|
Giới
thiệu của dịch giả, Lời nói đầu & Chú ý về Văn bản
|
Bài
giảng ngày thứ 1
Những
khó khăn ban đầu
Mục
đích cho vấn đề thiền định này
Tại
sao sự phấn khởi được chọn như là điểm khởi đầu.
Bản
chất của tâm
Lý
do về những khó khăn và cách khắc phục chúng
Những
nnguy hiểm cần phải tránh
|
Bài
giảng của ngày thứ 2
Ðịnh
nghĩa phổ quát về tội và phước
Bát
thánh đạo: Giới và Ðịnh
|
Bài
giảng ngày thứ 3
Bát
thánh đạo: Trí tuệ - trí tuệ do truyền đạt, trí tuệ bằng
tri thức, trí tuệ bằng kinh nghiệm.
Kalàpà:
bốn yếu tố
Ba
đặc tính: vô thường, bản chất huyển hóa của Ngã, và
khổ.
Sự
thể nhập qua thực tại hiển nhiên
|
Bài
giảng của ngày thứ 4
Những
câu hỏi liên quan đến vấn đề làm sao để thực hành thiền
Vipassana
Qui
luật về giáo lý nghiệp quả
Sự
quan trọng của hành động thuộc về tâm
Bốn
sự tập hợp của tâm:sự hiểu biết (ý thức), sự nhận
thức, sự cảm thọ , sự phản ứng
Duy
trì tỉnh thức và xả là phương cách đoạn trừ khổ
|
Bài
giảng của ngày thứ 5
Tứ
thánh đế: khổ đế, nnguyên nhân của khổ, sự đoạn diệt
khổ và con đường đoạn diệt khổ
Chuổi
mắc xích của sự sinh khởi có điều kiện
|
Bài
giảng của ngày thứ 6
Tầm
quan trọng của sự phát triển tỉnh thức và niệm xả đối
với các cảm thọ
Bốn
yếu tố và mối quan hệ của chúng với cảm thọ
Bốn
nguyên nhân của sự sinh khởi một sự việc
Năm
hạ phần kiết sử: tham, sân, và hôn trầm thân và tâm, trạo
cử, nghi ngờ
|
Bài
giảng của ngày thứ 7
Tầm
quan trọng của sự xả ly đối với các cảm thọ thô và
tế
Sự
duy trì tỉnh thức liên tục
Năm
người bạn (năm lực): niềm tin, nổ lực , chấnh niệm, thiền
định , trí tuệ
|
Bài
giảng của ngày thứ 8
Qui
luật của số nhân và sự ngược lại của nó
Qui
luật của sự đoạn trừ
Sự
xả ly là sự an lạc tối thượng
Sự
xả ly có thể làm cho chúng ta sống một đời sống của hành
động chân thật
Bằng
sự duy trì xả ly, chúng ta xác định một tương lai hạnh
phúc cho chính chúng ta
|
Bài
giảng của ngày thứ 9
Sự
áp dụng phương pháp vào đời sống hàng ngày
Mười
ba la mật (paramì )
|
Bài
giảng của ngày 10
Ôn
lại phương pháp hành trì
|
Bài
giảng của ngày 11
Làm
thế nào để duy trì sự thực hành sau khi đã chấm dứt khóa
thiền
|
|
.
NHỮNG BÀI
GIẢNG TÓM TẮT
của KHOÁ THIỀN
MINH SÁT MƯỜI NGÀY
Thiền
sư Goenka - Thích Minh Diệu dịch
Nguyên
tác: "The Discourse Summaries", S.N. Goenka (1994)
|
|
BÀI GIẢNG
CỦA NGÀY THỨ BẢY
Tầm
quan trọng của sự xả ly đối với các cảm thọ thô và
tế
Sự
duy trì tỉnh thức liên tục
Năm
người bạn (năm lực): niềm tin, nổ lực , chánh niệm, thiền
định , trí tuệ
Bảy
ngày đã qua. Các bạn còn lại ba ngày nữa để tu tập. Hãy
sử dụng tốt nhất những ngày còn lại bằng nổ lực hành
trì và liên tục, hiểu cách thức mà các bạn phải thực
hành.
Có
hai vấn đề của phương pháp hành trì: sự tỉnh giác và
bình thản (tâm xả). Chúng ta phải phát triển sự tỉnh thức
ở tất cả những cảm thọ xảy ra trong thân của chúng ta,
và đồng thời chúng ta cũng phải duy trì bình thản đối
với những cảm thọ ấy. Bằng sự duy trì bình thản, tự
nhiên chúng ta sẽ thấy, sớm hay muộn, rằng những cảm thọ
bắt đầu xuất hiện trong những khu vực không nhìn thấy,
và những cảm thọ thô, cứng ngắt, bất lạc bắt đầu phân
tán thành những dao động vi tế. Chúng ta bắt đầu kinh nghiệm
mỗi dòng an lạc vận hành của năng lượng xuyên suốt cơ
thể.
Sự
nguy hiểm, khi tình huống này sinh khởi, là rằng chúng ta nắm
giữ kinh nghiệm lạc thọ bằng cảm nhận này như mục đính
hướng đến cái mà chúng ta đã đang hành trì. Thực tế,
mục đính của sự hành trì vipassana không phải để kinh nghiệm
một loại cảm thọ đặc biệt nào đó, mà cốt yếu để
phát triển sự bình thản hướng đến tất cả cảm thọ.
Những cảm thọ luôn luôn chuyển đổi, hoặc thô hoặc vi
tế. Tiến trình tu tập của chúng ta có thể được đo đạt
duy chỉ bằng sự bình thản mà chúng ta phát triển hướng
đến mỗi cảm thọ.
Ngay
sau khi chúng ta đã kinh nghiệm một dòng vận hành giải thoát
của những dao động vi tế xuyên suốt khắp thân thể, rất
có thể rằng lại nữa một cảm thọ thô có thể sinh khởi
lên ở một nơi nào đó, hoặc một khu vực không thấy được.
Đây là những dấu hiệu không phải là sự phản hồi mà
tiến trình phát triển. Khi chúng ta phát triển sự tỉnh thức
và bình thản, tự nhiên chúng ta thâm nhập sâu hơn vào tâm
vô thức, và khám phá những phiền não ẩn núp ở đó. Bao
lâu những phức tạp tiềm ẩn này còn tồn tại trong vô thức,
chúng nó sẽ mang lại đau khổ trong tương lai. chỉ có phương
cách đoạn trừ chúng nó là cho phép chúng nó sinh khởi lên
bề mặt của tâm rồi ra đi. Khi san’khaaraa có gốc rễ sâu
như vầy sinh khởi lên bề mặt, Nhiều San’khaaraa được
kết hợp do những cảm thọ bất lạc, thô hoặc những khu
vực không nhận ra trong thân thể. Nếu chúng ta tiếp tục
quan sát không phản ứng lại, cảm thọ qua đi, và với nó
san’khaaraa của nó chính là một sự biểu hiện.
Mỗi
cảm thọ, dù thô hay tế, có cùng đặc tính vô thường giống
nhau. Mỗi cảm thọ thô (thuộc bất lạc thọ) sinh khởi, dường
như kéo dài khoảng một thời gian, nhưng sớm muộn gì nó
cũng trôi qua. Một cảm thọ vi tế sinh khởi và tiêu tan rất
là nhanh chóng, nhưng nó vẫn có chung một đặc tính. Không
có cảm thọ nào thường tồn cả. Vì vậy chúng ta không nên
có những ưu thích hoặc định kiến gì đối với bất cứ
cảm thọ nào. Khi một cảm thọ thô, bất lạc sinh khởi,
chúng ta quan sát nó không khởi lên chán nản. Khi một cảm
thọ vi tế, một cảm thọ lạc sinh khởi, chúng ta chấp nhận
nó, ngay cả hoan hỷ với nó, nhưng đừng khởi lên kiêu hãnh
hoặc tham đắm nó. Trong mỗi trường hợp chúng ta hiểu bản
chất vô thường của tất cả cảm thọ; do đó chúng ta có
thể mỉm cười khi chúng nó sinh khởi và khi chúng nó hoại
diệt.
Sự
bình thản phải được hành trì ở cấp độ cảm thọ bằng
thân để tạo ra một sự thay đổi thật sự trong cuộc sống
của chúng ta. Ơû mỗi sát na(một đơn vị đo thời gian nhỏ
nhất theo quan điểm Phật giáo), những cảm thọ đang sinh
khởi trong thân. Thông thường tâm nhận thức không tỉnh giác
đối với chúng, nhưng tâm vô thức cảm nhận những cảm
thọ và phản ứng lại chúng bằng tham ái hoặc sân giận.
Nếu tâm thức được luyện tập để tỉnh giác hoàn tòan
tất cả những gì xảy ra trong thân thể và đồng thời duy
trì sự bình thản, thì những thói quen cũ của những phản
ứng mù quángõ sẽ bị phá vỡ. Chúng ta học cách để duy
trì sự bình thản trong mỗi tình huống, và vì vậy chúng
ta có thể sống một cuộc đời hạnh phúc thanh bình.
Ơû
đây chúng ta đang hành trì để kinh nghiệm chân lý trong mỗi
chúng ta, các hiện tượng này làm việc như thế nào, nó tạo
ra khổ đau như thế nào. Có hai vấn đề về hiện tượng
con người: vật chất và tinh thần, thân thể và tâm thức.
Chúng ta phải quan sát cả hai. Nhưng chúng ta không thể kinh
nghiệm thực tế về thân thể mà không tỉnh giác về những
gì sinh khởi trong thân thể, đó là, cảm thọ. Tương tự
chúng ta không thể quan sát tâm tách ra khỏi những gì sinh
khởi trong tâm, đó là, ý niệm. Khi chúng ta đi sâu vào sự
kinh nghiệm chân lý của thân và tâm, vấn đề khởi lên rất
rõ ràng rằng bất cứ những gì sinh khởi trong tâm đều được
kết hợp với một cảm thọ. Cảm thọ có tầm quan trọng
trung tâm cho sự kinh nghiệm thực tại của thân thể và tâm
thức, và nó là điểm ở đó những phản ứng bắt đầu.
Để quan sát sự thật nơi chúng ta và để chấm dứt sự
tạo ra những tâm phiền não, chúng ta phải tỉnh giác với
những cảm thọ và duy trì sự bình thản càng nhiều càng
hữu hiệu.
Vì
lý do này, trong những ngày còn lại của khóa tu, các bạn
phải thực tập liên tục với cặp mắt đóng lại trong suốt
những giờ thiền định; nhưng trong suốt thời gian nghỉ ngơi
cũng vậy, các bạn phải nổ lực duy trì sự tỉnh giác và
sự bình thản ở cấp độ của những cảm thọ. Hành trì
bất cứ hành động các bạn phải thực hành trong phương
thức thông thường, hoặc đi bộ, ăn cơm, uống nước hoặc
tắm giặc; đừng để sự hành trì bị trì hõan. Tỉnh giác
những cử động của thân thể, và đồng thời của những
cảm thọ, nếu có thể trong một phần của thân thể trong
sự hoạt động của nó, ngoài ra những phần khác của thân
thể cũng vậy. Duy trì tỉnh giác và bình thản.
Tương
tự, buổi tối khi các bạn lên giường ngủ, khép mắt lại
và cảm nhận cảm thọ bất cứ nơi nào trong thân các bạn.
Nếu các bạn ngủ với sự tỉnh giác như vầy, tự nhiên
ngay lúc các bạn thức dậy vào buổi sáng, các bạn sẽ tỉnh
giác về cảm thọ. Có thể các bạn không thể ngủ đầy
đủ, hoặc các bạn có thể duy trì tỉnh giác hoàn toàn suốt
đêm. Đây là một điều vi diệu, ggiúp các bạn nằm trên
giường duy trì tỉnh giác và sự bình thản. Thân thể sẽ
nhận sự nghỉ nngơi nó cần thiết, và không có nghỉ ngơi
nào hơn cho tâm thức về sự duy trì tỉnh giác và bình thản.
Tuy nhiên, nếu các bạn bắt đầu lo lắng các bạn đang bị
chứng mất ngủ thì các bạn sẽ tạo ra những căng thẳng,
và sẽ cảm thấy mệt mỏi vào ngày kế tiếp. Các bạn cũng
không nên ép thúc cố thức, duy trì thế ngồi suốt đêm;
điều đó sẽ dẫn đến một sự cực đoan. Nếu thời giờ
ngủ đến, tốt hơn; hãy ngủ. Nếu giấc ngủ chưa đến,
cho phép thân thể nghỉ bằng cách nằm ở tư thế nghiêng
một bên, và cho phép tâm nghỉ ngơi bằng sự duy trì tỉnh
giác và bình thản.
Đức
Phật nói: "khi một thiền giả thực hành tinh tấn, không sao
lãng với mỗi sát na tỉnh giác và bình thản đối với những
cảm thọ, một hành giả như vầy phát triển trí tuệ chân
thật và hiểu rõ những cảm thọ". Hành giả biết thế nào
một người thiếu trí tuệ phản ứng lại những cảm thọ,
và tăng trưởng khổ đau. Hành giả cũng hiểu rằng thế nào
một người ghi nhớ trong tâm về bản chất vô thường của
tất cả những cảm thọ sẽ không phản ứng lại chúng, và
sẽ loại trừ khổ đau. Đức phật nói tiếp: "với sự tuệ
tri thông suốt này, hành giả có thể kinh nghiệm trạng thái
vượt qua thân và tâm- niết bàn (Nibbaana)." Chúng ta không
thể kinh nghiệm niết bàn cho đến khi nào san’khaaraa nặng
nhất được đoạn trừ- những san’khaaraa đó sẽ dẫn
đến một đời sống tương lai ở một hình thức thấp hơn
nơi đó khổ não sẽ ngự trị. May mắn, khi chúng ta bắt đầu
thực hành Vipassana, chính những San’khaaraa sinh khởi trước.
Chúng ta duy trì bình thản, chúng nó sẽ trôi qua. Khi tất cả
những San’khaaraa này được đoạn trừ, thì tự nhiên chúng
ta kinh nghiệm niết bàn lần đầu tiên. Sau khi kinh nghiệm
niết bàn, tất cả đều thay đổi ở chúng ta, và có thể
không còn tạo ra bất cứ hành độngnào dẫn đến một đời
sống tương lai trong một hình thức thấp hơn của sự sống.
Tuần tự chúng ta tiến đến những trạng thái cao hơn, cho
đến khi tất cả
san’khaaraa đều được đoạn trừ
nó sẽ dẫn đến một đời sống tương lai ở bất cứ nơi
nào trong thế giới hữu vi (chịu qui luật sinh diệt) . Một
người như vầy được giải thoát hoàn toàn và vì vậy, Đức
Phật đã kết luận: " thấu rõ toàn bộ chân lý của thân
và tâm, khi vị ấy qua đời vị ấy vượt qua thế giới có
điều kiện (thế giới chịu qui luật sinh diệt), vì vị ấy
đã thấu hiểu hòan toàn các cảm thọ".
Các
bạn đã thi hành một sự bắt đầu trên con đường này bằng
sự thực hành để phát triển sự tỉnh giác về những cảm
thọ xuyên khắp cơ thể. Nếu các bạn cẩn trọng không phản
ứng lại chúng, các bạn sẽ thấy rằng từng lớp một, những
san’khaaraa cũ được đoạn trừ. Bằng sự duy trì bình
thản đối với cảm thọ bất lạc, thô, các bạn sẽ bắt
đầu kinh nghiệm những cảm thọ vi tế hơn và an lạc. Nếu
các bạn tiếp tục duy trì sự bình thản, sớm muộn gì các
bạn cũng sẽ đạt đến một giai đoạn được Đức phật
mô tả, ở trong đó toàn bộ cấu trúc thân thể, thiền giả
kinh nghiệm không có gì ngoài sự sinh khởi và hoại diệt.
Tất cả những cảm thọ thô, cứng ngắt bị tan vỡ; tòan
bộ thân thể không có gì khác hơn những dao động vi tế.
Tự nhiên giai đoạn này rất an lạc, tuy nhiên nó vẫn không
phải là mục đích cuối cùng và các bạn không được đắm
chấp vào nó. Một số những phiền não thô được đoạn
trừ, nhưng những phiền não vi tế vẫn còn tồn tại trong
những cấp độ chiều sâu của tâm thức. Nếu chúng ta tiếp
tục quan sát một cách bình thản, một các tuần tự tất
cả những san’khaaraa sâu hơn sẽ sinh khởi rồi qua đi. Khi
tất cả chúng nó được đoạn ttrừ hoàn tòan, lúc đó các
bạn thể nghiệm'sự bất tử'-một vài cái gì đó vượt
qua thân và tâm, nơi đó không có gì sinh khởi, và vì vậy
cũng không có gì qua đi- trạng thái không thể diễn bày của
nibbaana.
Mọi
người đều thực hành thích hợp để phát triển sự tỉnh
thức và sự bình thản họ sẽ chắc chắn đến trạng thái
này; nhưng mỗi người phải tự tu tập với chính mình.
Ví
như có năm kẻ thù, năm sự ngăn trở ngăn cản tiến trình
tu tập của các bạn, cũng có năm người bạn, năm năng lực
tốt của tâm, chúng nó sẽ giúp và ủng hộ các bạn. nếu
các bạn giữ năm người bạn này mạnh và thanh tịnh, không
có kẻ thù nào có thể chế ngự các bạn.
Người
bạn thứ nhất là niềm tin, trung thành, xác tín. Không có
niềm tin chúng ta không thể thực hành, luôn bị dao động
bởi nghi ngờ và hoài nghi. Tuy nhiên, nếu niềm tin là mù quáng,
nó trở thành một kẻ thù nguy hiểm. Nó trở nên mù quáng
nếu chúng ta mất đi tư duy phân biệt, hiểu một cách đúng
lý về những gì của lòng trung thành có được. Chúng ta có
thể có niềm tin ở bất cứ vị trời hoặc vị thánh nào,
nhưng nếu nó là niềm tin đúng, với sự hiểu biết thích
hợp, chúng ta sẽ nhớ những đặc tính tốt của vị ấy,
và sẽ tăng thêm sự cảm hứng để phát triển những đặc
tính này trong chính chúng ta. Sự thành tâm như vầy là niềm
tin có ích lợi và ý nghiã. Nhưng
nếu chúng ta không nỗ lực
phát triển những đặc tính của con người hướng đến người
mà chúng ta có lòng thành kính, nó là niềm tin mù quáng, nó
rất có hại.
Ví
dụ: khi chúng ta qui y với Đức Phật, chúng ta phải nhớ những
phẩm chất của một Vị phật, và chúng ta phải thực hành
để phát triển những phẩm chất này trong chúng ta. Phẩm
chất cốt lõi của một vị Phật là sự giác ngộ; vì vậy,
qui y là một yếu tố cho sự giác ngộ, sự giác ngộ mà chúng
ta phát triển nơi mỗi chúng ta. Chúng ta tôn kính với bất
cứ ai đã đạt trạng thái của giác ngộ hoàn toàn; đó là,
chúng ta đưa ra tầm quan trọng đối với phẩm chất bất
cứ nơi nào nó có thể biểu hiện, không bị ép buộc đối
với một đảng phái đặc biệt hoặc con người. Và chúng
ta tôn kính Đức phật không phải bằng lễ nghi hoặc cúng
kiến, mà bằng sự thực hành theo lời dạy của Ngài, bằng
cách đi trên con đường của giáo pháp từ bước đầu tiên,
giới (siila), đến định đến trí tuệ, đến niết
bàn , giải thóat.
Bất
cứ vị Phật nào đều phải có những đặc tính sau đây.
Vị ấy đã đoạn tận tham, sân và si mê. Vị ấy đã chiến
thắng tất cả những kẻ thù của mình, kẻ thù bên trong,
đó là, tâm ô nhiễm. Vị ấy hoàn hảo không chỉ bằng lý
thuyết của Giáo pháp, mà còn bằng cách áp dụng và thực
hành. Vị ấy thuyết giảng những gì vị ấy thực hành và
những gì v ị ấy nói vị ấy thực hành; không có sự chênh
lệch giữa lời nói và việc làm của vị ấy. Mỗi tiến
trình mà vị ấy sử dụng là tiến trình chính đáng, dẫn
đến phương hướng đúng. Vị ấy đã thấu rõ mọi thứ
trong vũ trụ, bằng sự khám phá bên trong vũ trụ. Vị ấy
tràn đầy với tình thương, từ bi, hoan hỷ cảm thông đối
với mọi người, và luôn ggiúp những người đang đi lạc
lối tìm ra con đường đúng đắn. Vị ấy viên mãn sự bình
thản. Nếu chúng ta thực tập để phát triển những đặc
tính này trong chính chúng ta để đến mục đích tối hậu,
đó là ý nghĩa mà chúng ta qui y với Đức phật.
Tương
tự chúng ta qui y với Giáo pháp không liên quan gì đến chủ
nghĩa đảng phái; nó không phải là một vấn đề của việc
cải đổi từ một tổ chức tôn giáo này sang một tổ chức
tôn giáo khác. Qui y pháp có nghĩa là qui y với đạo đức,
với sự điều khiển tâm thức của chúng ta, với trí tuệ.
Đối với một lời dạy trở thành Giáo pháp, nó cũng phải
có những tính chất xác định như vậy. Thứ nhất nó phải
được giải thích rõ ràng để mọi người có thể hiểu.
Chúng ta có thể thấy nó ở trước mắt chúng ta, chúng ta
có thể kinh nghiệm bằng thực tại không phải bằng sự tưởng
tượng. Ngay cả chân lý của niết bàn không được chấp
nhận đến khi nào chúng ta đã kinh nghiệm về nó. Giáo pháp
phải mang lại kết quả lợi ích hiện tại, và tại đây,
không chỉ bằng lời hứa có ích để được hưởng thụ
trong tương lai. Nó có tính chất của 'đến và xem'; chính
chúng ta quan sát nó, thực nghiệmû nó ở chính chúng ta, không
chấp nhận một cách mù quáng. Và một khi chúng ta đã nổ
lực và kinh nghiệm nó và sự lợi ích của nó, chúng ta không
thể không khuyến khích và ggiúp người khác đến để mà
thấy giáo pháp cũng như chúng ta. Mỗi bước trên con đường
dẫn đến gần hơn mục đích tối hậu; không nỗ lực sẽ
không có kết quả. Giáo pháp lợi ích ở sự bắt đầu, giai
đoạn giữa và giai đọan cuối. Cuối cùng bất cứ ai với
khả năng hiểu biết trung bình (những người bình thường),
với bất cứ tầng lớp nào đều có thể thực hành và kinh
nghiệm sự lợi ích của Giáo pháp. Với sự hiểu biết này
về những gì bản chất thật chính nó hiện hữu, nếu chúng
ta qui y Giáo pháp và bắt đầu thực hành theo Giáo pháp, sự
thành tâm của chúng ta thật sự là có ý nghĩa.
Cùng
một cách, qui y Tăng già không phải là vấn đề của việc
lên hệ đến một đảng phái nào. Bất cứ ai đã đi trên
con đường giới, định và tuệ và bất cứ ai đã đạt ít
nhất giải đọan đầu tiên của giải thóat, vị ấy trở
thành một Vị thánh, là một thành viên của Tăng già. Vị
ấy có thể là bất cứ ai, bất cứ hình thức nào, bất cứ
màu sắc, chủng tộc; tất cả đều không có sự khác biệt.
Nếu chúng ta hân hoan qua việc thấy một vị như vậy và để
tu tập đi đến cùng một mục đích cho chính chúng ta, thì
sự qui y tăng già của chúng rất có ý nghĩa, sự thành tâm
chân chánh.
Một
người bạn khác là sự tinh tấn nổ lực. Như niềm tin, nó
không được mù quáng. Ngược lại sẽ có nguy hiểm cho chúng
ta là chúng ta sẽ tu tập sai con đường, và sẽ không thành
tựu kết quả như chúng ta đã mong muốn. Tinh tấn phải được
kết hợp với sự hiểu biết thích hợp cách thức để chúng
ta thực tập; từ đó nó sẽ rất có ích cho tiến trình hành
trì của chúng ta.
Một
người bạn khác là sự tỉnh giác chánh niệm. Sự tỉnh giác
chỉ có thể có ở sát na hiện tại. Chúng ta không thể tỉnh
giác ở quá khứ , chúng ta chỉ có thể nhớ đến nó. Chúng
ta không thể tỉnh giác ở tương lai, chúng ta chỉ có thể
có những cảm hứng hoặc những sợ hãi ở tương lai. Chúng
ta phải phát triển khả năng tỉnh giác về thực tại để
biểu lộ ở nơi chúng ta ngay sát na hiện tại.
Người
bạn kế tiếp là sự nhất tâm (định), duy trì sự tỉnh
giác ở hiện tại trong mỗi sát na, không để gián đọan.
Nó phải thoát khỏi mọi sự tưởng tượng, tham đắm, sân
giận; chỉ như thế nó mới gọi là chánh định.
Và
người bạn thứ năm là trí tuệ- không phải trí tuệ thu
nhập bằng sự lắng nghe những bài pháp, hoặc đọc một
số sách, hoặc phân tích bằng tri thức; chúng ta phải phát
triển trí tuệ nơi chúng ta ở cấp độ kinh nghiệm, vì chỉ
có trí tuệ kinh nghiệm này mới có thể đưa chúng ta giải
thóat. Và để có trí tuệ thật sự, nó phải được căn
cứ vào những thân cảm thọ: chúng ta duy trì sự bình thản
đối với những cảm thọ, hiểu bản chất vô thường của
chúng nó. Đây là sự bình thản ở cấp độ của tâm thức,
nó sẽ giúp chúng ta duy trì sự bình an giữa những sự thăng
trầm trong cuộc sống chúng ta.
Tất
cả sự hành trì Vipassana có vì mục đích của nó để có
thể giúp chúng ta sống một lối sống thích hợp, thực hành
đầy đủ trách nhiệm thế gian của chúng ta trong lúc duy trì
tâm bình an, duy trì sự an lạc và hạnh phúc trong chính chúng
ta và làm cho người khác an vui và hạnh phúc. Nếu các bạn
giữ năm người bạn có sức mạnh này, các bạn trở thành
toàn hảo trong nghệ thuật sống, và sẽ dẫn đến một cuộc
sống lành mạnh và hạnh phúc.
Tiến
hành bằng con đường Chánh pháp, vì sự tốt đẹp và lợi
ích cho các bạn và cho số đông.
Cầu
mong tất cả những chúng sanh đang bị khổ đau được tiếp
xúc với giáo pháp, để xóa tan khổ đau và an hưởng hạnh
phúc thật sự.
Cầu
nguyện cho tất cả chúng sanh đều được hạnh phúc.
|