,
có 500 Tỳ-kheo oai nghi hoàn hảo từ nước Ca-di đến ấp này. Ðến giờ trì bát, họ
chia nhau vào thôn khất thực. Thấy các nhà sư, các Cư sĩ cay đắng thốt lên:
-
Các Tỳ-kheo này từ đâu đến? Sao lại cúi đầu làm thinh giống như hiếu tử, không
biết mở miệng giao tiếp với mọi người. Ở ấp chúng ta đã sẵn có hai người hiền
Tỳ-kheo đủ tài, lắm nghề, khéo làm đẹp lòng người, đâu có phiền gì để hạng người
này ở lại ấp của ta. Dứt khoát không cho họ thức ăn, để họ mang bát không mà về.
Vào
thời điểm ấy, Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên cũng trên đường từ Ca-di đến ấp này.
Hay tin này, bọn An-bệ lo lắng suy nghĩ: “Hai vị này đến đây ắt phải nghe việc
làm ác nổi tiếng của chúng ta mà cắt đứt sự cúng dường của chúng ta. Thế là bọn
họ đến nói với các cư sĩ:
-
Không bao lâu nữa sẽ có hai Tỳ-kheo đến ấp mình. Một vị tên là Mục-liên, rất có
tài huyễn thuật, biến hóa, hiển hiện đủ mọi hình thức. Còn vị kia tên là
Xá-lợi-phất, rất giỏi chú pháp, xảo ngôn, khéo mê hoặc thiên hạ. Các Phật tử nên
cẩn thận đừng bị mê hoặc! Chúng tôi sẽ ở lại đây. Nếu yêu cầu chánh đáng này
không đạt được thì chúng tôi ra đi.
Các
Cư sĩ nói:
-
Các Trưởng lão cứ an tâm, chúng con sẽ không bao giờ bị họ mê hoặc.
Ngày đến ấp, hai vị Mục-liên và Xá-lợi-phất được các Cư sĩ già, trẻ, lớn, nhỏ
đều ra nghinh đón, chào hỏi, cung kính đảnh lễ rồi họ ngồi sang một bên.
Nhân lúc ấy, Mục-liên hiện thần thông, biến hóa, chia thân ra làm trăm ngàn rồi
hiệp lại làm một, đi xuyên qua vách tường, đi trên nước như đi trên đất, ngồi
nằm trên hư không như chim bay liệng, thân đến Phạm Thiên, tay sờ mặt trời, mặt
trăng, phần trên thân tuôn ra lửa, phần dưới thân tuôn ra nước, phần trên thân
tuôn ra nước, phần dưới thân tuôn ra lửa, hoặc hiện nửa thân, hoặc hiện toàn
thân, vọt ra nơi phương Ðông, lặn nơi phương Tây, vọt ra nơi phương Tây, lặn nơi
phương Ðông, vọt ra nơi phương Nam, lặn nơi phương Bắc, vọt ra nơi phương Bắc,
lặn nơi phương Nam, vọt ra nơi chính giữa, lặn mất vào một bên, vọt ra nơi một
bên, lặn mất vào chính giữa... Hiện thân biến hóa rồi, Mục-liên trở lại ngồi chỗ
cũ.
Lúc
bấy giờ, các Cư sĩ đều trầm trồ với nhau rằng: “Mục-liên huyễn thuật quá tài
tình, sự thật này là sự thật của mắt thấy tai nghe”.
Ðến
phiên Xá-lợi-phất nói diệu pháp, thì suốt bài pháp Tôn giả thuyết giảng không
chỗ nào là không hiểu, nói lên ý nghĩa thiện, pháp vị thiện và đầy đủ hình ảnh
trong sáng phạm hạnh. Sau khi thuyết pháp, Tôn giả ngồi trong tư thế thiền định.
Các Cư sĩ tấm tắc khen ngợi: “Xá-lợi-phất quả có tài nói pháp”.
Tuy
nhiên, sự thật dù là vậy, mọi người vẫn không tin nhận, không trân trọng cúng
dường. May thay, trong ấp này có hai vị Ưu-bà-tắc tên là Phú-xà và Ưu-lâu-già,
đối với Phật pháp có lòng tin thuần thục, mến mộ. Họ nhận thức được pháp vi diệu
và đắc sơ quả, tâm họ rất hoan hỷ trong việc bố thí, cúng dường. Nghe tin
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đến ấp, cả hai cùng đến nghinh đón. Họ đảnh lễ sát
chân hai Tôn giả. Hai vị đã vì họ nói diệu pháp, nghe pháp họ rất vui mừng vì
điều lợi ích họ được hướng dẫn. Sau khi nghe pháp, hai Cư sĩ thưa với Ngài
Xá-lợi-phất:
-
Trong ấp này có hai Tỳ-kheo, qua nhiều sự việc mà cả hai hành động không còn gì
là tư cách của một vị Tăng.
Họ
dẫn chứng những sự việc như đã xảy ra. Tiếp đó họ thưa:
-
Thưa nhị vị Tôn giả, gần đây có 500 Tỳ-kheo rất mực oai nghi vào trong thôn khất
thực, do ảnh hưởng xấu kia mà 500 vị đành phải ôm bát về không. Cúi xin nhị vị
Tôn giả đem việc này bạch lên Phật.
Hai
Ngài ghi nhận rồi tiếp tục nói diệu pháp. Hai Cư sĩ rất vui mừng vì nhận thêm
được lợi ích thiện.
Trở
về thành Xá-vệ, hai vị Tôn giả bạch lên Phật vấn đề đã xảy ra ở ấp Kiết-la.
Do
sự việc này, đức Phật cho tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo A-nan :
-
Ông đến ấp Kiết-la trao cho hai Tỳ-kheo ấy pháp Yết-ma khu xuất
39.
A-nan bạch Phật:
-
Hai Tỳ-kheo ác kiến kia chẳng phải Sa-môn, lại tự nhận là Sa-môn, thường làm
điều bất tịnh, tâm họ đã bại hoại đến thế, nếu một mình con đến, chắc chắn với
tâm ác tột cùng ấy, hai ông tha hồ sĩ nhục, quậy phá, não loạn con!
Ðức
Phật nói với A-nan:
- Ðúng vậy!
Ðúng vậy! Nhận xét của ông là sự thật. Nay ông có thể cùng một số Tỳ-kheo nhiều
ít tùy ý ông, đến ấp Kiết-la, trước tập hợp chúng, sau đó mới cử tội nhóm An-bệ,
bạch tứ Yết-ma, đuổi họ ra khỏi ấp.
Vâng theo lời dạy, Tôn giả A-nan
cùng đi với 500 Tỳ-kheo đến ấp Kiết-la. Ðến nơi, các Cư sĩ ra đón chào, kính lễ.
Họ tác lễ sát chân Tỳ-kheo rồi cùng ngồi lui qua một bên...
Tôn giả A-nan thực hiện đúng lời
Phật dạy, bạch tứ Yết-ma đuổi hai Tỳ-kheo kia ra khỏi ấp, song họ lại gay gắt
phản ứng không chấp nhận Yết-ma đuổi. Họ đáp trả bằng cách chỉ trích thẳng Tôn
giả A-nan rằng:
- A-nan đã tuỳ tiện, hành xử
theo cảm tính thương ghét, giận hờn, si mê, sợ hãi, cho nên không đi. Vì sao
vậy? Vì có Tỳ-kheo đồng tội như thế mà có người bị đuổi, có người không bị đuổi.
A-nan thiên vị ác ý.
Các Tỳ-kheo nghiêm khắc nói:
- Hai ông không nên có lời thiếu
lễ độ đối với A-nan như vậy. A-nan làm việc theo lời của Phật và Tăng. Các thầy
hãy xét lại tự thân, có phải các thầy đã hành xử theo lề thói xấu ác, các thầy
đã làm cho nhà người ta mang tiếng xấu. Hành vi xấu ác mọi người đều nghe thấy,
biết rõ, hành vi làm nhơ nhớp nhà người, ai cũng đều hay biết, chán ngấy. Các
thầy nên ra khỏi nơi đây không được ở lại.
Các Tỳ-kheo đem lời phân giải,
chỉ trích như vậy, song nhóm An-bệ vẫn ngoan cố không chấp nhận Yết-ma khu xuất,
không ra đi.
Ðức Phật khi nhận được lời bạch
của Tăng về kết quả này, đều dạy bảo Tăng dùng mọi cách can gián, phân giải hoặc
nhờ bạn bè thân thiết, qua nhiều Tỳ-kheo hay tập thể Tăng. Việc này đã không kết
quả nên Phật đã chế giới. Về sau phạm như thế là tội Tăng-già-bà-thi-sa.
VẬT BẤT LY THÂN1.
Lúc
bấy giờ đức Phật lưu trú tại thành Xá-vệ. Có nhóm Tỳ-kheo 17 người, an cư xong
muốn đi du hành, lại có ý nghĩ: “Chúng ta sẽ trở về lại đây, đem theo một y là
đủ, không phải đem theo nhiều phiền lắm!”.
Nghĩ sao làm vậy, các Tỳ-kheo lấy khăn gói y còn lại đem để trên giá, rồi nhờ
các Tỳ-kheo trú xứ trông hộ và lên đường.
Kẻ
ra đi, người lại đến. Lục quần Tỳ-kheo trở về, bảo các Tỳ-kheo trú xứ rằng:
-
Cung cấp phòng cho chúng tôi.
-
Có, phòng của 17 Tỳ-kheo vừa đi, các vị vào nghỉ ở đó. - Tỳ-kheo trú xứ hướng
dẫn.
Vào
phòng, thấy ngay một gói y trên giá, Lục quần hỏi:
-
Tại sao các thầy cất chứa các y dư này?
-
Ðây là y của nhóm 17 Tỳ-kheo, các thầy ấy đi du hành sau an cư, không thể mang
theo được nên lưu lại, gửi cho tôi đó. - Tỳ-kheo trú xứ bảo thế.
Ðược cớ, nhóm 6 Tỳ-kheo tha hồ la rầy, quở trách rồi đem vấn đề lên thưa với
Phật.
Nhân việc này, sau đó, Phật cho tập hợp Tỳ-kheo Tăng.
Nhóm Tỳ-kheo 17 người xác nhận đúng sự việc như vậy. Ðức Phật liền quở trách:
-
Các ông ngu si, không nghe ta dạy: Vật bất ly thân của Tỳ-kheo là 3 y và bình
bát, giống như con chim bay được là nhờ hai cánh của nó đó sao?
Quở
trách rồi đức Phật kiết giới, nhưng sau đó được bổ sung bởi việc xảy ra có liên
hệ.
Bấy
giờ, có một Tỳ-kheo muốn đi về ấp Sa-kiệt-đà, nhưng y phấn tảo lại khá nặng khó
mang theo, muốn xả nhưng không biết nên như thế nào, bạch các Tỳ-kheo. Các
Tỳ-kheo đưa đương sự lên trình Phật để xin sự chỉ giáo. Phật dạy: “Phải xin Tăng
Yết-ma không mất y”. Và Ngài đã hướng dẫn cụ thể pháp làm Yết-ma này đối với
đương sự cũng như đối với Tăng.
Y PHI THỜI
Lúc
bấy giờ, ngoài 3 y đã đủ và y Ca-thi-na đã xả, các Tỳ-kheo lại được y phi thời.
Tự thấy việc này là sai trái, xấu hổ, bởi đức Phật chưa cho phép nhận y phi
thời. Việc này được các Trưởng lão bạch lên Phật. Ðức Phật cho tập hợp Tỳ-kheo
Tăng... Sau khi sự việc được các Tỳ-kheo đương sự xác nhận sự thật, đức Phật
bằng nhiều hình thức khen ngợi hạnh thiểu dục tri túc, khen giới, khen người trì
giới, tiếp đó Ngài chỉ giáo các Tỳ-kheo: “Từ nay cho phép nhận y phi thời”.
Sau
đó Tỳ-kheo Lục quần lợi dụng sự cho phép này lại mặc tình nhận y phi thời. Nhận
thì nhiều mà đắp mặc thì ít, không cho ai, cũng không làm pháp tịnh thí
2.
Các Tỳ-kheo thấy vậy hỏi:
-
Các thầy không nghe đức Thế Tôn chế giới không được chứa để y dư thừa hay sao?
Lục
quần liền đáp lời:
-
Tuy đức Phật chế cấm cất y dư nhưng Ngài cho phép nhận y phi thời.
-
Có phải lúc nào các thầy cũng cất giữ y phi thời, lại không mặc đúng phép tắc,
không cho người, không tịnh thí như thế hay sao? Các Tỳ-kheo hỏi.
Lục
quần đáp:
- Thưa
các vị đúng như vậy!
Ngoài việc quở trách, các Trưởng lão đưa sự việc lên đức Phật. Trước các
Tỳ-kheo, đức Phật quở trách nghiêm khắc Lục quần:
- Các ông
là kẻ ngu si. Không nên ham hố cầu xin quá nhiều như thế. Ðối với pháp của ngoại
đạo, người nhận, nhận mấy cũng không chán, kẻ cho lại so lường tính toán. Trong
chánh pháp của Ta thì lấy điều ít ham muốn, biết vừa đủ làm đầu, người cho tuy
tích cực rộng rãi, nhưng kẻ nhận chỉ nhận ít mà thôi.
Quở
trách rồi, đức Phật lại kiết giới ngăn cấm.
Sau
đó, có một trú xứ nọ, các Tỳ-kheo nhận được nhiều y, ngoài việc nhận giữ, cho
người, tịnh thí, còn dư ra một đoạn vải. Không Tỳ-kheo nào nhận lấy đoạn vải
này, bởi vì đức Phật không cho phép nhận vải không đủ để may y. Tỳ-kheo cho vải
lại nói:
-
Cứ nhận đi, cần đủ vải thì sẽ có ngay.
Khi
ấy có Trưởng lão Già-tỳ nhận được miếng vải vừa hẹp vừa ngắn, hằng ngày cứ kéo
ra hy vọng miếng vải dài rộng hơn trước.Theo thường lệ cứ 5 ngày, đức Phật đi
xem xét các phòng, thấy Già-tỳ kéo vải, Ngài hỏi:
-
Thầy làm gì vậy?
-
Bạch Thế Tôn, con nhân được miếng vải này nhưng không thọ trì được.
-
Vậy thầy có hy vọng nhận được chỗ nào nữa không?
-
Thưa có.
-
Thời gian lâu mau nữa sẽ nhận được?
-
Thưa trong vòng một tháng.
Nhân việc này, đức Phật khen ngợi hạnh thiểu dục tri túc, Ngài bảo các Tỳ-kheo:
- Từ nay
cho phép cất giữ vải phi thời, nếu không đủ, chờ cho đủ trong vòng một tháng.
Việc này lại xảy ra trường hợp không cất giữ mà lại mang vải đi du hành quá một
tháng, cho nên sau đó giới điều này được Phật chế bổ sung cụ thể.
Chương 4: Pháp Xả đọa
(Pali. Nissaggiya). (Lược chương 3: pháp Bất định <Pali. Aniyata>).
--- o0o ---
Mục
Lục |
01
|
02
| 03
| 04
|05
|06
| 07|
08
|
09
| 10
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-04 -2003