|
Giới
thiệu của dịch giả, Lời nói đầu & Chú ý về Văn bản
|
Bài
giảng ngày thứ 1
Những
khó khăn ban đầu
Mục
đích cho vấn đề thiền định này
Tại
sao sự phấn khởi được chọn như là điểm khởi đầu.
Bản
chất của tâm
Lý
do về những khó khăn và cách khắc phục chúng
Những
nnguy hiểm cần phải tránh
|
Bài
giảng của ngày thứ 2
Ðịnh
nghĩa phổ quát về tội và phước
Bát
thánh đạo: Giới và Ðịnh
|
Bài
giảng ngày thứ 3
Bát
thánh đạo: Trí tuệ - trí tuệ do truyền đạt, trí tuệ bằng
tri thức, trí tuệ bằng kinh nghiệm.
Kalàpà:
bốn yếu tố
Ba
đặc tính: vô thường, bản chất huyển hóa của Ngã, và
khổ.
Sự
thể nhập qua thực tại hiển nhiên
|
Bài
giảng của ngày thứ 4
Những
câu hỏi liên quan đến vấn đề làm sao để thực hành thiền
Vipassana
Qui
luật về giáo lý nghiệp quả
Sự
quan trọng của hành động thuộc về tâm
Bốn
sự tập hợp của tâm:sự hiểu biết (ý thức), sự nhận
thức, sự cảm thọ , sự phản ứng
Duy
trì tỉnh thức và xả là phương cách đoạn trừ khổ
|
Bài
giảng của ngày thứ 5
Tứ
thánh đế: khổ đế, nnguyên nhân của khổ, sự đoạn diệt
khổ và con đường đoạn diệt khổ
Chuổi
mắc xích của sự sinh khởi có điều kiện
|
Bài
giảng của ngày thứ 6
Tầm
quan trọng của sự phát triển tỉnh thức và niệm xả đối
với các cảm thọ
Bốn
yếu tố và mối quan hệ của chúng với cảm thọ
Bốn
nguyên nhân của sự sinh khởi một sự việc
Năm
hạ phần kiết sử: tham, sân, và hôn trầm thân và tâm, trạo
cử, nghi ngờ
|
Bài
giảng của ngày thứ 7
Tầm
quan trọng của sự xả ly đối với các cảm thọ thô và
tế
Sự
duy trì tỉnh thức liên tục
Năm
người bạn (năm lực): niềm tin, nổ lực , chấnh niệm, thiền
định , trí tuệ
|
Bài
giảng của ngày thứ 8
Qui
luật của số nhân và sự ngược lại của nó
Qui
luật của sự đoạn trừ
Sự
xả ly là sự an lạc tối thượng
Sự
xả ly có thể làm cho chúng ta sống một đời sống của hành
động chân thật
Bằng
sự duy trì xả ly, chúng ta xác định một tương lai hạnh
phúc cho chính chúng ta
|
Bài
giảng của ngày thứ 9
Sự
áp dụng phương pháp vào đời sống hàng ngày
Mười
ba la mật (paramì )
|
Bài
giảng của ngày 10
Ôn
lại phương pháp hành trì
|
Bài
giảng của ngày 11
Làm
thế nào để duy trì sự thực hành sau khi đã chấm dứt khóa
thiền
|
|
.
NHỮNG BÀI
GIẢNG TÓM TẮT
của KHOÁ THIỀN
MINH SÁT MƯỜI NGÀY
Thiền
sư Goenka - Thích Minh Diệu dịch
Nguyên
tác: "The Discourse Summaries", S.N. Goenka (1994)
|
|
BÀI GIẢNG
CỦA NGÀY THỨ MƯỜI
Ôn
lại phương pháp thực hành
Ngày
thứ mười đã qua. Chúng ta hãy ôn lại những gì chúng ta
đã thực hành trong suốt mười ngày qua.
Các
bạn đã bắt đầu sự thực hành bằng sự qui y tam bảo,
đó là, Phật, Pháp và Tăng. Bằng cách làm này các bạn không
bị chuyển đổi từ tổ chức tôn giáo này sang tổ chức
khác. Trong Vipassana sự chuyển đổi chỉ là chuyển khổ sang
hạnh phúc, từ vô minh sang trí tuệ, từ trói buộc sang giải
thóat. Toàn bộ giáo pháp mang tính phổ quát vũ trụ. Các bạn
đã Qui Y không phải ở một cá nhân, giáo điều, hoặc đảng
phái, nhưng ở một phẩm cách của sự giác ngộ. Có ai đó
khám phá con đường dẫn đến giác ngộ vị ấy là một vị
Phật. Con đường mà vị ấy thấy được gọi là Giáo pháp.
Tất cả ai thực hành con đường này và đạt đến một trạng
thái thuần tịnh được gọi là Tăng già (đoàn thể thanh
tịnh). Được cảm hứng từ Những vị này, chúng ta qui Đức
phật, Giáo pháp và Tăng đoàn để đạt cùng một mục đích
của sự thanh tịnh tâm thức. Sự qui y này thực chất là
phẩm chất phổ quát của sự giác ngộ mà chúng ta tìm để
phát triển trong chính chúng ta.
Đồng
thời, ở bất cứ người nào tiến hành con đường tu tập
sẽ khởi lên cảm nhận của lòng biết ơn và sự hiểu biết
để phục vụ người khác mà không mong cầu đáp lại bất
cứ điều gì. Hai phẩm chất này nổi bậc nhất trong Đức
phật thích ca, một vị Phật lịch sử. Ngài đạt được
giác ngộ viên mãn bằng sự nỗ lực chính ngài. Tuy nhiên,
vì lòng từ bi đối với chúng sanh, ngài đã dạy phương pháp
mà ngài đã tìm ra cho mọi người.
Những
phẩm chất như nhau sẽ xuất hiện ở bất cứ ai thực hành
Giáo pháp và vị ấy đoạn trừ, đối với một vài mức
độ, thói quen cũ của chủ nghĩa tự ngã. Sự qui y chân thật,
sự bảo vệ chân thật, là giáo pháp mà các bạn phát triển
trong chính các bạn. Tuy nhiên , cùng với sự kinh ngnhiệm của
giáo pháp chắc chắn phát triển một sự cảm nhận về lòng
biết ơn đối với Đức Phật, vì Ngài đã tìm ra và đã
dạy giáo pháp này, cũng như sự biết ơn đối với chư vị
đã nổ lực quên mình duy trì gíao pháp trong hình thức nguyên
thủy của nó qua hơn 25 thế kỷ cho đến ngày hôm nay.
Với
sự tuệ tri này chúng ta đã qui y với Tam bảo.
Kế
đến các bạn đã giữ năm giới. Đây không phải là một
nghi thức tụng đọc hoặc lễ nghi. Bằng sự giữ năm giới
này và tuân thủ, các bạn đã thực hành giới, nó là nền
tảng của sự tu hành. Không có một nền móng vững chắc
tòan bộ cấu trúc của thiền định sẽ bị suy yếu. Giới
luật mang tính phổ quát và không thuộc vào một đảng phái.
Các bạn tu tập để từ bỏ những hành động bằng thân
hoặc khẩu có thể gây ảnh hưởng sự bình an và hài hòa
của những người khác. Từ cấp đô tâm thức, sự cấu uế
phát triển và biểu lộ chính nó bằng lời nói hoặc hành
động. Trong Vipassana các bạn nỗ lực để thanh lọc tâm để
nó trở nên vắng lặng và an tịnh thật sự. Các bạn không
thể tiến hành thanh lọc tâm trong khi các bạn vẫn tiếp tục
gây ra những hành động có tác động quấy nhiễu và cấu
uế đến tâm.
Nhưng
làm thế nào để phá vỡ vòng tội lỗi ở đó tâm bị quấy
nhiễu làm những việc bất thiện và cứ như thế hành động
ấy lại gây nhiễu hơn nữa đến tâm? Một khóa tu Vipassana
cho các bạn một cơ hội. Vì chương trình rất nghiêm ngặc,
luật lệ nghiêm túc, phát nguyện tịnh khẩu, và môi trường
tác động cho sự tu tập rất mạnh, rất khó có thể đời
sống chánh mạng giữ năm giới của các bạn bị phá vỡ.
Vì vậy, suốt mười ngày các bạn có thể hành trì giới,
và với căn bản này các bạn phát triển định (samaadhi);
và tiếp tục thiền định làm nền tảng cho trí tuệ, với
những điều kiện này các bạn có thể thể nhập vào những
cấp độ chiều sâu của tâm thức và thanh lọc sự cấu uế
của nó.
Suốt
khóa tu các bạn hành trì quán sát về năm giới để có thể
thực hành phương pháp này. Sau khi nhận ra Giáo pháp chúng
ta quyết định chấp nhận và tu tập Giáo pháp, phải quán
sát bằng những giới luật trong suốt cuộc đời.
Kế
đến các bạn qui phục trước Đức Phật và vị Thầy hướng
dẫn hiện tại cho khóa tu mười ngày. Sự qui phục này là
vì mục đích dẫn đến một sự phán xét công bình đối
với phương pháp tu tập. Chỉ có ai đã qui phục giáo pháp
này mới có thể tiến hành tu tập và nỗ lực một cách trọn
vẹn. Người nào với tâm tràn đầy hoài nghi và do dự thì
không thể nào tu tập một cách thích hợp. Tuy nhiên, sự qui
phục ở đây không có nghĩa là phát triển niềm tin một cách
mù quáng; điều này không có lợi ích gì cho Giáo pháp cả.
Nếu bất cứ nghi ngờ nào khởi lên trong tâm, các bạn nên
đến vị Thầy hướng dẫn trong những lúc cần thiết để
làm sáng tỏ sự nghi ngờ.
Sự
qui phục còn có nghĩa liên quan đến nội qui và thời khắc
của khóa tu. Những điều này được xác định, dựa vào
sự kinh nghiệm của hàng ngàn những người tu tập trước,
để có thể giúp các bạn hành trì liên tục cũng như để
có sự lợi lạc lớn lao nhất trong khóa tu mười ngày này.
Bằng
sự qui phục các bạn tiến
hành tu tập chuẩn xác khi các
bạn được hướng dẫn. Bất cứ những gì của phương pháp
các bạn được tu tập trước đây, các bạn được yêu cầu
để sang một bên trong suốt thời gian khóa tu. Các bạn có
thể thành tựu những ích lợi và quán xét giá trị của phương
pháp chỉ bằng cách hành trì nó nghiêm chỉnh, trong một đường
lối thích hợp. Pha trộn sự tu tập, về phương diện khác,
có thể dẫn các bạn vào những khó khăn nguy hại.
Từ
lúc các bạn bắt đầu công việc của các bạn bằng sự
thực tập thiền quán hơi thở (Anaapaana meditation) để
phát huy khả năng chế ngự tâm và sự tập trung - samaadhi.
Các bạn được hướng dẫn chỉ thở một cách tự nhiên
không thêm vào bất cứ thần chú, kệ tụng, hình bóng hoặc
mô thức nào. Một lý do cho sự nghiêm cấm này là để lưu
giữ sự phổ quát của phương phát tu: hởi thở là yếu tố
quen thuộc và có thể chấp nhận đối với mọi người, nhưng
một câu chú hoặc một hình tượng có thể chấp nhận cho
một số người mà không thể cho tất cả.
Nhưng
một vấn đề quan trọng hơn nữa cho lý do chỉ được ï
quán sát hơi thở, toàn bộ tiến trình là một sự khám phá
chân lý trong mỗi chúng ta, về cấu trúc thân-tâm như thực
thể của nó, không như các bạn phải muốn nó trở thành
như ý của mình. Đó là một sự kiểm soát của thực tại.
Các bạn ngồi xuống và đóng mắt lại. Không có âm thanh,
không có sự quấy nhiễu bên ngoài, không có sự di chuyển
thân thể. Lúc đó hoạt động nổi bật nhất trong chính các
bạn là hơi thở. Các bạn bắt đầu bằng sự qúan sát thực
tại này: hơi thở tự nhiên, khi nó đi vào và ra hai lỗ mũi.
Khi đó các bạn có thể thở tự do, các bạn được phép
thở nhẹ đều đặn, cốt để đặt sự chú ý của các bạn
nơi khu vực của hai lỗ mũi, và từ đó một lần nữa các
bạn trở lui lại hơi thở tự nhiên, thông thường và nhẹ
nhàng. Các bạn đã bắt đầu với sự thật thô và bề ngoài
này, và từ đó các bạn chuyển xa hơn và sâu hơn, trong phương
hướng của những sự thật vi tế hơn, sự thật tối hậu.
Về toàn bộ tiến trình, ở mỗi giai đoạn các bạn duy trì
với sự thật mà các bạn thực tế kinh nghiệm, từ thô nhất
đến vi tế nhất. Các bạn không thể đến chân lý tối hậu
bằng cáchï khởi hành với một sự tưởng tượng. Các bạn
sẽ chỉ rối rắm thêm trong những tưởng tượng lớn hơn
và những sự tự lừa dối.
Nếu
các bạn thêm vào một câu chú cho đối tượng của hơi thở,
các bạn có thể tập trung tâm nhanh hơn, nhưng sẽ có một
sự nguy hiểm trong sự thực hành bằng cách đó. Mỗi lời
chú có một sự tác động đặc biệt. Bằng sự lập lại
một lời chú hoặc câu chú, chúng ta tạo ra một sự dao động
ảo giác ở đó chúng ta bị chìm sâu vào. Ở cấp độ bề
mặt của tâm thức một lớp bình an và hài hòa được tạo
ra, nhưng ở cấp độ chiều sâu những cấu uế vẫn còn tồn
tại. Còn đường duy nhất để loại trừ những phiền não
ngủ ngầm này là thực hành cách quán sát chúng nó, bằng
cách mang chúng nó đến bề mặt để chúng nó trôi qua. Nếu
chúng ta chỉ quán sát một sự dao động đặc biệt ảo tưởng,
chúng ta sẽ không thể quán sát những dao động tự nhiên
khác nhau liên quan đến những cấu uế của chúng ta, đó là,
để quán sát một cách tự nhiên những cảm thọ sinh khởi
trong thân chúng ta. Vì vậy, mục đích của chúng ta là để
khám phá ra thực tại của chính chúng ta và để thanh lọc
tâm, sử dụng một câu chú tưởng tượng có thể tạo ra
những cản trở.
Một
cách tương tự sự tưởng tượng - sự sao chụp một hình
ảnh hoặc tượng hình bằng tâm thức- có thể trở thành
một trở ngại cho việc hành trì. Phương pháp hướng dẫn
đến sự phá vỡ sự thậtù hình thức để đạt đến chân
lý tối hậu. Thực tại phối hợp và bề ngoài luôn luôn
chứa đầy ảo giác, vì ở cấp độ này hoạt động nhận
thức bị dao động do những phản ứng của quá khứ. Nhận
thức có điều kiện này phân biệt và chia chẻ dẫn đến
những sự ưa thích và những thành kiến, để phục hồi lại
những phản ứng. Nhưng bằng thực tại chia chẻ bề ngoài,
chúng ta dần dần đi vào kinh nghiệm thực tại tối hậu của
cấu trúc thân và tâm.: không có gì khác hơn chỉ những dao
động sinh diệt trong mỗi sát na. Ơû trạng thái này không
thể phân biệt được, và vì vậy không có sự ưa thích hoặc
những thành kiến có thể sinh ra, không có sự phản ứng.
Phương pháp tu tập dần dần làm yếu đi nhận thức có điều
kiện và vì vậy cũng làm yếu đi những phản ứng, đưa đến
một trạng thái nơi đó những nhận thức và cảm thọ tiêu
diệt, đó là, kinh nghiệm niết bàn. Nhưng bằng sự chú ý
có chủ tâm đối với một hình tượng, hoặc tầm nhìn, chúng
ta duy trì ở cấp độ bên ngoài, bao gồm sự thực tại và
không thể vượt qua nó. Vì lý do này, không nên tưởng tượng
hình tượng cũng không nên đọc tụng thần chú.
Sau
khi tập trung tâm thức bằng sự quán sát hơi thở, các bạn
bắt đầu thực hành thiền Vipassana để phát triển trí tuệ
(pan~n~aa), quán sát bản chất của chính các bạn, tẩy sạch
tâm thức cấu nhiễm. Từ đầu tới chân, các bạn bắt đầu
quán sát những cảm thọ tự nhiên trong thân thể, bắt đầu
trên bề mặt và sau đó đi vào sâu hơn, thực tập cảm nhận
những cảm thọ trong và ngoài, trong mỗi phần của thân thể.
Quán
sát sự thực tại như nó đang hiện hữu, không có bất cứ
những thành kiến nào, để phân tán thực tại bên ngoài và
để đi vào chân lý tối hậu - đây là Vipassana. Mục đích
của sự phân tách thực tại thô là để có thể làm cho thiền
giả thoát khỏi ảo giác của 'cái tôi'. Aûo giác này ở đỉnh
cao của tất cả tham ái và sân hận của chúng ta, và mang
đến khổ đau vô biên. Chúng ta có thể chấp nhận một cách
tri thức rằng nó là một ảo giác, nhưng sự chấp nhận này
không đủ để chấm dứt đau khổ. Không đề cập đến niềm
tin tôn giáo hoặc triết học, chúng ta còn duy trì đau khổ
bao lâu thói quen ngã chấp còn chấp giữ. Để phá vỡ ngã
chấp này chúng ta phải kinh nghiệm trực tiếp bản chất vô
thường của hiện tượng thuộc về thân và tâm, sự thay
đổi không ngừng vượt qua sự điều khiển của chúng ta.
Duy chỉ có kinh nghiệm này có thể phá vỡ ngã chấp, dẫn
đến con đường thoát khỏi tham ái , sân giận và khổ hải.
Vì
vậy phương pháp này là một sự khám phá, bằng kinh nghiệm
trực tiếp, của bản chất thật của hiện tượng mà chúng
ta gọi 'ta, của ta'. Có hai vấn đề của các hiện tượng
này:
vật chất và tinh thần, thân thể và tâm thức. Thiền giả
thực tập bắt đầu bằng sự quán sát thự c tại của thân.
Để kinh nghiệm trực tiếp thực tại này, chúng ta phải cảm
nhận thân thể, đó là, phải tỉnh giác những cảm thọ toàn
bộ trong thân thể. Vì vậy sự quán sát về thân - kaayaanupassanaa
- liên hệ cần thiết đến sự quan sát những bộ phận của
tâm thức-
dhammaanupassanaa.
Điều
này không có nghiã rằng chúng ta nên quán sát những ý niệm
cá nhân. Nếu chúng ta cố làm như vậy chúng ta sẽ bắt đầu
dính vào tư duy ý niệm. Chúng ta chỉ nên đơn giản duy trì
sự tỉnh giác tự nhiên của tâm thức ở sát na này; xem tham
ái, sân hận, vô minh và dao động có mặt hay không. Và bất
cứ điều gì sinh khởi trong tâm, Đức phật đã khám phá,
sẽ được kết hợp với một thân cảm thọ. Vì vậy, trong
trường hợp hành giả đang khám phá khía cạnh của tâm hoặc
thân của hiện tượng của 'cái ta', sự tỉnh giác về cảm
thọ là điều chính yếu.
Điều
khám phá này là sự đóng góp độc nhất của Đức Phật,
của tầm quan trọng trong Giáo pháp của Ngài. Trước thời
Ngài ở Ấn độ và giữa những người đương thời với
ngài, có nhiều người đã dạy và thực hành giới và định.
Trí tuệ cũng đã có mặt, ít nhất trí tuệ thuộc về tri
thức hoặc mang tính tôn sùng: nó được chấp nhận một cách
thông thường rằng những tâm cấu uế là nguồn gốc của
khổ đau, đó là sự tham ái và sân giận phải được đoạn
trừ để thanh lọc tâm thức và để thành tựu giải thóat.
Đức Phật một cách đơn giản đã tìm ra con đường để
làm điều này.
Điều
gì đã bị thiếu xót là một sự tuệ tri về tầm quan trọng
của sự cảm thọ. Như bây giờ, một cách tổng quát nó được
cho rằng những phản ứng lại của chúng ta là đối với
những đối tượng bên ngoài của các căn- thấy, nghe, ngửi,
nếm, tiếp xúc và suy tư. Tuy nhiên , sự quán sát về chân
lý trong đó biểu lộ giữa đối tượng và sự phản ứng
là một gạch nối bị quên đi: sự cảm thọ. Sự tiếp xúc
của một đối tượng với một cơ quan cảm nhận tương ứng
dẫn đến sự cảm thọ; sự nhận thức sát định một sự
đánh giá tốt hoặc xấu, liên quan đến vấn đề mà cảm
thọ trở thành vui hoặc không vui. Tiến trình xảy ra rất
nhanh đến nỗi sự nhận thức về vấn đề chỉ phát triển
sau khi một sự phản ứng đã được lập lại nhiều lần
và đã tập trung sức mạnh có nguy cơ có thể chế ngự tâm
thức. Để giải quyết những phản ứng này, chúng ta phải
tỉnh giác với chúng ở điểm nơi đó chúng nó sinh ra; chúng
nó bắt đầu với cảm thọ, và vì vậy chúng ta phải tỉnh
giác với những cảm thọ. Sự khám phá vấn đề này chưa
từng được biết trước thời Đức phật, đã có thể làm
cho Thái tử Siddhatha Gotama đạt được sự giác ngộ, và đây
là lý do tại sao Ngài luôn luôn nhấn mạnh tầm quan trọng
của cảm thọ. Cảm thọ có thể đưa đến sự phản ứng
về sự tham ái, và sân giận, và vì vậy khổ sinh ra, nhưng
cảm họ cũng có thể dẫn đến trí tuệ với trí tuệ này
chúng ta loại trừ sự phản ứng và bắt đầu thoát khỏi
khổ đau.
Trong
Vipassan, bất cứ sự tu tập nào mà ngăn chặn sự tỉnh giác
về cảm thọ đều mang lại tác hại, về sự tập trung vào
một câu thần chú hoặc một hình tượng, hoặc chỉ chú ý
đến sự vận hành vật lý của thân thể hoặc đối với
những tư duy sinh khởi trong tâm. các bạn không thể loại
trừ khổ đau trừ phi các bạn đi vào nguồn gốc của nó,
sự cảm thọ.
Phương
pháp của Vipassana được Đức phật giải thích trong bài kinh
Satipat.t.haana sutta (Bài kinh Tứ niệm xứ). Bài kinh này
được chia thành những phần để kiểm tra những yếu tố
khác nhau của phương pháp; quán sát về thân, về cảm thọ,
về tâm, và về các pháp. Tuy nhiên, mỗi phần của bài kinh
kết luận với cùng một ý nghĩa. Có những điểm khác nhau
từ đó để bắt đầu sự thực hành, nhưng không có điều
gì khác nhau ở điểm bắt đầu, một thiền giả phải trải
qua những giai đoạn nào đó, những kinh nghiệm nào đó trên
con đường đi đến mục đích tối hậu. Những kinh nghiệm
này, cốt lõi đối vớiø sự hành trì của Vipassana, được
mô tả trong những câu được lập lại ở phần kết luận
của mỗi phần.
Phần
đầu tiên này là phần trong đó chúng ta kinh nghiệm sự sinh
(samudaya) và diệt (vaya) một cách riêng biệt. Ở
giai đoạn này người hành thiền tỉnh giác về thực tại
thống nhất , liên kết trong hình thức của những cảm thọ
thô ở trong thân. Chúng ta tỉnh giác một cảm thọ, có thể
là đau, sinh khởi. Nó có thể lưu lại trong một thời gian
và cuối cùng nó trôi đi.
Tiếp
tục đi vượt qua trạm này, chúng ta thâm nhập vào trạng
thái của samudaya-vaya (sinh -diệt), trong đó chúng ta kinh
nghiệm sự sinh diệt đồng thời, không có bất cứ khoảng
gián đọan nào giữa chúng nó. Những cảm thọ thô, tập hợp
chia ra thành những dao động vi tế, sinh và diệt ngay tức
thời, và sự vững chắc của cấu trúc thân thể và tâm thức
biến mất. Tình cảm rắn chắc và vững mạnh, và cảm thọ
rắn chắc và cường độ mạnh, cả hai đều phân chẻ thành
những dao động không có gì khác hơn. Đây là một trạng
thái của bhan’ga - sự phân tán - trong đó chúng ta kinh
nghiệm chân lý tuyệt đối của thân và tâm thức: sự sinh
diệt liên tục, không có gì được xem là vững chắc ở đây.
Sự
phân tán này là một vị trí rất quan trọng trongtiến trình
tu tập, vì chỉ khi nào chúng ta kinh nghiệm sự phân tán của
cấu trúc thân và tâm thì sự tham đắm đối với chúng không
còn hiện hữu nữa. Khi đó chúng ta bắt đầu vô tham trong
mọi tình huống ; đó là, chúng ta đi vào trạng thái của
san’khaara-upekkhaa (các hành đều thanh tịnh). Những
phiền não ngủ ngầm sâu kín bên trong- sam’khaaraa -bị
chôn lấp trong vô thức bây giờ bắt đầu xuất hiện ở
cấp độ bề mặt của tâm thức. Đây không phải là một
sự thối lui; nó là một sự phát triển, vì trừ phi chúng
nó hiện ra ở bề mặt, những phiền não không thể đọan
trừ được. Chúng nó sinh khởi chúng ta quán sát một cách
bình thản, và chúng nó tiêu đi tuần tự theo thứ lớp. Chúng
ta sử dụng những cảm thọ thô và bất lạc như lànhững
công cụ với công cụ này để loại trừ những san’khaaraa
cũ của sân giận đang nằm trong kho dự trữ; chúng ta sử
dụng những cảm thọ vi tế và hân hoan như những công cụ
với công cụ này để đoạn trừ những san’khaaraa
cũ của tham ái còn lưu trữ. Vì vậy, bằng sự duy trì tỉnh
giác và bình thản đối với mỗi kinh nghiệm, chúng ta thanh
lọc tâm thức của tất cả những phiền não phức tạp ngủ
ngầm bên trong, và hướng đến mỗi lúc gần hơn và gần
hơn mục đích của Niết bàn, của sự giải thóat.
Bất
cứ những gì thuộc về trạm khởi đầu, chúng ta phải đi
qua tất cả những trạm này để đến niết bàn. Chúng ta
có thể đến mục đích sớmtùy thuộc vào khả năng nổ lực
hành trì của chúng ta, và sự tích tụ những san’khaaraa
của quá khứ mà chúng ta phải đoạn trừ.
Tuy
nhiên, trong mỗi trường hợp, ở mỗi tình huống, sự bình
thản là vấn đề cốt lõi, dựa vào sự tỉnh giác của những
cảm thọ. San’khaaraa
sinh ra từ điểm giao cảm của
thân cảm thọ. Bằng sự duy trì bình thản đối với cảm
thọ, các bạn ngăn ngừa không cho
san’khaaraa mới sinh
ra, và các bạn đồng thời đoạn trừ những san’khaaraa
cũ. Vì vậy bằng sự quán sát những cảm thọ một cách
tỉnh lặng, các bạn tuần tự phát triển hướng đến mục
đích của sự giải thoát những khổ đau.
Thực
tập một cách nghiêm túc. Đừng sử dụng thiền định như
một trò chơi, chỉ thử nghiệm một cách hời hợt tuần tự
các phương pháp hành trì mà không theo đuổi thật sự. Nếu
các bạn làm như vậy, các bạn sẽ không bao giờ vượt qua
những tiến trình ban đầu của bất cứ phương pháp nào,
và vì vậy các bạn sẽ không bao giờ thành tựu mục đích.
Điều đương nhiên, các bạn có thể tiến hành những thí
nghiệm về những phương pháp khác nhau để tìm ra một phương
pháp thích hợp cho các bạn. Các bạn cũng có thể đưa ra
hai hoặc ba cuộc trắc nghiệm của phương pháp này, nếu cần,
nhưng đừng để phí bỏ suốt cuộc đời của các bạn chỉ
vì những cuộc trắc nghiệm. Một khi các bạn tìm ra một
phương pháp thích hợp, thực hành nó một cách nghiêm túc
để các bạn có thể phát ttriển đến mục đích.
Cầu
mong những người khổ đau ở khắp mọi nơi tìm thấy con
đường giải thoát khổ đau.
Cầu
mong mọi chúng sanh đều được hạnh phúc!
|