Chương
1: Giai đoạn khởi đầu
Giai
đoạn khởi đầu tu tập Thiền
Con
chó của tôi không lo lắng gì về ý nghĩa của cuộc đời.
Nó có thể phiền hà nếu nó không có được buổi ăn sáng,
nhưng nó sẽ không ngồi đó buâng khuâng về vấn đề là
nó sẽ được thỏa mãn, giải thoát, hay là giác ngộ hay không.
Miễn là nó có được một ít thức ăn, chút tình trìu mến,
cuộc đời của nó như thế là tốt đẹp lắm rồi.
Nhưng chúng ta là con người thì không thể dừng lại ở mức
độ như thế. Chúng ta có một cái Tâm tự kỷ ám thị,
mà cũng chính cái bản tính này luôn tạo cho ta vô vàn phiền
phức. Nếu chúng ta không có được sự hiểu biết về
cái lề lối tư duy sai lầm này — tự giác là khả năng thiên
phú — thì chúng ta cũng phải đi dần vào sự hỗn loạn.
Ở
một chừng mực nào đó, mỗi người chúng ta đều tìm thấy
trong cuộc sống vẫy đầy những chướng ngại, hoang mang,
và bất công. Ngay cả trong lúc mọi sự việc trôi chảy,
chúng ta vẫn lo lắng rằng, nó có thể sẽ không như thế
lâu dài. Tùy thuộc vào phối cảnh lịch sử cá nhân,
mỗi người chúng ta trưởng thành với những cãm nghĩ về
cuộc đời khác nhau. Nếu tôi nói với bạn rằng, đời
sống hiện tại của bạn đang có là một đời sống hoàn
hảo và lý tưởng; tôi tin chắc là bạn sẽ nghĩ rằng tôi
bị loạn trí. Không một ai tin rằng mình đang có một
đời sống hoàn mỹ. Thế nhưng, trong chiều sâu của
mỗi cá nhân, chúng ta biết có một thứ gì đó tồn tại,
nó thật là mênh mông, vô tận (Tâm thức). Chúng ta bị
kẹt cứng một cách khốn đốn giữa sự thiếu hiểu biết
về cuộc đời là nguyên do tạo ra bao khốn khổ và sự nhận
thức lờ mờ về Tâm thức, về trạng thái không giới hạn
của bản chất đời sống. Do đó, chúng ta bắt đầu
tìm kiếm câu trả lời.
Chúng
ta luôn tìm giải đáp mọi vấn đề từ những gì bên ngoài
chúng ta. Ban đầu là ở trong cuộc sống thế tục.
Phần lớn con người trên cõi đời thường hay nghĩ rằng,
nếu như họ có được chiếc xe hơi mới hơn, ngôi nhà đẹp
hơn, chuyến nghĩ hè tốt hơn, một người giám đốc tử tế,
hoặc một người hôn phối hoạt bát hơn, thì cuộc đời
của họ sẽ có kết quả tốt. Tất cả chúng ta đều
cũng đã từng nghĩ như thế. Dần dần, thì giả thuyết
“nếu như” này không còn đứng vững được nữa theo thời
gian. Lúc đầu chúng ta đưa ra những “nếu như” này
vào lĩnh vực vật chất, danh vọng ngoài thân; nhưng lần này
sang lần khác, nó không thể nào đưa chúng ta đến bất cứ
một giải đáp rốt ráo nào. Thế rồi! Chúng ta
xoay qua lĩnh vực tâm linh. Nhưng thật không may, ở
trong hoàn cảnh khác nhưng chúng ta lại vẫn ôm giữ cái lề
lối cũ. Đa phần những người đến trung tâm
Thiền có phần nào đó tự biết rằng, một chiếc xe Cadillac
sẽ không giải quyết được vấn đề, nhưng họ lại nghĩ
sự chứng ngộ thì sẽ được. Bây giờ thì họ có một
cái bánh vẽ mới, một cái “nếu như” mới. “Nếu
như tôi có thể biết Giáo pháp ra sao thì tôi sẽ lấy làm
hài lòng.” Rồi sau đến, “Nếu như tôi có được
một chút ít kinh nghiệm tự chứng thì cũng lấy làm mãn nguyện.”
Khi đến trung tâm để tu tập Thiền, mà chúng ta vẫn ôm ấp
cái quan niệm là chúng ta sẽ đến được một nơi nào đó
— trở nên giác ngộ — và để có được những cái bánh
vẽ (giải đáp) trong quá khứ mà chúng ta chưa bao giờ có.
Cả
trong suốt cuộc hành trình đời sống, chúng ta luôn luôn đi
tìm một thứ gì đó ở bên ngoài ta. Nhưng theo nguyên
lý, nếu chúng ta dùng một chủ thể giới hạn — như là
thân và tâm — để đi tìm một khách thể biệt lập, thì
cái bị tìm đó cũng chỉ là cá thể giới hạn tương đương
tính với cái đi tìm mà thôi. Chính thực chất của phương
pháp mà chúng ta đang dùng, không thể mang đến cho ta kết
quả, thì dù cho chúng ta có hao tốn bao nhiêu thời gian và
nổ lực chỉ đưa đến cho ta những thất vọng ê chề.
Chúng
ta đã dùng phần lớn cuộc đời mình để gầy dựng một
nhân sinh quan giới hạn về cuộc đời. Trong quan điểm
nhìn đó, có một cái “Tôi” độc lập và những thứ khác
xoay quanh — hoặc là làm hài lòng “Tôi” hay ngược lại
làm tổn hại “Tôi”. Chúng ta luôn luôn có chiều hướng
sống theo nếp sống nhìn vào mỗi sự, mỗi việc chung quanh
ta với một cái nhìn đầy phán đoán: cái này “tôi” thích;
cái kia không thuận mắt “tôi” tí nào cả; cái nọ làm
cho “tôi” bực mình; v.v.. Và cứ thế, chúng ta cứ
bỏ cả đời đi tìm cái “Tôi thích” càng nhiều càng tốt
và đẩy ra xa hoặc cho người khác những cái “Tôi không
thích”. Từ sáng đến tối, chúng ta không hề mệt mõi
phân tích, đắn đo, suy tư, kế hoạch cũng chỉ xoay quanh cái:
“Tôi”, “thích”, “không thích”. Nếu chúng ta tinh
tế một chút, chúng ta có thể nhận thấy rằng, dưới khuôn
mặt thân thiện giả tạo bên ngoài kia, đều có đầy vẫy
những nét lo âu, đau khổ, bất ổn.. Chúng ta có hàng
ngàn phương thức che đậy những nổi ưu tư này: chúng ta
ăn quá độ, uống (chất say) quá mức, làm quá giờ, xem quá
nhiều TV. Chúng ta luôn tìm làm một cái gì đó để khõa
lấp cái tâm trạng bất ổn của mình. Phần lớn con
người có lối sống như thế mãi cho tới cuối cuộc đời.
Theo thời gian tình trạng càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Theo lối tịnh tiến, dĩ nhiên ở vào tuổi hai-mươi-năm thì
tình trạng tương đối khá hơn lúc chúng ta ở tuổi năm-mươi.
Rồi đây ai cũng sẽ chết, mọi người đều biết thế.
Nhưng trong suốt quá trình từ sinh ra cho đến cuối con đường,
chúng ta đã được giáo dục và nhồi sọ (trong giai đoạn
phát triển — từ nhỏ — cho đến trưởng thành) bằng một
nhận thức sai lầm về cuộc đời. Để rồi với mớ
hành trang méo mó đó, chúng ta bước vào xã hội tạo thêm
nhiều khổ đau cho bản thân và những người chung quanh.
Mỗi người chúng ta đều đã góp phần vào việc tước đi
những sinh thú, lạc quan của dòng sống cuộc đời. Rồi
chúng ta nhìn lại và nói: Đời là bể khổ. Và mối
ưu tư đó ngậm nhấm chúng ta từng giây phút trong suốt quãng
đời còn lại — nhìn vào khuôn mặt có nét đưa đám của
chúng ta thì biết — ngoại trừ khi một phút giây nào đó
chúng ta chợt tỉnh và nhận diện sự thật rằng, chúng ta
cần phải thay đổi lề lối sống (là cái quả) bằng cách
chúng ta phải tư vấn cái nhân sinh quan đang có (cái nhân).
Muốn được thế thì chúng ta cần phải Tu tập. Chúng
ta cần phải thấy suốt cái khác biệt giữa cái “Ta” và
“Tánh giác”; và chỉ có công phu mới làm cho sự khác biệt
nhỏ dần; cho đến một phút giây nào đó cả hai hòa nhập
thành một, lúc đó chúng ta nhận diện được chân lý cuộc
đời.
Giác
ngộ không phải là một điều gì mà ta có thể đạt được,
mà nó là một trạng thái thiếu vắng một thứ gì khác.
Cả giai đoạn cuộc đời đã qua, bạn luôn luôn tìm cầu,
đeo đuổi những mục đích. Giác ngộ thì buông xả những
thứ đó, nhưng chỉ nói cũng không mang lại kết quả gì cả.
Tu tập là việc làm của cá nhân không thể nào làm dùm được.
Chúng ta có thể đọc cho đến ngàn năm, nó cũng không đưa
chúng ta đến đâu cả. Chúng ta phải tu tập, và phải nổ
lực cho đến cuối cuộc đời mình.
Những
gì chúng ta thật sự cần là một đời sống tự nhiên.
Bởi vì đời sống của chúng ta không tự nhiên chút nào cả,
cho nên khi bắt đầu tu tập Thiền, chúng ta gặp rất nhiều
trắc trở. Nhưng khi chúng ta bắt đầu có chút manh nha
rằng vấn đề trong cuộc sống không phải ở ngoài chúng
ta, thì chúng ta mới thật sự bắt đầu cất bước trên con
đường đạo. Chỉ khi nào sự tỉnh thức phát sinh, thì
chúng ta mới thấy được sự sinh thú, hài hòa của cuộc
sống mà chúng ta chưa bao giờ nhận thấy bao giờ. Có
thế chúng ta mới có thể tiếp tục trên con đường tu tập.
Tuân
thủ giới hạnh trong khi tu tập Thiền, là chúng ta đang điều
chỉnh lề lối sống của mình cho được hài hòa. Thiền
đã phát sinh và truyền thừa trong suốt hơn hai-ngàn năm qua
và cũng đã giải quyết biết bao nhiêu vấn đề. Dĩ
nhiên là không dễ dàng áp dụng đúng cách, nhất là đưa
nó vào trong đời sống thế gian. Tựu trung vẫn là, làm
thế nào để có thể vận hành công việc bình thường như:
làm việc trong văn phòng, dạy dỗ con cái, tương quan tình
cảm, v.v.. cho được tốt hơn. Muốn được thế, chúng
ta phải điều chỉnh sự cân bằng trong tu tập và đời sống.
Tất cả mọi thứ chúng ta muốn là thoát ra khỏi sự kiềm
chế bởi lối hành xử kém hiểu biết của mình trong quá
khứ.
Cần
phải có nhiều nghị lực mới có thể tọa thiền tốt được.
Thiền không nhất thiết thích hợp cho tất cả mọi người.
Chúng ta cần phải có sự quyết tâm để làm một điều gì,
mà đó không phải là một điều dễ dàng gì. Nếu chúng
ta công phu với lòng kiên nhẫn, sự bền chí, cộng thêm sự
hướng dẫn của một vị thầy tốt, thì cuộc đời của
chúng ta sẽ được thăng hoa. Tình cảm sẽ không còn
tác động mãnh liệt vào cuộc đời ta như nó đã từng làm
trong dĩ vãng. Giai đoạn đầu của tọa thiền, chúng
ta sẽ bị choáng ngợp bởi các vọng tưởng và cái tâm dao
động của mình. Chúng ta bị lôi cuốn bởi các tư tưởng
rong chơi khắp nơi, thay vì đối diện với vấn đề trong
sự tu tập để hiểu biết được phương thức công phu đúng
đắn và vừa phải. Đến khi nào tâm trở nên trong sáng
và bình thản và không còn bị phan duyên, thì lúc
ấy là khởi đầu cho một biến đổi lớn — chỉ trong một
sát na thời gian, chúng ta có thể nhận chân được ta là ai.
Nhưng
tọa thiền không phải là việc làm mà ta chỉ cần dụng công
trong một hoặc hai năm, để rồi cho chúng ta thuần thục rồi
thôi, mà nó là lối tu tập chúng ta sẽ thực hành mãi
cho suốt cuộc đời còn lại của mình. Sự nhận
thức chân lý cuộc đời là vô cùng tận, không đoạn cuối,
nó là khám phá vượt không gian và thời gian. Và sự
công phu này sẽ đưa ta hòa nhập vào nó và sống với nó,
nhận diện cái thực chất của nó. Từ đó nó chuyển
hóa nhân sinh quan của chúng ta, lề lối sống của chúng ta.
Chúng ta sẽ sống, làm việc, xử thế khác đi. Thiền
là một phương thức sống, là đời sống, chứ không phải
là ngồi vào tọa cụ ba-mươi hay bốn-mươi phút trong một
ngày. Cả cuộc sống của chúng ta là công phu, là
tu tập, là thực hành, hai-mươi-bốn giờ trong một ngày và
mỗi ngày.
Giờ
thì tôi sẽ trả lời một số câu hỏi về thực tập thiền
và sự liên hệ của nó với đời sống của chúng ta.
Hỏi:
Thầy làm ơn vui lòng giải thích thêm về phương thức buông
xả tư tưởng khi nó xảy ra trong thời gian tọa thiền.
Joko:
Tôi không nghĩ là, chúng ta cần phải buông xả bất cứ gì
cả. Theo tôi, điều chúng ta làm là nhàm chán các Pháp.
Nếu chúng ta ép buộc tâm mình làm một điều gì đó, thì
khi ấy chúng ta lại trở về với cái tâm phân biệt — thích
hay không thích, tốt và xấu, đúng và sai — đó là tình trạng
mà chính chúng ta đang cố gắng siêu thoát. Phương cách
hữu hiệu nhất để buông xả là, quán sát các tư tưởng
khi phát sinh và ghi nhận chúng. “À! Tôi lại thất
niệm nữa rồi.” — và không cần phê phán, chỉ đơn
giản trở về với hiện trạng của mình trong phút giây này
(theo dõi đề mục hay kinh nghiệm trực quán).
Chỉ bình thản tiếp tục công phu. Chúng ta có lẽ sẽ
phải làm như thế hàng trăm-ngàn lần và cái giá trị
của sự tu tập chính là cái quá trình mà chúng ta đem tâm
trở về với hiện tại lần này sang lần khác.
Đừng bao mong mõi một trạng thái mà trong đó tư tưởng không
phát sinh. Tư tưởng vốn không thật, ở vào một thời
điểm nào đó thì chúng ta sẽ nhận thấy cái chu kỳ mà tư
tưởng phát sinh rồi tan biến không còn cấp bách như lúc
ban đầu, và sau đó khoảng thời gian nó gần như tan biến.
Khi ấy chúng ta thấy được rằng chúng không thật. Chúng
phát sinh rồi hoại diệt mà chính chúng ta cũng không biết
tại sao. Chính vì sự thiếu hiểu biết ấy, cho nên chúng
ta chấp nó là ta và luôn luôn muốn bảo vệ nó. Nếu
chúng ta cứ bình thản ngồi ngắm nhìn (như là xem chớp bóng),
không phê phán, tư tưởng nổi lên rồi rơi rụng; chúng ta
xem mãi rồi cũng phải chán, phải không?
Có
hai loại suy nghĩ. Thật ra tư tưởng phát sinh cũng không
có gì là sai, nhất là loại “tư tưởng thực dụng”.
Dĩ nhiên chúng ta cần phải suy nghĩ để quyết định mình
sẽ đi đến đâu, hoặc cách làm một cái bánh, hoặc giải
một bài toán vật lý. Sự suy nghĩ đó không có vấn
đề gì cả. Nó chỉ là suy nghĩ, không có ảnh hưởng
gì với thật hay là giả cả; suy nghĩ là suy nghĩ, thế thôi.
Nhưng ý kiến, phê phán, kỷ niệm, mơ mộng tương lai, thì
lại khác — chín-mươi phần trăm suy nghĩ xoay tít trong đầu
chúng ta thật ra là không cần thiết và không có thực chất.
Trừ khi chúng ta thức tỉnh, bằng không cứ như thế chúng
luôn xoay tít không ngừng nghĩ cho đến cuối cuộc đời của
chúng ta. Phần kinh khiếp của tọa thiền là khi chúng
ta bắt đầu thấy được tâm của ta tãn mạn như thế nào,
nó không bao giờ chịu ở yên một chỗ dù chỉ trong khoảng
thời gian ngắn. Thật là hãi hùng khi chúng ta nhận thấy
rằng con người thật của chúng ta, nơi chiều sâu, chúng ta
thật hung dữ, đầy thành kiến, và ít kỷ. Chúng ta là
thế, vì bởi chúng ta đã được trưởng thành trong môi trường
đã xây dựng trên quan điểm sai lầm từ ban đầu. Thật
ra, cơ bản nhân sinh vốn hoàn thiện, tử tế, cảm thông.
Nhưng chúng ta cần phải bỏ công khai thác mới có thể thấy
được bản tính quí giá ấy.
Hỏi:
Có phải thầy đã nói rằng, cần phải có khoảng thời gian
phấn đấu thì cơn xáo trộn mới bắt đầu nhỏ dần cho
đến khi nó tan biến đi?
Joko:
Tôi không ám chỉ rằng, chúng ta không được để tâm mình
rối loạn hay giận dữ. Cái mà tôi nói là: khi tâm
chúng ta rối loạn, chúng ta đừng vướng mắc vào nó.
Nếu chúng ta đang giận dữ, thì chúng ta cứ giận đi trong
giây phút và biết thế; đó là sự khác biệt giữa người
có và không có tu tập. Chỉ biết mà không vướng
mắc vào cơn giận thì làm sao tâm ta mất thăng bằng.
Tôi không nói là sau nhiều năm tu tập, chúng ta sẽ trở thành
những xác chết biết đi, những người vô cảm; mà là hoàn
toàn trái ngược. Chúng ta sẽ trở nên chân thành hơn
trong tình cảm, nhiều cảm thông hơn với người khác.
Chỉ có khác là chúng ta không bị vướng mắc bên trong
như trước kia, cho nên chúng ta có được sự bình thản nội
tâm.
Hỏi:
Thầy làm ơn chỉ dạy thêm phương thức áp dụng sự tu tập
vào công việc trong ngày?
Trong
khi làm việc chính là lúc tốt nhất để tu tập và áp dụng
thiền. Không cần biết đó là công việc gì, nó
nên được hoàn tất với trọn vẹn tinh thần của chúng ta
trong giây phút đó. Ví dụ như, chúng ta đang làm
sạch cái lò nướng; thì chúng ta chỉ nên chăm chỉ công việc
lau chùi và đồng thời canh chừng nếu có bất cứ tư tưởng
nào nảy sinh để gián đoạn việc đang làm. “Tôi không thích
làm sạch cái lò, nhất là cái mùi ammonia thật khó chịu!
Ai trên thế gian mà thích làm cái việc này? Với cái
trình độ học thức của tôi, tôi không nên làm cái việc
này mới phải.” Tất cả những ý nghĩ dư thừa này
vốn không có dính dáng gì với công việc làm sạch cái lò
nướng. Nếu tâm ta trôi dạt về phương trời nào, ta
cứ ghi nhận rồi kéo nó trở về với công việc lau chùi.
Có cái công việc đang cần phải làm trước mắt, và có thật
nhiều tư tưởng đắn đo, phê phán, phàn nàn mà ta có đối
với cái công việc đó. Công việc là những gì
chúng ta cần phải thi hành và hoàn thành ngay trong phút giây
này, nhưng không có mấy người chỉ vỏn vẹn làm việc
theo chiều hướng ấy. Khi chúng ta thực tập một cách
bền chí và đều đặn, thì việc đang làm cũng sẽ hòa hợp
mà vận hành trôi chảy theo. Chúng ta chỉ làm những gì
khi cần. Giống như chỉ thêm dầu hay nhớt vào trong guồng
máy đang chạy lúc cần, để nó chạy trơn tru, chứ ta không
cần phải đứng bên phê phán máy chạy chậm hay lẹ.
Dù
cho bạn sống ở tầng lớp nào trong xã hội, tôi khuyến khích
bạn nên biến lối sống của bạn trở thành lối sống trong
tu tập.
Thực
tập vào phút giây hiện tại này
Tôi
muốn nói về sự khó khăn căn bản của tọa thiền.
Dù cho bạn mới bắt đầu hay là đã ngồi suốt nhiều năm,
những trở ngại đều cũng như nhau.
Khi
tôi dự khó tu học đầu tiên cách đây nhiều năm, tôi đã
không thể khẵng định là ai điên hơn ai — tôi hay là những
người ngồi quanh tôi. Thật không tưởng được! Độ
nóng trong ngày gần 105. Rồi nào là ruồi, tiếng ồn
ào; đúng là khóa tu học không đủ tiêu chuẩn. Tôi đã
thật sự bực mình và trở nên nghi ngờ cả tổ chức. Thỉnh
thoảng tôi trình pháp với lão sư Yasutani, và ở đó tôi đã
thấy một việc mà nó đã giúp cho tôi quyết định tiếp
tục tọa thiền. Thật không may, trong suốt năm đầu
tu tập thì luôn luôn rất gian nan. Bạn phải đối diện
với sự mơ hồ, nghi ngờ, khó khăn; và nếu bạn không thực
tập đủ lâu thì bạn sẽ không nhận chân được lợi ích
chân thật của nó.
Khó
khăn thì tất nhiên phải có, nhưng nó cũng có cái tốt của
nó. Trong khi ngồi, tâm của bạn trực diện với những
khó khăn này, có khi như mơ hồ, có lúc xem như vô lý, nhưng
bạn đang học thật nhiều về con người mình; và điều bạn
học chỉ có giá trị cho riêng bạn mà thôi. Nếu có
thể, bạn nên tu tập chung với nhau và trình pháp thường
xuyên với thiền sư. Nếu được như thế, theo thời
gian, bạn sẽ thấy rằng sự tu tập này là phần tốt đẹp
nhất trong cuộc sống của bạn.
Pháp
tu của chúng ta có gọi là gì, thật ra không quan trọng: theo
dõi hơi thở, Chỉ quán, tham Công án; cơ bản tất cả đều
có cùng một mục đích như nhau: “Chúng ta là ai?” “Cuộc
sống này là gì?” “Chúng ta từ đâu đến?” “Chúng ta
sẽ về đâu?” Điều cốt yếu để có kiếp sống trọn
vẹn khi chúng ta có một sự hiểu biết đúng đắn. Vì
vậy trước tiên tôi muốn nói về phương pháp căn bản của
tọa thiền, và nên xin luôn nhớ rằng, lời nói là dùng để
chỉ cách thức thực hành — giống như là ngón tay chỉ mặt
trăng — mà thôi.
Khi
tọa thiền là chúng ta đang khám phá Chân lý tuyệt đối,
Phật tánh, Thượng đế, Chân Tánh. Vài tông phái còn
gọi là Như lai tạng. Ngôn từ thích hợp cho buổi nói
chuyện đêm nay tôi muốn dùng là “Giây phút hiện tiền.”
Trong
kinh Kim Cang có câu, “Tâm quá khứ bất khả đắc, Tâm hiện
tại bất khả đắc, Tâm tương lai bất khả đắc.”
Vậy đối với mọi người chúng ta ở đây; Chúng ta đang
ở tâm nào? Chúng ta đang sống trong quá khứ? Không phải
vậy. Chúng ta đang sống ở tương lai? Cũng không phải
thế. Chúng ta đang an trú trong hiện tại? Chưa chắc là
vậy. Chúng ta không thể tin là thế. Vì sao?
Vì chúng ta không thể nào cụ thể nói “đây là hiện tại”;
khi chữ “tại” vừa lặng tiếng thì phút giây ấy đã trở
thành quá khứ rồi. Chúng ta chỉ có thể nói: “Ta đang
an trú trong phút giây hiện tại.” “Phút giây hiện
tại” như một dòng chảy, ta không thể cột nó đứng lại,
không thể đo lường, không thể định nghĩa, thậm chí không
thể cảm được nó. Bởi vì nó vô lượng, vô giới
hạn, vô tận. Chúng ta chỉ có thể sống với nó
mà thôi, nếu chúng ta thực hành đúng với giáo pháp
của đức Phật.
Vậy
thì chúng ta làm gì ở đây, trong khi nó quá đơn giản như
thế? Tôi có thể nói, “Phút giây hiện tại”, nghe
thì rất dễ phải không? Nhưng bắt được hay không là một
vấn đề gian nan. Nếu không chúng ta không đến trung
tâm Thiền làm gì.
Tại
sao nó không dễ? Tại sao chúng ta không thể nhận diện
được? Chúng ta cần những gì mới có thể nhận diện
được nó? Để tôi kể cho các bạn nghe một mẩu chuyện
nhỏ.
Nhiều
năm về trước khi tôi theo ngành âm nhạc ở viện đại học
Oberlin Conservatory. Tuy không nổi bật xuất sắc, tôi cũng
là một sinh viên khá, và tôi rất mong muốn được theo học
một nhạc sư giỏi. Quả thật giáo sư đó có khả năng
đào tạo ra những tay dương cầm lỗi lạc. Cuối cùng
cơ hội đã đến với tôi.
Phiên
học đầu tiên với người, tôi thấy thầy dạy với hai chiếc
dương cầm. Ông không buồn chào tôi, ông chỉ ngồi bên chiếc
đàn và đánh năm dấu nhạc, rồi nói, “Cô đàn đi.”
Tôi nghĩ tôi nên đánh theo các nốt mà thầy vừa gõ.
Tôi đã đánh như thế, nhưng ông nói, “Không đúng.”
Rồi ông gõ lại, và tôi đánh theo. Và mỗi lần tôi
đánh xong thì ông lại nói, “Không đúng.” Cứ thế
một giờ đi qua.
Trong
suốt ba tháng tôi chỉ võn vẹn tập đánh có ba dòng nhạc,
mất chỉ chừng ba mươi giây thời gian. Lúc bấy giờ
tôi cãm thấy rất hài lòng: tôi đàn độc tấu trong một
ban nhạc nhỏ. Sự thể vẫn diễn tiến như thế và tôi
luôn đã khóc phần lớn thời gian trong suốt ba tháng đó.
Ông là một người có đủ sắc thái của một giáo sư ngoại
hạng, có đầy nghị lực và cương quyết mà học sinh có
thể cảm nhận được. Và chính vì lý do đó ông là
một nhạc sư tài ba. Rồi một hôm ông nói, “Rất tốt.”
Cái gì đã xảy ra? Cuối cùng ông giải nghĩa, cô đã
học được cách biết lắng nghe; khi cô biết lắng nghe thì
cô có thể đàn ra hồn.
Có
gì thay đổi trong suốt ba tháng này? Vẫn đôi tai này và nó
vẫn không biến thể. Những gì tôi đàn thật ra không
có gì là khó. Chỉ có khác là tôi đã học được cách
lắng nghe lần đầu tiên.. trong khi tôi đã biết đàn rất
nhiều năm. Tôi học cách chú tâm. Đó
là lý do tại sao ông là thầy giáo siêu đẳng; ông dạy học
sinh biết cách chú tâm. Sau khi học với ông, họ biết
lắng nghe, họ biết thật sự lắng nghe, chỉ có vậy họ
mới cảm được. Chính vì thế, lớp học của ông đã
đào tạo ra những tay đàn ưu tú.
Đó
là loại chú tâm mà thiền sinh cần phải có. Phật ngữ
gọi nó là tập trung tâm ý (Cận Định), đó là trạng thái
nhất tâm với đối tượng (hay đề mục) — sự hòa nhập
của chủ thể và khách thể. Nhưng trong câu chuyện trên,
trạng thái chú tâm đó tương đối dễ bắt. Ví như,
chú tâm vào một vật gì tôi thích. Chìm đắm theo một
kiệt tác nghệ thuật. Say mê trong một cuộc chơi thể
thao. Những trạng thái đó thì gần như (chứ chưa phải)
là tập trung tâm ý, họ chỉ học được cách chú tâm cao
độ.
Nhưng
loại tập trung này, ở trong thực tập thiền, thì cao hơn,
có giá trị hơn, và khó hơn. Chúng ta phải chú tâm
toàn bộ vào những gì đang xảy ra lúc này, bây giờ.
Lý do mà chúng ta không muốn chú tâm là vì bởi nó không luôn
luôn dễ chịu chút nào cả. Nó không thích hợp cho chúng
ta.
Là
con người, chúng ta có cái tâm để suy nghĩ. Chúng ta
luôn nhớ những đớn đau. Chúng ta luôn luôn ước vọng
về tương lai, những điều tốt đẹp ta sẽ có hay sẽ xảy
đến cho chúng ta. Chúng ta gạt bỏ những gì không làm
ta hài lòng trong hiện tại: “Tôi không thích cái đó. Tôi
không phải nghe điều đó. Tôi có thể quên nó ngay và mơ
về những gì sẽ xảy ra.” Chúng ta sẳn sàng bỏ rơi
hiện tại, để thả hồn mơ mộng về những viễn ảnh sẽ
xảy ra trong tương lai. Chuyện này luôn quyện lấy chúng
ta, tạo nên một lối sống mà chúng ta cho là bảo đảm, an
toàn, vì vậy mà chúng ta cảm thấy tốt đẹp.
Nhưng
khi chúng ta sống như thế, chúng ta vô tình đánh mất cuộc
đời hiện tại của mình. Chúng ta không nhận ra lý lẽ
đó là vì chúng ta bị mê mờ. Những gì chúng ta nhận biết
đều đã bị biến thể. Nếu bạn hỏi mười người
đọc quyển sách này, họ sẽ cho bạn nhiều sự tiếp thu
khác nhau. Họ bỏ qua những phần họ không hiểu thấu,
hoặc họ không thích, họ chỉ ghi nhận những gì hợp với
quan điểm của họ. Ngay cả lúc trình pháp, họ chỉ
nghe những điều họ muốn nghe mà thôi. Chúng ta nên cởi
lòng ra đối với thầy mình để lắng nghe trọn vẹn, có
thế chúng ta mới có thể tiến bộ. Vị thầy không phải
có mặt chỉ vì để đối xử tử tế với chúng ta.
Vấn
đề nan giải của tọa thiền là: tất cả chúng ta phải liên
tục và duy trì đem tâm lang thang về với “phút giây hiện
tại.” Thế thôi. Đó là phương pháp tu tập của
chúng ta. Sự tăng cường và khả năng ở trong giây
phút hiện tại, là những gì chúng ta phải gầy dựng và phát
triển. Chúng ta có sự lựa chọn một trong hai
ngã rẻ cuộc đời: sống tỉnh thức trong phút giây hiện
tại hay là sống mơ hồ với cái thế gian đẹp như mộng
luôn quay cuồng trong đầu của chúng ta. Cái mà gọi là
tu học hay nhập thất thông thường chỉ là mệt nhoài, nhàm
chán, và tê cứng hai chân. Cái quí giá mà chúng ta học
được trong lúc ngồi im lặng với bao nhiêu bức xúc, thậm
chí đau đớn là: khi đau đớn tâm ta thường hay bấn loạn
(trôi dạt) và phản kháng (bao nhiêu đủ rồi, thay đổi một
chút đâu có sao!) Chúng ta sẽ thấy đường lối vận
hành của tâm ta ra sao. Chỉ có khi đau đớn tâm mới
phản kháng và ta mới có cơ hội đọc nó dễ hơn so với
tâm mê đắm (vi tế hơn — khó đối phó hơn — mà ta phải
vượt qua khi ta …)
Tu
tập thiền sẽ giúp cho chúng ta sống một cuộc sống hoàn
hảo. Người sống hoàn hảo là người sống trọn vẹn
với đời sống hiện tại của chính mình, không phiêu lưu
mộng tưởng (người ở đây mà lòng ở đâu, không dính dáng
gì nhau) dù trong bất kỳ tình huống nào: tốt, xấu, đau
buồn, bệnh hoạn, nhứt đầu, chóng mặt, phiền não, vui vẽ..
không khác gì cả.
Một
thiền giả có tiến bộ trên con đường tu tập luôn có những
biểu hiện có thể cảm nhận khi ta gặp họ. Họ có
chú tâm và luôn hòa theo dòng sống chứ không lơ đãng.
Dĩ nhiên sóng gió cuộc đời vẫn tác động vào họ, nhưng
ảnh hưởng rất ít đối với họ. Chúng ta cũng có thể
giống như họ. Nếu chúng ta có thể chấp nhận mọi
sự cố như-nó-là, thì chúng ta sẽ không còn bị xáo trộn
bởi nó, và nếu có bị thì sự xáo trộn đó sẽ qua đi mau
chóng.
Hãy
nhìn vào quá trình tọa thiền. Những gì chúng ta cần phải
làm là: hòa nhập vào những gì đang xảy ra.
Bạn không cần phải tin tưởng tôi mà hãy tự thử nghiệm
lấy. Khi tâm tôi bị trôi dạt khỏi hiện tại, tôi sẽ
nghe tiếng xe chạy; tôi cố gắng không bỏ qua tiếng động
nào, và không phê bình, tôi chỉ thật sự lắng nghe; làm thế
cũng không khác gì tôi đang tham công án, bởi vì đây là những
gì đang xảy ra. Vậy điều tối quan trọng mà thiền
sinh phải làm là: rời bỏ cơn mộng để trở về với cái
thực tại bao la này. Có thế thôi!
Đây
không làm là việc dễ làm; nó cần rất nhiều can đảm.
Chỉ những người có nghị lực mới có thể thực tập
theo thời gian. Nhưng chúng ta không phải thực hành cho
cá nhân ta. Có thể là thế ở lúc ban đầu. Không
sao cả. Nhưng khi nếp sống mới của chúng ta bắt đầu
bắt rễ với lề lối của sự tu tập, thì người chung quanh
chúng ta sẽ cảm nhận được và bị ảnh hưởng.
Thật
ra vũ trụ này hiện hữu là do chúng ta. Nhưng để thấy
được như thế bạn cần phải thực hành đúng phương pháp
tu và phải đi cho đến cuối con đường. Không phải
chỉ có niềm tin suông. Giống như khoa học thực nghiệm;
đã có ngườc thực hành và đạt đến kết quả. Do
đó, bạn có thể vững lòng, “Được! Ít nhất tôi làm thử,
tôi sẽ được, tôi sẽ tận lực.” Bạn có thể nói
được bấy nhiêu.
Phật
tánh không là gì cả mà là chính chúng ta, lúc này, ở đây:
nghe tiếng ồn, đau đớn hai chân, nghe tiếng nói chuyện; đó
chính là Tánh giác. Bạn không thể bắt lấy nó, vì khi
bạn cố bắt lấy nó, nó biến đổi. Hãy là ta trong
lúc này, ví dụ như, khi ta giận thì ta là cơn giận (chứ
không phải người giận), có được thế thì không ai bị
tổn hại bởi vì nó trọn vẹn. Chúng ta cảm được
cơn giận, cảm được cơn quặn thắt nơi thân mình, thì tâm
trí đâu (không có kẻ hở chen vào) mà nghĩ đến hại người
khác. Cơn giận có thể gây hại cho người khác, là người
có nét mặt cười tươi nhưng bên trong đang sôi sục.
Khi
bạn ngồi thiền, đừng bao giờ mong mình sẽ trở thành thánh.
Nếu chúng ta bỏ được cái tâm quay cuồng trong giây phút,
chỉ ngồi với thực tại, lúc đó chúng ta như một tấm pha
lê trong suốt; chúng ta thấy tất cả: những tham vọng thầm
kín hay thô thiễn, tự cao tự đại, nông nỗi, bất an.. cái
mà được gọi là tâm linh. Tâm linh chân chính chỉ là
sống trọn vẹn với tất cả cảm giác kia. Nếu chúng ta có
thể nhận chân được Tự tánh, và sống (hay hòa nhập) với
nó, thì khi ấy ta liễu ngộ (hoàn toàn thay đổi).
Thiền
sư Shibayama có lần đã nói trong một thời khóa tu, “Phật
tánh mà các bạn muốn thấy rất là e thẹn, nó rất khó mời
gọi, và khó hiện thân.” Tại sao vậy? Vì phật tánh
là chúng ta, và chúng ta không bao giờ nhận ra cho đến khi
nào chúng ta không còn lệ thuộc vào những thứ chung quanh.
Khi chúng ta không còn bị vướng mắc bên ngoài, chúng ta sẽ
trở về lại chính mình một cách chân thật, và hòa nhập
với hiện tại, thì chúng ta sẽ thấy. Chúng ta không
thể thấy từng phần, chúng ta chỉ có thể thấy hoặc là
không thể. Sự thực hành của chúng ta không dính dáng
gì với: “Tôi phải là thế này..; tôi phải là thế kia;
tôi nên tốt hơn đối với…, tử tế hơn….” Tôi
là tôi bây giờ và ở đây. Ở trạng thái phút giây
hiện tại là Phật tánh. Vậy thôi.
Có
một lần tôi đã nói trong thiền đường đã làm nhiều người
phiền lòng. Tôi đã nói: “Muốn tu tập pháp môn này,
chúng ta phải từ bỏ tất cả hy vọng.” Rất ít người
tán đồng về điểm này. Nhưng tôi muốn gởi gắm điều
gì ở đây? Tôi muốn nhấn mạnh rằng, chúng ta phải
từ bỏ đi cái ý tưởng ở trong đầu; mà cái ý tưởng đó
vạch ra cho ta một con đường để đi đến một kiếp sống
mà mình mong muốn (sự giải thoát, đắc quả vị..).
Cuộc sống có đường lối vận hành của nó, chúng ta không
thể thay đổi được, chỉ khi nào chúng ta không còn có ý
muốn thay đổi nó thì cuộc sống cũa chúng ta bắt đầu tươi
màu và đươm hoa.
Khi
tôi nói, bỏ đi hy vọng chứ không phải bỏ đi sự phấn
đấu. Là một thiền sinh, chúng ta phải miệt mài tinh
tấn. Nhưng khi tôi nói miệt mài không có nghĩa là cố
gắng vượt ra ngoài khả năng của mình. Miệt mài ở
đây ý là nói liên tục không gián đoạn trong sự thực tập
đã dự định của mình (tọa thiền mỗi ngày, dự khóa tu
học, trình và vấn với thầy), có được như thế thì một
ngày nào đó bất chợt, có một tia chân lý chợt lóe lên.
Nhưng nó có thể xảy ra nay mai, một năm, hai năm, hoặc mười
năm, hay là lâu hơn.
Đó
chỉ là sự khởi đầu. Chỉ một thoáng của một phần
mười của một giây thời gian, nhưng nó cũng vẫn chưa đủ.
Đời sống giác ngộ là phải luôn luôn nhận diện chân lý
(tánh giác) trong mọi lúc. Chúng ta cần rất nhiều năm
để biến chuyển bản thân ta tới giai đoạn đó.
Tôi
không muốn làm cho bạn nãn lòng. Bạn có thể nghĩ là
bạn không còn đủ thời gian trong quãng đời còn lại để
đạt đến kết quả rốt ráo. Nhưng đó vốn không phải
là vấn đề chính yếu. Trên con đường tu tập, mỗi
một bước đi đã có sự trọn vẹn của chân lý trong đó
rồi (không phải là về đến nhà mới có ly nước mát để
uống, chúng ta vừa đi vừa uống — chỉ có điều là chúng
ta không biết thưởng thức sự tươi mát đó thôi). Khi
chúng ta đang tu tập đúng đắn, thì cuộc đời ta đang dần
thay đổi tốt hơn (nếu nhìn thấy được trên kía cạnh siêu
thế gian), ta sẽ có nhiều an lạc hơn và vượt qua được
nhiều phiền não hơn (tuỳ vào mức độ buông xả bao nhiêu),
và sự hài hòa này sẽ tỏa ra tới người chung quanh.
Nó có tính cách tỉ lệ thuận, đi càng xa kinh nghiệm càng
nhiều, là vậy. Có một số người có một tư tưởng
khờ dại là họ sẽ giác ngộ trong vòng hai tuần lễ.
Phật
tánh vốn sẳn có trong chúng ta, đó là một điều không còn
nghi ngờ gì cả. Vậy làm sao mình có thể trở thành
một cái gì khác? Chúng ta đang hiện hữu lúc này và
ở đây. Nhưng điểm chính yếu là làm sao nhận diện
nó là như thế nào — kinh nghiệm, trạng thái, ý thức hệ?
— và làm sao áp dụng nó vào đời sống sau khi nhận diện
nó. Đó là một quá trình tu tập không đoạn cuối.
Nó không dễ. Nó cần rất nhiều cương quyết. Nó
đánh đổi bằng rất nhiều sự hy sinh, dấng hiến chân thành
cho bản thân chúng ta và cho mọi người chung quanh.
Dĩ
nhiên, trong khi chúng ta tu tập, thì mọi sự và lý sẽ hòa
nhập và vận hành cùng phát triển với nhau. Mặc dù
chúng ta không thích, nhưng chúng ta vẫn phải ngồi. Thật
tình mà nói, tôi cũng không thích giống như bạn. Nhưng
khi chúng ta ngồi một cách kiên trì và nhẫn nại qua những
cơn đau như thế, có một cái gì đó phát triển trong mỗi
chúng ta. Nếu có thể, thì trình pháp đều đặn với
vị thầy; nó có thể không phải cái thứ mình nghĩ; nó cũng
có thể không phải là cái mình đã suy đoán trong đầu.
Chúng ta thay đổi (Quả) bởi cái chúng ta làm (Nhân).
Và chúng ta đang làm cái gì? Nó tùy thuộc vào sự lựa
chọn của chúng ta trong từng giây phút; hoặc là từ bỏ cái
giấc mơ của cái bản ngã không thật có của mình, hoặc
là nhận cái bản chất hiện tại của mình như-nó-là.
Lúc
ban đầu, có thể chúng ta không hiểu vì nó có vẽ quá trừu
tượng. Khi tôi lần đầu tiên nghe thuyết pháp, tôi đã
nghĩ, “họ đang nói gì vậy?” Nhưng chúng ta nên có
đủ niềm tin để thực hành tọa thiền mỗi ngày, đi xuyên
qua sự mơ hồ, luôn kiên trì, tu tập một cách nghiêm chỉnh.
Đây không phải là điều dễ dàng gì, cho nên những ai đã
trãi qua khóa tu học thành công rất đáng được ca ngợi.
Tôi không muốn làm chương trình tu tập khó khăn hơn mức
độ cần thiết. Tôi nghĩ những ai đến đây để tu
học, họ là những người có tinh thần hướng thượng.
Nhưng chính bạn mới là người có thể đem cái tinh thần
đó của bạn áp dụng vào sự thực hành.
Trên
phương diện tinh thần, chúng ta chỉ là những trẻ thơ; chúng
ta chỉ trưởng thành trong một giới hạn chừng mực nào đó
thôi. Thật ra, tầm khả năng phát triển của chúng ta
là vô hạn. Nếu chúng ta thực hành đủ kiên nhẫn, bền
chí, phấn đấu, nổ lực, chúng ta sẽ góp phần thật nhiều
cho thế gian này. Nếu chúng ta thể nhập được
vào bản thể của đời sống, lúc đó mới là lúc chúng ta
sống với trọn vẹn — có từ bi hỉ xã — có sự hài hòa
cho mọi người, cho bản thân. Vì vậy, tu tập hay khôn,g
là tùy theo mỗi người chúng ta.
Đó
là tiến trình, còn quyết định làm hay không là tùy theo chúng
ta. Phương thức có thể còn trừu tượng đối với một
số người, và họ cần thời gian (có thể nhiều năm) mới
trực nhận ra là phải làm như thế nào là đúng. Còn
bây giờ ở giai đoạn này, hãy cố gắng hết khả năng: đến
tu học, liên tục tọa thiền, nổ lực trau dồi tận khả
năng. Những việc này rất quan trọng: đây là một quá
trình chuyển hóa quan trọng bậc nhất trong một kiếp người.
Thẩm
quyền
Sau
nhiều năm giao tiếp với nhiều người, tôi vẫn còn kinh ngạc
là, có vấn đề tồn tại giữa đời sống và sự tu tập
của chúng ta. Không đâu! Nhưng nói là một
chuyện, còn nhận diện ra nó hay không là một chuyện khác.
Lời cuối của đức Thế tôn trước khi đại Niết bàn là,
“mỗi người hãy tự là ngọn đèn cho chính mình.” Ngài
đã không có nói, “Hãy tìm đạo sư này hay thiền sư kia,
hoặc đến trung tâm Thiền kia hay thiền đường nọ.”
Không phải là như vậy, mà một lần nữa là, “Tự là ngọn
đèn cho chính mình.” Hay là, “Hãy tự thắp đuốc (ngọn
đuốc kia chính là Chánh pháp) lên mà đi.”
Đề
tài mà tôi muốn nói ở đây là vấn đề của “Thẩm quyền.”
Thông thường chúng ta hoặc là có thẩm quyền đối với người
khác (chỉ họ phải làm gì), hoặc là, tìm người lãnh đạo
mình (bảo mình làm gì). Nhưng nếu chúng ta có đủ tự
tin và sự hiểu biết thì chúng ta sẽ không tìm kiếm người
lãnh đạo cho mình. Trong những trường hợp khẩn cấp,
cuộc sống chúng ta có những phiền não, rắc rối, bấn loạn
thì chúng ta nghĩ rằng chúng ta cần phải có một người linh
hướng để chỉ cho ta phải làm gì. Tôi hay cảm thấy
tức cười khi có một vị thầy ghé thăm, thì mọi người
đổ xô nhau để gặp người đó. Nói cho bạn nghe là,
khoảng cách bao xa tôi phải đi để gặp vị thầy mới: có
lẽ bên kia hành lang, chớ không xa hơn! Bởi lẽ tôi không
phải là tôi không thích người này, mà là vì tôi biết rõ
rằng, không ai có thể cho tôi biết về cuộc đời tôi ngoại
trừ — ai? Không có thẩm quyền ở ngoài chính kinh nghiệm
của mình.
Nhưng
bạn có thể phản vấn, “Nhưng tôi cần một người thầy
để giúp tôi thoát ly đau khổ của tôi. Tôi khổ và
tôi không biết gì về nó. Tôi cần một người chỉ
cho tôi phải làm những gì, phải không?” Không đúng!
Bạn có thể cần, đó là một pháp tu; bạn cần người giảng
nghĩa rõ ràng phương pháp đó để bạn áp dụng vào đời
sống của mình — một người có thể giúp bạn hiểu được
rõ ràng rằng: người có thẩm quyền, là vị thầy thật sự
cho cuộc đời bạn chính là bạn — và chúng ta tu tập là
để nhận diện kẻ thẩm quyền này “ông chủ.”
Chỉ
có một người thầy. Người thầy đó là cái gì?
Bản chất của đời sống. Dĩ nhiên, mỗi người chúng
ta là một sự biểu hiện của đời sống, chứ không là gì
khác hơn. Bây giờ đây, sự sống vẫn đang diễn tiến
không ngừng nghỉ, vừa chặc chẽ, vô tận và luôn luôn dạy
chúng ta. Đây mới là một sự chỉ đạo mà chúng ta
nên tin tưởng, và hiện hữu bất cứ thời gian, không gian
nào. Bạn không cần phải đi đến một nơi đặt biệt
nào cả để tìm ra vị thầy tốt hơn; bạn không phải có
một hoàn cảnh thuận tiện (căn phòng yên tĩnh, đèn lờ mờ,
xa đường xe chạy… căn thất?) Thật ra, hoàn cảnh càng
bất tiện lại càng tốt hơn. Một góc nhỏ trong phòng
đọc sách đã là quá tốt rồi. Một căn nhà bình thường
thì che đủ nắng mưa rồi. Những nơi như thế thường
không bao giờ ngăn nắp cả — bao giờ cũng có một cuốn
sách phải nhặt lên, một mãnh giấy vụn nên nhặt, … Tất
cả chúng ta đều biết cái kinh nghiệm trực tiếp từ nguồn
này! Nó (một người thầy) lúc nào cũng dạy (thẩm quyền)
chúng ta.
Đây
là một học đường siêu cấp không phải ai cũng có thể
học được. Người ta thường hay ngoảnh mặt quay đi
đối với những phương thức dạy thế này. Họ không
muốn nghe. Họ hay là bạn muốn nghe những gì? Cho
đến khi nào chúng ta bị khổ đau tận cùng; trong cơn tuyệt
vọng, thì chúng ta mới bắt đầu biết và chịu học những
kinh nghiệm do khổ đau mang đến. Còn bằng không như
thế, chúng ta cũng giống như là những con chim non. Chim
non thì làm những gì? Chúng chỉ biết mở miệng ra và
đợi chờ được mớm thức ăn. Chúng ta tương tự thế,
“Làm ơn đúc cho tôi những bài pháp tuyệt vời, tôi chỉ
sẽ mở to miệng nhưng bạn phải cho thức ăn vào.”
Giống như chúng ta luôn nói, “Khi nào cha mẹ tới?” thì
chúng ta lại nói, “Cho tới khi nào vị đạo sư, người linh
hướng mới xuất hiện, trao truyền cho tôi những bí pháp
để diệt đi đau khổ trong đời tôi?” Tin mừng là,
Cha và Mẹ đã đến tự bao giờ rồi. Nhưng ở đâu?
Ở đây. Cuộc sống luôn luôn ở đây! Nhưng vì
cuộc sống của tôi sao khó khăn, cô đơn, buồn bã, ảm đạm;
nếu cần phải trực diện với cuộc đời (như-nó-là) thì
ai chịu làm chuyện ấy. Chắc có lẽ không có ai.
Nhưng khi bắt đầu kinh nghiệm được phút giây hiện tại
— người thầy chân chính — hòa nhập được từ tư
tưởng, cảm giác vào phút giây hiện tại, thì chúng ta sẽ
sống được với sự tuyệt vời của Pháp, của Chân lý,
của Hỷ lạc. Đó là tu tập thiền mà chúng ta không
cần phải dùng đến từ “Thiền”.
Mạch
sống cuộc đời đã đợi chờ ở đây từ bao nhiêu kiếp
thời gian rồi. Chúng ta không thể lẫn tránh (dòng bộc
lưu) dù chúng ta có muốn làm thế: trong khi làm việc; khi với
bạn bè, gia đình, bất kỳ nơi đâu nó đều hiện hữu.
“Tọa thiền, tụng kinh đều đặn.” Nếu chúng ta hiểu
rằng, mỗi phút giây đời sống là bài học, chúng
ta sẽ không thể lẫn tránh học hỏi. Nếu chúng ta thể
nhập từng phút giây, sẽ không có khoảng trống cho trần
cảnh bên ngoài chen vào chi phối và điều khiển ta. Nơi
nào nó có thể trú đây? Khi tôi chính là cơn khổ đau
của tôi, thì thẩm quyền đang ở đâu? Sự chú tâm,
bản thể của kinh nghiệm chính là Thẩm quyền, và nó cũng
là nét rõ ràng cho hành động tốt nhất cần phải làm trong
phút giây đó.
Có
một vấn đề là chúng ta có chiều hướng nhận diện sai
lầm về Thẩm quyền. “Nếu tôi là người có mọi thẩm
quyền về tôi, vậy không ai có thể bảo tôi phải làm một
điều gì cả.” Có một cái gì không ổn ở đây?
“Tôi có tất cả thẩm quyền của tôi! Tôi sẽ đặt
ra quan niệm sống cho riêng tôi, cách thức riêng tập thiền
của tôi.” — thì rõ ràng chúng ta không bình thường chút
nào cả. Nếu hiểu thẩm quyền (trong ý nghĩ hạn hẹp)
như thế, thì chúng ta rơi vào nhị nguyên; lúc này thẩm quyền
có nghĩa là Chủ đối lập lại với Tớ. Nếu tôi là
kẻ có mọi thẩm quyền đối với tôi (trong nghĩa hạn hẹp
này), thì tôi cũng chỉ là một nô lệ cho bản thân giống
như là nô lệ cho một người khác. Đây là điều mà
chúng ta cần phải thông suốt rõ ràng, nếu không chúng ta
có thể bị chới với như đứng trong cát chảy: Nếu
bạn không là chủ, tôi cũng không là chủ, những người khác
bạn biết hoặc tôi biết cũng không là chủ, thì sự gì xảy
ra? Bạn thấy thế nào?
Gọng
kềm của Sợ hãi
Sự
hạn chế của quan niệm về cuộc đời đã có từ lúc bắt
đầu. Thực chất của quan niệm là nhân tố cho sự giới
hạn của nó: nam hay nữ, chúng ta đều có những khuynh hướng
dựa vào sự yếu đuối cơ thể hay vài loại bệnh tật nào
đó. Tất cả những sự cố, hoàn cảnh, môi trường
tạo ra cá tính riêng cho mỗi người. Bằng chứng điển
hình là những người mẹ cưu mang, có sự khác biệt lớn
giữa các con mình ngay từ trong bụng; nhưng chúng ta chỉ thấy
sự khác biệt ở lúc sinh xong. Với chúng ta, đứa trẻ
sơ sinh thật vô tư và cởi mở. Trong những tuần đầu tiên,
điều cần thiết cho đứa bé là duy trì sự sống, chỉ nghe
tiếng khóc của em bé, mọi người trong gia đình đều đình
chỉ mọi công việc đang làm ngay, và ai cũng tìm cách làm
một điều gì đó để êm dịu nó. Đứa bé cũng học
được điều đó. Cuộc sống quả không luôn luôn suông
sẽ và dễ chịu. Tôi nhớ có một lần tôi làm rớt
con trai đầu lòng của tôi xuống đất khi nó vừa được
chào đời có sáu tuần vì nó trơn xà phòng.., tôi nghĩ tôi
là người mẹ vụng về nhất.