|
Giới
thiệu của dịch giả, Lời nói đầu & Chú ý về Văn bản
|
Bài
giảng ngày thứ 1
Những
khó khăn ban đầu
Mục
đích cho vấn đề thiền định này
Tại
sao sự phấn khởi được chọn như là điểm khởi đầu.
Bản
chất của tâm
Lý
do về những khó khăn và cách khắc phục chúng
Những
nnguy hiểm cần phải tránh
|
Bài
giảng của ngày thứ 2
Ðịnh
nghĩa phổ quát về tội và phước
Bát
thánh đạo: Giới và Ðịnh
|
Bài
giảng ngày thứ 3
Bát
thánh đạo: Trí tuệ - trí tuệ do truyền đạt, trí tuệ bằng
tri thức, trí tuệ bằng kinh nghiệm.
Kalàpà:
bốn yếu tố
Ba
đặc tính: vô thường, bản chất huyển hóa của Ngã, và
khổ.
Sự
thể nhập qua thực tại hiển nhiên
|
Bài
giảng của ngày thứ 4
Những
câu hỏi liên quan đến vấn đề làm sao để thực hành thiền
Vipassana
Qui
luật về giáo lý nghiệp quả
Sự
quan trọng của hành động thuộc về tâm
Bốn
sự tập hợp của tâm:sự hiểu biết (ý thức), sự nhận
thức, sự cảm thọ , sự phản ứng
Duy
trì tỉnh thức và xả là phương cách đoạn trừ khổ
|
Bài
giảng của ngày thứ 5
Tứ
thánh đế: khổ đế, nnguyên nhân của khổ, sự đoạn diệt
khổ và con đường đoạn diệt khổ
Chuổi
mắc xích của sự sinh khởi có điều kiện
|
Bài
giảng của ngày thứ 6
Tầm
quan trọng của sự phát triển tỉnh thức và niệm xả đối
với các cảm thọ
Bốn
yếu tố và mối quan hệ của chúng với cảm thọ
Bốn
nguyên nhân của sự sinh khởi một sự việc
Năm
hạ phần kiết sử: tham, sân, và hôn trầm thân và tâm, trạo
cử, nghi ngờ
|
Bài
giảng của ngày thứ 7
Tầm
quan trọng của sự xả ly đối với các cảm thọ thô và
tế
Sự
duy trì tỉnh thức liên tục
Năm
người bạn (năm lực): niềm tin, nổ lực , chấnh niệm, thiền
định , trí tuệ
|
Bài
giảng của ngày thứ 8
Qui
luật của số nhân và sự ngược lại của nó
Qui
luật của sự đoạn trừ
Sự
xả ly là sự an lạc tối thượng
Sự
xả ly có thể làm cho chúng ta sống một đời sống của hành
động chân thật
Bằng
sự duy trì xả ly, chúng ta xác định một tương lai hạnh
phúc cho chính chúng ta
|
Bài
giảng của ngày thứ 9
Sự
áp dụng phương pháp vào đời sống hàng ngày
Mười
ba la mật (paramì )
|
Bài
giảng của ngày 10
Ôn
lại phương pháp hành trì
|
Bài
giảng của ngày 11
Làm
thế nào để duy trì sự thực hành sau khi đã chấm dứt khóa
thiền
|
|
.
NHỮNG BÀI
GIẢNG TÓM TẮT
của KHOÁ THIỀN
MINH SÁT MƯỜI NGÀY
Thiền
sư Goenka - Thích Minh Diệu dịch
Nguyên
tác: "The Discourse Summaries", S.N. Goenka (1994)
|
|
BÀI GIẢNG
CỦA NGÀY THỨ NĂM
Tứ
thánh đế: khổ đế, nguyên nhân của khổ, sự đoạn diệt
khổ và con đường đoạn diệt khổ
Chuổi
mắc xích của sự sinh khởi có điều kiện.
Ngày
thứ năm đã qua; các bạn còn năm ngày nữa để tu tập. Hãy
sử dụng tốt nhất trong năm ngày còn lại bằng nỗ lực
hành trì, với sự hiểu biết đúng đắn về phương thức
hành trì.
Từ
sự quan sát theo dõi hơi thở với một khu vực giới hạn,
các bạn đã tiến hành quan sát những cảm thọ xuyên suốt
thân thể. Khi chúng ta bắt đầu sự hành trì này, rất có
thể rằng chúng ta sẽ bắt đầu đương đầu với những
cảm thọ thô, cứng ngắt, khốc liệt, bất lạc chẳng hạn
như cảm thọ đau, căng thẳng vân vân. Các bạn đã đương
đầu với những cảm thọ như vầy ở quá khứ, nhưng thói
quen tâm thức của các bạn đã phản ứng lại những cảm
thọ này, để xoay cuộn vào tham đắm và trói cuộn trong đau
khổ, luôn bị dao động quấy nhiễu. Bây giờ các bạn đang
hành trì cách quan sát không phản ứng lại, cách kiểm tra
các cảm thọ một cách khách quan, không đồng nhất với chúng
nó.
Sự
đau còn hiện hành, sự khổ còn hiện hành. Sự khóc than sẽ
không xoa tan đau khổ cho bất cứ ai. Làm thế nào để chúng
ta loại trừ khổ đau? Làm thế nào chúng ta sống với sự
khổ đau?
Một
vị Bác sĩ điều trị một bệnh nhân phải biết căn bịnh
của bệnh nhân, và điều gì là căn nguyên của căn bệnh.
Nếu có một nguyên nhân, thì phải có cách loại trừ nó bằng
sự dời đi nguyên nhân đó. Một khi nguyên nhân đã dời rồi,
căn bệnh tự động sẽ lành. Vì vậy, những tiến trình phải
được thực hành là để loại trừ căn nguyên.
Trước
tiên chúng ta phải chấp nhận vấn đề khổ. Mọi nơi khổ
hiện hành, đây là sự thật hiển bày ở khắp mọi nơi.
Nhưng nó trở thành một chân lý cao thượng khi chúng ta bắt
đầu sự quan sát nó mà không phản ứng lại, vì bất cứ
ai thực hành như vậy chắc chắn vị ấy sẽ trở thành một
người Cao thượng, một Vị thánh.
Khi
chúng ta bắt đầu sự quan sát chân lý thứ nhất, chân lý
của khổ, từ đó ngay tức khắc nguyên nhân của khổ trở
nên rõ ràng, và chúng ta cũng bắt đầu sự quan sát nó; đây
là chân lý thứ hai. Nếu nguyên nhân được loại trừ, thì
khổ sẽ được loại trừ; đây là chân lý thứ ba- sự đoạn
trừ khổ đau. Để thành tựu sự đoạn trừ khổ chúng ta
phải tiến hành những phương thức; đây là chân lý thứ
tư- con đường dẫn đến chấm dứt khổ bằng sự đoạn
trừ các nguyên nhân của nó.
Chúng
ta bắt đầu bằng sự thực hành để quán sát không phản
ứng lại. Kiểm tra nỗi đau mà các bạn kinh qua một cách
khác quan, như thể nó là cái đau của ai đó. Tự suy xét nó
như một nhà khoa học quan sát một thực nghiệm trong phòng
thí nghiệm của anh ta. Khi các bạn thất bại, hãy cố gắng
trở lại. Luôn có gắng, và các bạn sẽ thấy rằng dần
dần các bạn đang làm muội lược những khổ đau.
Mỗi
chúng sanh đau khổ. Cuộc đời bắt đầu bằng tiếng khóc;
sanh là một nỗi khổ lớn. Và bất cứ ai đã được sinh
thì ắt hẳn phải chịu những khổ đau của bệnh và tuổi
già. Nhưng không có gì khác nhau û về nỗi khổ đau trong đời
sống của chúng ta có thể có, không có ai muốn chết, vì
chết là một nỗi khổ đau lớn.
Mặc
dù đời sống, chúng ta đương đầu với những vấn đề
mà chúng ta không thích, và tách xa những gì mà chúng ta thích.
Không muốn những điều xảy ra, muốn những điều đừng
xảy ra, và chúng ta cảm nhận nỗi đau khổ.
Sự
hiểu biết đơn giản thực tại này ở cấp độ nhận thức
sẽ không giải thoát cho bất cứ ai. Nó chỉ có thể cho một
sự cảm hứng để nhìn trong mỗi chúng ta, để kinh nghiệm
chân lý và tìm con đường thoát khổ. Đây là những gì mà
Thái Tử Siddhatha Gotama đã làm để trở thành một Vị Phật:
Ngài đã bắt đầu quán sát thực tại trong cấu trúc thân
thể của Mình như một nhà khoa học nghiên cứu, di chuyển
từ sự thật thô, bên ngoài đến sự thật vi tế hơn và
vi tế nhất. Ngài đã thấy rằng bất cứ khi nào chúng ta
phát triển tham đắm, hoặc là chấp giữ một cảm thọ lạc
hoặc là loại bỏ một cảm thọ bất lạc, và sự tham đắm
đó không được thỏa mãn, thì chúng ta bắt đầu khổ đau.
Và đi xa hơn nữa, ở cấp độ vi tế nhất, Ngài đã thấy
rằng khi nhìn với tâm tập trung (định), một điều rõ rằng
sự tham đắm đối với năm thủ uẩn (năm sự tập hợp tạo
thành một cá thể) là khổ. Một cách ý thức, chúng ta có
thể hiểu rằng sắc uẩn, thân thể, không phải là "Tôi",
không phải "của Tôi", nhưng chỉ là một khách quan, sự thay
đổi các hiện tượng vượt ra ngoài tầm kiểm soát của
chúng ta; tuy nhiên, thực ra, chúng ta đồng nhất chính mình
với thân thể, và phát triển tham đắm tột cùng đối với
nó. Tương tự chúng ta phát triển sự tham đắm đối với
bốn thủ uẩn còn lại: thức uẩn, tưởng uẩn, thọ uẩn,
hành uẩn (phản ứng),và dính mắc vào chúng nó như ' Tôi,
của Tôi' mặc dù bản chất của chúng luôn liên tục thay
đổi. Vì những mục đích thích đáng chúng ta phải sử dụng
từ 'Tôi' và 'của Tôi', nhưng khi chúng ta phát triển sự tham
đắm về năm thủ uẩn, chúng ta tạo ra đau khổ cho chính
chúng ta. Khi nào có tham đắm, khi đó tất nhiên có khổ, và
tham đắm nhiều hơn, khổ não sẽ nhiều lên một cách tương
xứng.
Có
bốn loại tham đắm mà chúng ta luôn phát triển trong đời
sống. Thứ nhất là tham đắm về những ham muốn của chúng
ta, đối với thói quen của tham đắm này. Bất cứ khi nào
tham đắm khởi lên trong tâm thức, nó được kết hợp với
một thân cảm thọ. Mặc dù ở một cấp độ sâu, một cơn
bão của dao động đã bắt đầu, ở một cấp độ bên ngoài
chúng ta thích cảm thọ và mong muốn nó tiếp tục duy trì.
Vấn đề này có thể được so sánh với một cảm giác khó
chịu của một cơn đau nhức: làm như vậy chỉ tăng thêm
tức tối với nó, và chỉ khi chúng ta hoan hỷ với cảm thọ
của cảm giác khó chịu. Cùng một cách như vậy, ngay khi tham
muốn được tràn đầy, cảm thọ được phối hợp với ham
muốn cũng đi qua, và vì vậy chúng ta tạo ra một tham muốn
mới theo cách đó cảm thọ có thể tiếp tục. Chúng ta trở
nên say đắm vào tham đắm và tăng trưởng đau khổ cho chính
mình.
Một
tham đắm khác là sự chấp giữ 'Tôi, của Tôi', không biết
gì thật sự 'cái Tôi' này. Chúng ta không thể chịu đựng
bất cứ sự phê bình gì về 'cái tôi' của chúng ta hoặc
bất cứ sự phương hại nào đến nó. Và sự tham đắm lang
rộng bao gồm bất cứ điều gì thuộc về 'tôi' , bất cứ
những gì là 'của tôi'. Tham đắm này sẽ không mang lại khổ
đau nếu bất cứ những gì là 'của tôi' có thể tiếp tục
thường hằng, và cái 'tôi' cũng có thể duy trì để vui thú
với nó mãi mãi, nhưng qui luật tự nhiên thì sớm muộn gì
chúng ta hoặc bất cứ ai phải qua đời. Tham đắm đối với
điều gì mang tính chất vô thường thì chắc chắn mang lại
khổ đau mà thôi.
Tương
tự, chúng ta phát triển chấp đắm đối với những quan điểm
và niềm tin của chúng ta, và không thể chịu đựng bất cứ
sự phê bình nào về chúng nó, hoặc ngay cả chấp nhận rằng
những người khác có thể có những quan điểm khác. Chúng
ta không hiểu rằng mỗi người mang một cặp kính màu, mỗi
màu khác nhau ở mỗi người. Bằng sự tháo cặp kính màu
ra, chúng ta có thể thấy sự thật như đang hiển bày, không
ngừng nghỉ, nhưng thay vì chúng ta duy trì chấp đắm màu sắc
cặp kính màu của chúng ta, với những định kiến từ lâu
và niềm tin của chúng ta.
Còn
một sự tham đắm khác nữa là sự bám chặt vào những nghi
lễ, tế tự của chúng ta, và những phương pháp hành trì
thuộc tôn gíáo. Chúng ta sai đề hiểu rằng những thứ này
chỉ là những sự trưng bày bên ngoài, mà chúng nó không hàm
chứa cốt lõi của chân lý. Nếu có ai đó được chỉ phương
cách để kinh nghiệm chân lý trực tiếp trong chính anh ta nhưng
anh ta vẫn tiếp tục dính mắc những hình thức trống rỗng
bề ngoài, tham đắm này tạo ra một sự tranh đấu trong người
này, mà kết ûïquả gặt hái trong khổ đau.
Tất
cả những nổi khổ trong cuộc đời, nếu được kiểm tra
xít sao, sẽ thấy được phát sinh từ một trong bốn tham chấp
này. Đây là những gì Thái tư Siddhatha Gotama đã tìm ra trong
việc tìm kiếm chân lý cuả Ngài. Nhưng ngài vẫn tiếp tục
khảo sát ở nơi chính bản thân mình để khám phá nguyên
nhân sâu thẳm nhất của nỗi khổ, để hiểu toàn bộ hiện
tượng vận hành như thế nào, để truy tìm đến căn nguyên
của nó.
Hiển
nhiên, những nỗi khổ trong cuộc đời- sanh, già, chết, thống
khổ thuộc về thân và tâm- là kết quả tất yếu của của
một kiếp người đã sinh ra trong cuộc đời. Điều gì là
nguyên nhân của sinh? Tất nhiên, nguyên nhân thực tại là
sự phối hợp của cha mẹ, nhưng trong một quan điểm rộng
hơn, sanh xảy ra vì tiến trình bất tận của sự hình thành
trong đó toàn bộ vũ trụ được liên hệ với nhau. Ngay lúc
chết tiến trình vẫn không chấm dứt: thân thể tiếp tục
suy mòn, tiếp tục phân rã, trong khi tâm thức tiến hành liên
kết với một vật thể sống khác, và tiếp tục vận hành,
hình thành. Và tại sao lại có tiến trình hình thành này?
Vấn đề trở nên rõ ràng với Ngài rằng (Thái tử Gotama)
nguyên nhân là sự tham đắm mà chúng ta phát triển. Vì sự
tham đắm chúng ta tạo ra những phản ứng mạnh (samkhara),
chúng nó tạo ra một ấn tượng sâu trong tâm thức của chúng
ta. Vào lúc chấm dứt cuộc đời, một trong những ấn tượng
này sinh khởi trong tâm ta và sẽ đưa ra một lực đẩy cho
dòng hoạt động tâm thức để tiếp tục.
Ơû
đây điều gì là nguyên nhân của tham đắm này? Ngài đã
thấy rằng nó sinh khởi vì những phản ứng liên tục xảy
ra của sự thích và không thích. Ham thích phát ttriển thành
sự tham đắm nhiều; không ham thích phát triển thành sân giận
lớn, hình ảnh phản chiếu của tham đắm, và cả hai chuyển
vào sự chấp đắm. Và tại sao có những phản ứng hiện
hành của sự thích và không thích? Bất cứ ai theo dõi chính
mình sẽ thấy rằng chúng nó xảy ra là vì những cảm thọ
thuộc về thân thể. Khi nào một cảm thọ lạc sinh khởi,
chúng ta thích nó và muốn nó tồn tại và tăng trưởng nó
thêm lên. Khi nào một cảm thọ bất lạc sinh khởi, chúng
ta không thích và muốn loại trừ nó đi. Từ đây có câu hỏi
tại sao lại có những cảm thọ này? Rõ ràng chúng nó sinh
khởi vì sự tiếp xúc giữa một trong các căn với một đối
tượng đặc biệt của căn đó: sự tiếp xúc của mắt với
hình sắc, tai với âm thanh, mũi với hương, lưỡi với vị,
thân thể với xúc chạm, tâm với tư tưởng hoăc sự tưởng
tượng. Ngay khi có một sự tiếp xúc, một cảm thọ bắt
buộc sinh khởi, lạc thọ, khổ thọ,hoặc bất khổ bất lạc
thọ.
Và
điều gì là nguyên nhân của xúc? tất nhiên, toàn bộ vũ
trụ chứa đựng tất cả những đối tượng thuộc về các
căn. Bao lâu sáu căn- năm căn thuộc về thân cùng với một
căn thuộc về tâm-đang thi hành chức năng (của chúng nó),
chúng nó chắc chắn đương đầu với những đối tượng
của chúng nó một cách tương xứng. Và tại sao những cơ
quan cảm nhận này tồn tại? Rõ ràng rằng chúng nó là những
phần không thể tách khỏi dòng hoạt động của tâm và thân;
chúng nó sinh ra ngay lúc đời sống bắt đầu. Và tạisao dòng
vận hành đời sống, Sự vận hành của thân và tâm, xảy
ra? Vì sự vận hành của tâm thức, từ sát na này đến sát
na khác, từ đời sống này đến đời sống khác. Và tại
sao có dòng vận chuyển của tâm thức này? ngài đã thấy
rằng nó sinh khởi là vì san’khaaraa, những sự phản ứng
thuộc về tâm. Mỗi phản ứng đưa ra một lực đẩy cho dòng
vận chuyển của của tâm thức; dòng vận hành tiếp tục
vì sự thúc đẩy đến với nó bằng những phản ứng. Và
tại sao những phản ứng này xảy ra? Ngài đã thấy rằng
chúng nó sinh khởi vì vô minh. Chúng ta không biết những gì
chúng ta đang làm, không biết cách để chúng ta phản ứng
lại, và vì vậy chúng ta liên tục tạo ra san’khaaraa. Bao
lâu vô minh còn hiện hữu thì khổ đau sẽ còn tồn tại.
Nguồn
gốc của chu trình khổ, nguyên nhân sâu thẳm nhất, là vô
minh. Từ vô minh phát sinh vòng luân chuyển các biến cố bởi
vô minh chúng ta tạo ra chập chồng núi khổ cho chính chúng
ta. Nếu vô minh có thể được đoạn trừ, khổ hải cũng
sẽ được đoạn trừ.
Làm
thế nào chúng ta có thể phá vỡ vô minh này? làm thế nào
chúng ta có thể phá vỡ vòng mắc xích (luân hồi)? Dòng vận
hành của cuộc đời, của thân và tâm, đã bắt đầu. Vi
phạm tự tử sẽ không giải quyết vấn đề; nó sẽ chỉ
tạo ra khổ đau mới mà thôi. Chúng ta cũng không thể hoại
diệt các căn mà không hoại diệt chính chúng ta. Bao lâu các
căn còn hiện hành, cảm xúc tất nhiên xảy ra với các đối
tượng của chúng nó một cách tương xứng, và khi nào có
một cảm xúc thì một cảm thọ chắc chắn sinh khởi trong
thân .
Ngay
bây giờ và tại đây, ở sự liên kết của cảm thọ, chúng
ta có thể phá vỡ vòng luân hồi. Trước đây, mỗi cảm thọ
đã đưa ra một phản ứng thích hoặc không thích, nó phát
triển thành tham lam hoặc sân giận, khổ não nhiều. Nhưng
bây giờ, thay vì phản ứng lại với cảm thọ, các bạn đang
hành trì chỉ quan sát một cách bình thản, tuệ tri rằng:
'vấn đề này rồi nó cũng phải thay đổi.' Trong cách này
cảm thọ này chỉ đưa đến trí tuệ, đến sự nhận thức
về vô thường (anicca). Chúng ta dừng lại sự vận hành bánh
xe đau khổ và bắt đầu quay nó sang một hướng ngược lại,
hướng đến sự giải thóat.
Bất
cứ sát na nào ở đó chúng ta không tạo ra một phản ứng
mới (san’khaaraa), một trong những phản ứng cũ sẽ sinh khởi
lên bề mặt của tâm thức, và cùng với nó một cảm thọ
sẽ sinh ra trong thân thể. Nếu chúng ta duy trì bình thản (xả),
nó trôi qua và phản ứng cũ khác sinh ra vào vị trí của nó.
Chúng ta tiếp tục duy trì bình thản đối với các cảm thọ
thuộc về thân và những phản ứng cũ sinh khởi và trôi qua,
một cách liên tục tuần tự. Nếu vì vô minh chúng ta phản
ứng lại với những cảm thọ, thì chúng ta tăng trưởng san’khaaraa,
tăng trưởng khổ đau cho chính chúng ta. Nhưng nếu chúng ta
phát triển trí tuệ và không phản ứng lại với những cảm
thọ, thì tuần tự và lần lượt san’khaaraa được đoạn
trừ, khổ đau được đoạn trừ.
Toàn
bộ phương pháp là phương cách để loại trừ khổ. Bằng
cách hành trì, các bạn sẽ thấy rằng các bạn chấm dứt
sự trói buộc những thắt gút mới, và những thắt gút cũ
tự động mở ra. Tuần tự, các bạn sẽ phát triển hướng
đến một trạng thái ở đó tất cả san’khaaraa (sự phản
ứng) đang dẫn đến sự sống mới, và vì vậy một nỗi
khổ mới, đã được đoạn trừ: trạng thái hoàn toàn giải
thóat, hòan tòan giác ngộ.
Để
bắt đầu công việc , không cần thiết rằng chúng ta phải
trước tiên tin vào những kiếp sống quá khứ và tương lai.
Trong sự hành trì Vipassana, hiện tại là điều quan trọng
nhất. Ơû đây trong cuộc sống hiện tại, chúng ta duy trì
tạo ra san’khaaraa (sự phản ứng), duy trì tạo ra khổ đau
cho chính chúng ta. Nếu các bạn hành trì, chắc chắn một
ngày nào đó khi đó các bạn sẽ có thể nói rằng các bạn
đã đoạn trừ hết tất cả san’khaaraa, đã chấm dứt tạo
ra bất cứ san’khaaraa mới nào, và vì thế chính các bạn
đã thoát khỏi mọi khổ đau.
Để
thành tựu mục đích này, các bạn phải hành trì chính mình.
Vì vậy nổ lực hành trì trong suốt năm ngày còn lại, để
loại trừ khổ đau trong các bạn, và an vui với hạnh phúc
của sự giải thóat.
Cầu
mong tất cả các bạn an vui với hạnh phúc chân thật.
Cầu
mong tất cả chúng sanh được hạnh phúc.
|