TUYỂN
TẬP TƯỞNG NIỆM
DAISETZ
TEITARO SUZUKI
1870 - 1966
Bản dịch:
HẠNH VIÊN
Nguyên tác:
IN MEMORIAM DAISETZ
TEITARO SUZUKI 1870 - 1966
(The Eastern Buddhist, New series, August 1967)
--o0o---
SHOKIN FURUTA
DAISETZ T. SUZUKI
Chánh pháp nhãn tạng (Nh. Shòbò
Genzò), trước tác trứ danh của sư Đạo Nguyên (Nh. Dògen, 1200 - 1253), tổ
sáng lập dòng Thiền Tào động Nhật bản, có sức hấp dẫn lạ kỳ. Người
ta không thể hiểu được những ý tưởng trình bày trong đó bằng những
phương pháp lý luận thông thường, dù vậy nó vẫn có sức thuyết phục
khó lý giải. Rõ ràng nó có riêng một triết lý đặc thù.
Nói về một triết thuyết
trong một ngữ cảnh Thiền không thể không nhớ đến Daisetz T. Suzuki. Lịch
sử của tư tưởng Thiền tông Nhật bản cho thấy có rất ít điển hình
những người có một triết thuyết minh bạch; một triết thuyết có hệ
thống lại càng ít hơn nữa. Trong thực tế, nếu người ta tìm trong lịch
sử người nào có thể xếp kế cận Đạo Nguyên thì một trong những người
đó là Daisetz Suzuki.
Thiền, với chủ trương loại
bỏ việc dựa vào văn tự và học thuyết, có vẻ phủ nhận mọi triết
thuyết minh bạch ngay từ đầu; nhưng thật ra không phải. Như chúng ta sẽ
thấy sau đây, Thiền mà thiếu triết lý sẽ mất đi tính sáng tạo của
nó.
Mục đích chính ở đây không
nhằm so sánh Đạo Nguyên với Daisetz; những khác biệt giữa Thời kỳ
Liêm thương (1192-1336) của Đạo Nguyên với thời đại ngày nay làm cho bất
kỳ so sánh nào như vậy đều vô nghĩa. Có một điều cả hai cùng có
chung là sự nhạy cảm sắc bén của quá trình tư duy của họ. Tuy khí chất
họ hoàn toàn khác nhau, tính cách của họ thường bổ sung cho nhau. Nếu Đạo
Nguyên bản chất nhạy cảm với tâm trạng căng thẳng cao độ, Daisetz có
thể được xem như không màng đến sự đóng băng tâm thức.
Nói về những điểm giống và
khác nhau của họ, có lẽ tôi đang thực hiện những so sánh về cái cùng
loại; cách nào đi nữa, cũng đều thú vị khi ta thấy Đạo Nguyên sang
Trung quốc học Thiền dưới thời Nam Tống, còn Daisetz sang Mỹ tìm hiểu
triết học Tây phương. Dù điều họ tìm học khác nhau, họ vẫn giống
nhau ở chỗ dấn thân theo những tư tưởng khác lạ. Họ còn giống nhau
ở chỗ dù mê mải với cái đang học, họ vẫn giữ nguyên vẹn năng lực
phán đoán của mình. Thời đại ngày nay phức tạp hơn thời kỳ Liêm thương
nhiều. Ta không thể nói Daisetz có sẽ chiếm lĩnh một vị trí trong lịch
sử tư tưởng như Đạo Nguyên hay không. Mặc dùử vậy, bất kể vai trò
tương đối thứ yếu của triết học và tôn giáo trên diện mạo của lịch
sử hiện đại so với chính trị hay kinh tế, hình như tên tuổi của
Daisetz cũng khó có thể bị lãng quên. Cội rễ của những tư tưởng ông
đưa ra đã cắm sâu xuống, và những cội rễ như vậy không dễ dàng héo
chết ngay cả khi những mầm non của nó vừa nhú lên mặt đất đã bị dẫm
đạp.
Tôi muốn ví triết lý của
Daisetz như loài cỏ dại. So sánh này, tôi sẽ giải thích ngay đây, được
vay mượn từ Đạo Nguyên, và tôi thấy thật thích hợp khi chọn Daisetz để
nhắc đến những trước tác của một người mà tên tuổi luôn gợi đến
vai trò kế thừa của ông trong thế kỷ hai mươi này.
Với những ai phản đối sự
so sánh này, tôi muốn nói là tôi không hề coi rẻ loài cỏ dại khiêm nhường.
Hầu hết cỏ dại đều có một sinh lực mạnh mẽ thường bị lầm nhận
qua bề ngoài yếu đuối của chúng. Sự ngoan cường của chúng thường có
thể, thật vậy, là căn nguyên của sự phiền nhiễu - nhưng đó không phải
là việc so sánh của chúng ta ở đây.
Bài "Kiến thành Công án
(Genjò Koàn)ử" trong Chánh pháp nhãn tạng, Đạo Nguyên nói: "Hoa
tàn rơi thì tiếc, cỏ sống mãi lại quên."ệ Nghĩa ở đây là chữ
"sống mãi": hoa (dĩ nhiên, ở đây ông nói đến hoa anh đào) thì
đẹp nhưng thiếu sức mạnh sinh tồn mà nếu không có thì một vật dù đáng
yêu nhất vẫn diệt vong. Không phải triết học của Daisetz không hề có
nét đẹp của hoa, nhưng so sánh nó với hoa sẽ tạo ý nghĩ sai lầm về chân
giá trị của nó - dù là cách diễn tả thi vị và văn hoa. Từ "lãng
quên", mặt khác, có một âm sắc khó chịu, tuy nhiên thực ra cái học
hàn lâm không phải là điều có thể được tựu thành với vẻ ngoài được
suy tôn quá đáng. Bị người xa lánh trong thực tế lại giúp nhà học giả
hiến trọn đời mình cho sự nghiệp. Trong những năm sau này Daisetz đã cho
thấy có sự thay đổi đáng kể, trở nên hòa đồng hơn, nhưng hai hay ba
mươi năm trước đó ông hoàn toàn không phải là một người giỏi giao tiếp.
Ông đứng cách biệt mọi người, bằng cả tính cách cá nhân lẫn trong học
thuật.
Tục ngữ xưa có nói: "đứa
trẻ bị ghét thì tươi tốt lâu dài." Dường như, quả thật, những
đứa trẻ được quá cưng yêu lại thường đoản mạng, ngược lại những
đứa bị hắt hủi bỏ bê lại sống lâu và phồn thịnh. Cho nên nhiều người
tin là hồng nhan thì bạc mệnh. Một trùng hợp quái quỷ của tình cảm
con người là những gì người ta yêu mến dường như chóng qua, trong khi
cái mình không thích thì kéo dài lê thê. Thương tiếc một cái gì không
còn nữa đồng nghĩa với sự ngắn ngũi, thoáng chốc, ngược lại không
ưa thích luôn đi đôi với sự bền lâu và chậm rãi. Nhưng nói ngược lại,
không có nghĩa là sự lâu bền và chậm rãi nhất thiết phải bao hàm nghĩa
ghét bỏ, sự bền lâu và chậm rãi chỉ có nghĩa là nó không bao giờ gợi
lên trong chúng ta cảm giác luyến tiếc vì sự trôi đi nhanh chóng của thời
gian. Với sức sống mãnh liệt, cỏ dại vẫn phát triển dù không được
chăn sóc. Daisetz đã sống - và sống một cách mạnh khỏe - đến trọn 96
năm. Cái chết của ông, dù nó nhắc nhớ chúng ta bản chất phù du của kiếp
nhân sinh, hầu như không mang đến cùng nỗi tiếc nuối như người ta cảm
nhận trước sự lụi tàn của cánh hoa anh đào trong một đêm mưa. Nếu ta
do dự khi nói ông đã "trưởng thành trong lãng quên" thì ta có tự
do thay thế bằng từ "yêu thương", nhưng ngay cả diễn đạt này vẫn
thiếu sức mạnh cốt yếu của con người. Theo tôi hiểu, Daisetz là một
người đã lớn lên bằng- đã tích cực thụ hưởng-sự lãng quên, và đã
sống trọn cuộc đời như ông đã quyết định sống.
Đạo nguyên mất năm 1253 ở
tuổi 53. Daisetz sống lâu hơn thế trên 40 năm. Cái chết của Đạo nguyên,
có lẽ, là cái chết sớm của những người được đất trời đặc biệt
ban ơn. Khó có thể nói như vậy đối với một người trường thọ như
Daisetz.
Khi so sánh triết học của
Daisetz như loài cỏ dại, tôi còn có vài ý tưởng khác. Đó là hai bài thơ
trứ danh trong tập Shin Kokinshù - một hợp tuyển nổi tiếng của triều đình
gồm những bài hòa ca (waka; thơ 31 âm tiết)- mà Rikyù (Lợi Hưu; 1521 - 91)
một đại sư trà đạo đã trích dẫn trong cuốn Nambòroku của ông. Bài thứ
nhất của Fujiwara Sadaie: Mênh mông tầm mắt nhìn không thấy / không Anh đào,
không cây phong/ trên mái nhà tranh ven bãi / ánh hoàng hôn mùa thu. Bài thứ
hai, của Fujiwara Ietaka: Với người chỉ mong chờ / mùa hoa Anh đào nở /
tôi sẽ chỉ mùa xuân / trên bản làng rẻo cao / cỏ vươn lên khỏi tuyết.
Rikyù ví bài thơ của Sadaie như một diễn tả tuyệt mỹ những khái niệm
của Phật giáo về tánh Không và tinh thần chủ yếu của trà đạo. Ông
xem thơ Ietaka như là diễn đạt cái nhu cầu, là giai đoạn kế tiếp, cần
đếữn tánh Không để sáng tạo sự vật từ chính nó - cần có một chức
năng riêng biệt để làm hiển lộ cái không phân biệt. Cảnh trí mùa thu
hoàng hôn nơi túp lều tranh - bãi biển xác xơ một cánh anh đào, những
chiếc lá bàng đỏ rực, hay bất cứ màu sắc nào - đều bị bao trùm
trong màn tuyết, như thế diễn tả hoàn hảo hơn trạng thái Không chi,
không phân biệt. Nhưng rồi, qua những tia nắng đầu tiên của mùa xuân,
tuyết bắt đầu tan, và từ bên dưới những chồi non đầu tiên của ngọn
cỏ sẽ nhú lên. Đối với Rikyù, ngọn cỏ này nhú lên khỏi tuyết là sự
diễn tả hoàn hảo những tác dụng huyền nhiệm của cái Không. Người ta
cần hiểu rõ cái Không này nếu muốn nắm bắt chân tinh thần của nghi thức
trà đạo.
Triết học của Daisetz, theo một
ý nghĩa, như đám cỏ dại hèn mọn nhú lên khỏi mặt tuyết. Nó hiện hữu
vượt ngoài khóm hoa và tàn lá thu. Chính triết học chân Không ấy gợi nhớ
hình ảnh "hoàng hôn mùa thu nơi túp lều tranh ven bãi." Triết lý
chân Không này nguyên thủy xuất phát từ kinh nghiệm của ông do tư duy Thiền
trong thời tráng thịnh, nhưng tầm nhìn ra của ông được mở rộng bằng
những nghiên cứu Phật giáo của ông về sau. Về sau nữa, ông tập trung
trên Thiền và các giáo thuyết Tịnh độ; chúng thêm vào, nhất là Thiền,
một chiều sâu mới cho bề rộng mà ông đã có được. Có nhiều cách
khác nhau để diễn giải triết học Chân Không - hoặc nói là học thuyết
vô tâm, hoặc nói là ý tưởng về sự "niệm cái không niệm (niệm
vô niệm niệm), hoặc là
"Luận lý phủ định."
"Vô tâm" chỉ cho trạng thái của tâm đã siêu việt nhu cầu hoạt
dụng bằng những khái niệm trí năng - cũng là cách khác diễn giải
"niệm cái không niệm." "Luận lý phủ định" muốn nói đến
niềm tin rằng khẳng định "A là A" chỉ có thể là chân lý hiện
thực khi nào nóvượt qua sự xác quyết "A là phi-A." Nói rằng
"A là A" là phán đoán dựa trên khái niệm hóa bình phàm. Phát biểu
"A là phi-A" giới thiệu bước nhảy vọt vượt qua quá trình khái
niệm bình phàm ấy, trong khi sự tái khẳng định A tiếp theo sau là
"niệm cái không niệm." Ý niệm sau cùng này đôi khi chỉ cho
"trực giác thiên khải," một từ mà Suzki thường dùng khoảng trước
sau 1944-1946.
Tác phẩm xuất bản năm 1939 tóm
tắt các quan điểm Suzuki về "vô tâm" là Mushin to yùkoto (nói về
Vô tâm). Điều có ý nghĩa là trong tác phẩm này ông đề cập đến
"hoạt dụng của vô tâm."
Thuyết vô tâm của Suzuki,
khái niệm hóa không khái niệm, luận lý học của phủ định, đại loại
như thế, dĩ nhiên, không phải là những thứ độc sáng, và rõ ràng phần
lớn do từ nền triết học của các kinh điển Thiền và bộ kinh Bát nhã
(prajĩàpàramità), một trong những viên đá tảng triết học của Phật
giáo Đại thừa. Cái làm cho những ý tưởng của ông về Chân không trở
nên đặc sắc là nỗ lực của ông muốn hệ thống hóa ý niệm Chân
Không trên cơ sở tư duy và kinh nghiệm Thiền của riêng ông. Thêm nữa, kiến
thức từ những ý niệm phương Tây mà ông thu lượm được suốt thời
gian sống ở Mỹ đã giúp ông trong cố gắng rọi sáng bản chất cố hữu
của khái niệm Chân Không mang tính Đông phương một cách đặc biệt. Về
phương diện này, sự luận giải của ông về ý niệm Chân Không khác rất
nhiều so với các nhà kinh điển Đông phương trong quá khứ.
Đối với Daisetz, tinh yếu của
Chân Không không phải là tuyết trắng, mà là những chồi non tìm đường
vươn lên mặt tuyết. Khi ta muốn nhận xét ông thường nhận định tư tưởng
Đông phương khác với Tây phương như thế nào, khi ấy ta phải thấy ngọn
cỏ tự bản thân tương ứng với tư tưởng Tây phương. Trong các tác phẩm
của Daisetz, như thế, ý niệm về Chân Không, dù chính yếu nó thuộc về
Đông phương, cũng có một vài chỗ gần gũi với các ý niệm của Tây phương.
Con số to lớn của các độc giả Tây phương hấp dẫn bởi sách của ông
cho thấy không phải chỉ do tiếng Anh của ông tuyệt vời.
Tuy vậy, chúng ta hãy trở lại
đề tài nguyên khởi của mình - "những cọng cỏ từ lâu phồn thịnh
trong sự quên lãng." Ít có trí thức Nhật Bản nào trong thời cận đại
đã tuôn ra nhiều tác phẩm vào cuối đời mình như Suzuki. Danh sách các
tác phẩm của ông cho thấy sự phong phú vào những năm giữa 1953 khi ông
64 tuổi và 1948 khi ông 79 tuổi. Thật đáng kinh ngạc, không dưới chín
tác phẩm được xuất bản trong năm cuối cùng của thời kỳ này, 1948. Lại
còn đáng kinh ngạc hơn nữa, cũng trong thời kỳ này chín tác phẩm cũng
được xuất bản bằng tiếng Anh. Ngay cả cỏ dại cũng không thể phồn
thịnh một cách hiếm hoi như vậy. Thậm chí, ngay sau đó hằng năm ông tiếp
tục xuất bản nhiều tác phẩm mới, và toàn bộ tác phẩm của ông - quyển
cuối cùng là Tôyô no Kokoro (Tâm của Đông phương), xuất bản mùa thu
1965, một năm trước khi ông mất - tổng kết có hơn một trăm quyển bằng
tiếng Nhật và hơn ba chục bằng tiếng Anh. Cho ra nhiều sách không nhất
thiết là đáng khâm phục, - tất nhiên - một vài triết gia không sản xuất
quyển sách nào cả - nhưng trong trường hợp Suzuki có nhiều người còn muốn
ông cho ra nhiều hơn nưã nếu có thể. Ông sống trải qua ba triều đại -
Minh trị (Neiji), Đại chánh (Taishô) và Chiêu hòa (Showa) - và mỗi giai đoạn
đều có ý nghĩa lịch sử của nó. Thật vậy, vị trí của ông, như là
nhân vật kinh qua sự phát triển vững chắc qua ba triều đại này thật đáng
chú ý, dù ông được coi như là một người Nhật hay là công dân thế giới.
Ở đây, ông khác với các trí thức khác. Ở Nhật, người ta tin rằơng
trí thức dễ suy sụp ngay khi có dấu hiệu đối kháng đầu tiên. Nhưng
Suzuki bất chấp thể hình nhỏ con có sự quả quyết sức mạnh nội tâm
kinh ngạc. Ngọn cỏ dại, cho dù chỉ là cọng cỏ dại, đã cắm sâu rễ
của nó xuống lòng đất.
Cọng cỏ dại tầm thường kết
hạt, tung vải khắp nơi, không ngừng lan tỏa. Những nụ chồi mà Suzuki
ươm lớn ngoi lên mặt tuyết rồi sẽ đến lúc cho trái sun xuê khi mùa
xuân nhường lối cho mùa hè, và mùa hè sang mùa thu. Bản thân Suzuki không
còn trên cõi đời này nữa, nhưng những hạt giống mà ông đã gieo - người
ta cũng có thể gọi là cỏ dại - sẽ đâm chồi ở những chỗ bất ngờ
nhất, ở Nhật cũng như ở phương Tây.
Mặc dầu người ta có bàn luận
về "tư tưởng Thiền," thì sự thực vẫn là Thiền trọng thị
tính độc lập của nó đứng ngoài văn tự và thuyết lý, và như vậy
người ta có thể nêu lên câu hỏi là làm thế nào Suzuki có thể có một
nền "triết học Thiền." Ở đây cần có một lời để đính
chính sự hiểu lầm thông thường đối với Zen. Không lập trên văn tự
không hoàn toàn có nghĩa rằng văn tự là vô ích. Kỳ cùng, nó muốn nói,
rằng ta không nên lãnh hội bằng vào những khái niệm của trí năng - rằng,
nói cộc hơn, ta không nên cố hiểu nó bằng cái đầu. Nghĩa là, ta phải
kinh nghiệm sự vật một cách trực tiếp, không qua khái niệm hóa - kinh
nghiệm chúng, nghĩa là, bằng toàn thể thể tánh của mình, chứ không phải
chỉ bằng trí năng của mình. "Tư tưởng" Thiền, ta có thể nói,
là thành quả của tư duy không thông qua khái niệm. Trong nhiều tác phẩm
đã xuất bản của mình, Suzki bàn về bản chất của "tư
duy không thông qua khái niệm"
và làm thế nào để phát triển nó trong truyền thống Thiền suốt quá
trình lịch sử. Tất nhiên ta có thể tóm tắt triết học Zen của Suzuki như
là nỗ lục áp dụng càng xa càng tốt nguyên tắc "tư duy không thông
qua khái niệm" trong khi truy tìm những giáo thuyết của Thiền đứng
ngoài văn và giáo.
Thiền như một tôn giáo có tổ
chức thường có xu hướng đẩy thái độ không tin tưởng văn giáo này
đi đến chỗ loại bỏ tất cả hành vi triết lý coi đó như là trở ngại,
nhưng thực tế Thiền mà không có triết lý thì còn hơn cái xác không hồn.
Thực hành Thiền mà tước đi các ý niệm thì sẽ thoái hóa thànhmột thứ
chủ nghĩa khắc khổ, một thứ kỷ kuật vật lý thuần túy. Ít ai dám nhấn
mạnh như Suzuki rằng không lập văn tự không có nghĩa là vì văn tự chẳng
ích gì. Tất cả các tác phẩm được viết ra, mà ông đã bỏ cả cuộc
đời mình lên đó, trong phương diện này, đều nhằm biện minh về mặt
triết học cho ý tưởng về một chân lý khả dĩ hội thông bằng phương
tiện văn giáo. Chắc chắn là nhờ Suzuki chứ không phải nhờ Giáo hội
Thiền tông mà ngày nay cả thế giới chứng tỏ có hứng thú rất nhiều nơi
Thiền.
Mặc dù được tuyên bố là bất
lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, Thiền đã sản xuất nền văn học
lớn hơn bất cứ tông phái Phật giáo nào. Hơn thế nữa, nền văn học này
ngày nay vẫn còn được đọc rộng rãi. Chẳng hạn, Bích nham tập, được
biên tập dưới triều nhà Tống, đã được truyền đọc coi như là tác
phẩm quan trọng nhất của Thiền ngay từ xưa. Tuy nhiên, kinh điển Thiền
ngày nay rất khó có thể làm cho truyền đọc phổ thông đại chúng. Ấy
thế mà các tác phẩm của Suzuki lại được đọc và thưởng thức bởi số
rất lớn độc giả ngày nay. Số lượng to lớn của sách Thiền được sản
xuất là một bằng chứng khả xúc cho thấy văn tự không hẵn là vô ích,
và các tác phẩm của Suzuki là sự tiếp cùng truyền thống ấy.
Như tôi đã nói, so sánh Suzuki
và triết học của ông với hoa anh đào hình như không thích hợp, có vẻ
như lạc đề mặc dù ví đám cỏ dại có thể gần giống. Không phải mọi
người không thương tiếc ông qua đời, nhưng con người ông và tư tưởng
của ông không rơi rớt và không biến mất trong một sớm một chiều. Sư
hiện diện hữu hình của ông không còn nũa, nhưng chắc chắn ông sẽ sống
mãi như là nguồn cảm hứng trong tâm khảm mọi người, còn tư tưởng của
ông thì tồn tại và khi thuận tiện thì rải xa và rộng khắp cả thế giới.
Vì vậy, tôi so sánh ông với đám cỏ thô xấu nhưng sinh sôi. Dù có vẻ
quên lãng, Thiền mà ông đã giảng dạy đang trải rộng cả đến trong các
tôn giáo khác. Những người Cơ đôữc chảơng hạn cũng chứng tỏ tìm thấy
hứng thú nơi Thiền, bất chấp một khối lớn chống đối.
Daisetz từ giã cõi đời này
hôm 21 tháng Sáu, 1966. Tôi nhớ lại một thoại đầu của Thiền: "Đám
mây hừng mùa Hạ làm tan chảy tuyết trắng" - đề cập đến phương
cách mà sự giác ngộ chân chính tống khứ cách lãnh hội bằng khái niệm
tầm thường. Vào buổi sáng mùa hè nóng và ẩm ấy, đống tuyết tích tụ
bỗng trôi đi và đổ xuống, đè bẹp những chồi non vừa nhú lên mặt
tuyết. Vào lúc này, Daisetz chấm dứt các hoạt động thế gian. Tuy có bị
đè bẹp dưới tuyết, rễ của đám cỏ vẫn vươn sâu xuống lòng đất.
Khi tuyết tan, cỏ sẽ đâm những nụ chồi mới.
Một lời cuối: có người nói
Thiền của Suzuki là Thiền của triết học Lâm Tế. Đúng là một vài tác
phẩm của ông có nói đến triết học Lâm Tế, nhưng điều đó không có
nghĩa là phải hiểu Lâm Tế như là tông môn riêng biệt. Tư tưởng của
ông liên hệ bất cứ phái Thiền đặc biệt nào, dù Lâm Tế hay Tào Động,
hay Bá Trượng. Do thực tế này mà Thiền của ông có bản sắc riêng, và
nó sẽ không chịu để cho bất cứ ý định nào muốn nhét nó vào một
khuôn khổ tông riêng phái biệt.
S. F.
ALAN WATTS
HỌC GIẢ
"VÔ TÂM"
Trong đời sống tinh thần, tôi chưa từng
có một vị thầy chính thức (Guru, sư phụ hay Roshi, lão sư ), chỉ có một
người mô phạm mà tôi không hoàn toàn noi theo vì không một người nhạy
cảm nào thích bị bắt chước. Người mô phạm đó chính là Suzuki Daisetz
- một người vừa tinh tế vừa giản dị nhất mà tôi từng biết. Tôi cảm
thấy rất tương đồng với khí chất hay phong độ (Ạ ) tinh thần và
trí thức của ông, dù tôi chưa từng quen biết ông thật sự thân thiết
và dù bản thân tôi là một tính cách hoàn toàn khác hẳn. Suzuki đã khơi
mở Thiền cho tôi khi tôi đọc quyển Thiền luận (Essays in Zen Buddhism) của
ông lúc còn là thanh niên, và từ đó tôi đã say sưa đọc hết mọi thứ
ông viết. Vì mọi thứ ông nói đều bất ngờ và kết thúc mở. Ông
không đi trên những lối mòn quen thuộc của tư tưởng triết học và tôn
giáo. Ông nói tùy hứng, ông lạc đề, ông buông ra vài gợi ý, ông để bạn
lơ lững giữa thinh không, ông làm bạn kinh ngạc vì sở học (phi thường)
của ông mà vẫn cuốn hút bạn bằng sự uyên bác được vận dụng một
cách tinh tế và khiêm nhường. Vì tôi đã nhận thấy trong khối lượng tác
phẩm ngỗn ngang đầy thú vị đó một lối đi dẫn đến khu Vườn của
những đối nghịch được hòa giải.
Ông cho thấy tại sao Thiền cực
kỳ khó và vô cùng dễ, tại sao nó vừa khôn dò lại vừa hiển nhiên, tại
sao cái vô hạn và vĩnh cửu cũng cụ thể như cái lỗ mũi của bạn hiện
thời, tại sao đạo đức vừa thiết yếu vừa chẳng liên quan tới đời
sống tâm linh, và tại sao jiriki (nỗ lực cá nhân hay tự lực) cuối cùng
cũng có ý nghĩa như tariki (giải thoát thuần bằng niềm tin hay tha lực).
Điều trớ trêu theo Suzuki là không bao giờ "vẫn như cũ", như thể
cuối cùng bạn đã hiểu vấn đề của ông và cảm thấy vững chắc -
thì lần sau ông sẽ cho thấy bạn đã hoàn toàn đánh mất nó.
Suzuki còn đứng ngoài những lề
thói thường tình ở đó, không tỏ ra chút lập dị nào, ông không hề xuất
hiện dưới khuôn mẫu một "tính cách Thiền" như ta thường thấy
ở các nhà sư Nhật Bản. Bất cứ ai lần đầu gặp ông, mong đợi tìm thấy
một ông già khả ái với đôi mắt sáng quắc, ngồi trong một gian phòng
trống trải kiểu shibui và sẵn sàng thu hút bạn bằng lối ứng xử nhanh
nhẹn và sôi nổi, hẳn sẽ rất ngạc nhiên. Bởi vì Suzuki, với cặp chân
mày phi phàm, trông giống một Đạo gia- một kiểu Lão tử của sách vở -
có thiên tài, như mọi Đạo gia xuất sắc, về cái chỉ có thể gọi là
tính trào lộng siêu hình. Rất thường khi mắt ông sáng long lanh như thể
ông đã nhìn thấy Trò đùa Tối hậu mà dường như, do sự thương cảm
cho những ai không có, ông đã kềm chế không bật cười ha hả.
Ông sống trong ngôi nhà kiểu
Tây phương ở Liêm thương quê ông giữa hàng đống sách báo. Sự bừa
bãi chữ nghĩa này giăng khắp các phòng mà mỗi nơi ông dành để viết một
tác phẩm khác nhau hoặc một chương khác nhau trong một tác phẩm. Như vậy
ông chỉ việc đi từ phòng này sang phòng khác chứ không cần thu dọn hết
các tài liệu tham khảo khi ông muốn nghiên cứu riêng một đề tài nào,
nhưng không biết làm sao mà cô Okamura, thư ký đáng phục của ông (như một
nữ thần apsara từ cõi Tây phương hiện xuống để chăm sóc ông lúc tuổi
già), đều biết rõ mọi thứ nằm ở đâu.
Suzuki nói tiếng Anh tuyệt hảo
một cách chậm rãi, cân nhắc và từ tốn, hơi pha giọng Nhật nghe rất thú
vị. Trong đàm thoại, ông thường sử dụng giấy và bút để tự giải thích
thêm, vẽ những biểu đồ để minh họa các tiêu điểm và dùng chữ Hán
để minh định những thuật ngữ của ông. Dù là một người kiên nhẫn,
ông có biệt tài dập tắt lối luận bàn mông lung hay vẻ thông thái rỡm
mà không gây xúc phạm. Tôi nhớ trong một buổi diễn thuyết, có một
thính giả đã hỏi ông: "Thưa Bác sĩ Suzuki, khi ngài dùng từ ‘thực
tại’ ngài muốn nói thực tại tương đối trong thế giới vật lý, hay
thực tại tuyệt đối của thế giới siêu việt?" Ông đã nhắm mắt
lại và chìm vào một tư thái đầy ấn tượng mà một số học trò của
ông thường gọi là "làm Suzuki", bởi không ai có thể biết đó
là ông đang đắm chìm trong trầm tư hay một thoáng chợp mắt ngủ. Sau khoảng
một phút im lặng, dù có cảm giác lâu hơn, ông mở mắt ra, rồi đáp:
"Đúng."
Trong một khóa học về những
nguyên lý căn bản của Phật giáo: "Sáng nay chúng ta học đến Thánh
đế thứ tư Ợ gọi là Bát chánh đạo. Thứ nhất trong Bát chánh đạo là
Shò-ken, nghĩa là Chánh kiến. Chánh kiến là giềng mối của Phật giáo,
vì Chánh kiến là không có cái thấy riêng biệt, cái thấy cố định. Bước
thứ hai của Bát chánh đạo là Ợ (đến đây ông lặng nghỉ một lúc
lâu). Ồ, tôi quên mất bước thứ hai rồi. Các bạn tìm xem, nó ở trong
sách ấy." Cũng phong cách đó, tôi nhớ lại lần thuyết trình của
ông trước kỳ họp cuối cùng của Đại hội Tôn giáo thế giới năm 1936
tại Nữ hoàng Đại sảnh ở Luân đôn. Chủ đề của Đại hội là
"Lý tưởng tinh thần tối thượng", và sau khi nhiều diễn giả đã
sôi nổi trình bày luận điểm của họ, đến lượt Suzuki bước lên diễn
đàn. Ông nói: "Lần đầu tiên khi tôi được yêu cầu nói về Lý tưởng
tối thượng của tinh thần, quả thật tôi chưa biết nói
cái gì. Trước hết, tôi chỉ
là một người tỉnh lẻ chân quê từ một góc xa xôi của thế giới bổng
nhiên bị đẩy ra giữa chốn thị thành Luân đôn náo nhiệt này, tôi ngơ
ngác và tâm trí không thể làm việc như cái cách nó vẫn làm ở quê nhà.
Thứ hai, làm sao một người thấp bé như tôi có thể bàn về một đề tài
bao la như Lý tưởng tinh thần tối thượng? Thế là, ông đã dành hết
phần còn lại của bài thuyết trình để mô tả ngôi nhà và khu vườn củaông
ở Nhật Bản, đối chiếu nó với nhịp sống ở một đô thị lớn. Vậy
mà đó là người đã dịch bộ Kinh Lăng già (Laíkàvatàra sùtra)! Và cử tọa
đã hoan
hô ông nhiệt liệt.
Ý thức rõ tính tương đối và
bất cập trong mọi quan điểm nên ông không bao giờ tranh luận. Có lần một
sinh viên tìm cách khiêu khích ông bàn luận về một số tiêu điểm đối
nghịch với nhà học giả Phật giáo danh tiếng Junjiro Takakusu, ông chỉ nhận
xét: "Thế giới này rộng lớn lắm; có đủ chỗ cho cả Giáo sư
Takakusu và tôi mà." Vậy mà, có lẽ cũng có một sự tranh luận - khi học
giả Trung hoa Hồ Thích kết buộc ông là ngu dân (vì khẳng định không thể
diễn đạt Thiền bằng ngôn ngữ duy lý) và thiếu ý thức về lịch sử.
Nhưng ông đã đáp lại một cách nhã nhặn: "Thiền sư, nói chung, khinh
thường những người quá xem trọng ngôn từ hay bán buôn ý tưởng, và về
khía cạnh này thì cả tôi lẫn Hu Shih đều là tội đồ, những tay sát Phật
giết tổ; cả hai đều đáng đọa địa ngục."
Tôi chưa từng thấy một đại
học giả và trí thức nào khiêm cung đến vậy. Lần đầu tiên gặp
Suzuki, tôi sửng sốt khi ông hỏi tôi (mới 20 tuổi) cách chuẩn bị cho một
đề mục nào đó, và khi tôi có đủ xấc xược để chỉ vẽ thì ông cũng
nghe theo. Tính khoa trương học thức và thói ưa thử tài hoàn toàn không
có nơi ông. Cho nên một số nhà Hán học Mỹ, có nghệ thuật tinh vi bôi
bác nhau bằng những chú giải cay độc, thường dễ nổi cáu về cách sử
dụng ngẫu hứng tư liệu và "công cụ phê bình" của ông, xem ông
như một thứ "đại chúng hóa." Họ không hiểu được rằng ông
thiên tư đã yêu quý học thức và do đó chẳng cần phải biểu lộ
"là học giả." Ông không màng việc sử dụng mục sách tham khảo
như một mánh khóe đề cao mình.
Có lẽ ta không thể hiểu được
tinh thần đích thực của Suzuki chỉ qua những tác phẩm của ông; ta phải
biết con người ông. Có nhiều độc giả than phiền sách ông không-giống-Thiền
chút nào - nói dông dài, lan man, tối nghĩa, và rối rắm với những thuật
ngữ chuyên môn. Một Thiền sư có lần đã giải thích với tôi rằng thái
độ mushin (vô tâm, một kiểu vô tự thức của Thiền) giống như một
người thợ mộc Nhật Bản dựng nhà mà không có lam bản. Tôi đã hỏi:
"Thế nào là người vẽ lam bản mà không dự trù một đồ án
nào?" Đó chính là, theo tôi, thái độ học thức của Suzuki: ông tư
duy, ông trí thức hóa, ông nghiền ngẫm bản thảo và tự điển như mọi
Thiền sư phải quét sân trong tinh thần mushin. Theo cách nói của ông:
"Con người là cây sậy biết suy nghĩ nhưng sự nghiệp lớn của nó chỉ
hoàn thành khi nó không còn tính toán nghĩ suy. Cần phải phục hồi tính
‘ngoan đồng’ qua những năm dài luyện tập trong nghệ thuật tự-quên
mình. Thành tựu điều này, con người suy nghĩ mà không nghĩ. Nó suy nghĩ
như mưa rào tuôn đổ từ trời cao; nó suy nghĩ như sóng vờn trên mặt biển;
nó suy nghĩ như sao sáng giữa trời đêm; nó suy nghĩ như mầm non mạnh mẽ
đâm chồi trong gió xuân. Quả thật nó là mưa, là biển, là sao, là mầm."
A. W.
CHARLES MORRIS
ĐỀ TẶNG
Lần đầu tiên tôi gặp Daisetz Suzuki
vào ngày mùng 1 tháng 10 năm 1948, tại chùa Engakuji (Viên giác tự) ở
Kamakura (Liêm thương). Tôi được Giáo sư Shunsuke Tsurumi, người từng học
với tôi trong vài tháng ở Đại học Harvard, dẫn đến giới thiệu với
ông.
Lúc đó tôi đang nghiên cứu về
Phật Di-lặc (Nh. Miroku) và đó là đề tài mạn đàm của chúng tôi. Tôi
còn nhớ ông khẳng định rằng sứ mệnh xã hội hiện nay là sự dung hòa
của khối Xô viết đề cao tập thể với khối Tây phương coi trọng cá
nhân. Tôi đã bày tỏ mong muốn thấy Nhật Bản sẽ đóng góp nhiều cho việc
hoàn thành sứ mệnh này. Đến tháng 1 năm 1949, bản tường thuật về cuộc
mạn đàm này đã được đăng trên tờ Sekai Hyòron (Tạp chí Thế giới
bình luận).
Cả Bác sĩ Suzuki và tôi đều
là thành viên của Hội thảo các triết gia Đông-Tây lần thứ hai, được
tổ chức ở Honolulu mùa hè năm 1949. Sau đó chúng tôi có nhiều lần gặp
nhau ở Đại học Chicago (nơi ông diễn thuyết và tham gia các hội nghị)
và ở New York trong thời gian ông giảng dạy tại Đại học Columbia.
Tiếp xúc với Bác sĩ Suzuki là
một sự kiện quan trọng trong đời tôi. Nó củng cố và đào sâu mối
quan tâm của tôi về Phật giáo vốn đã khởi trong tôi từ độ tuổi hai
mươi. Tôi trân trọng tình bạn và sự ảnh hưởng này. Nó khiến tôi an
lòng khi thực hiện những ý tưởng riêng của mình.
Cho phép tôi lặp lại những
điều đã viết trong bài báo đăng trên tờ Phật giáo và Văn hóa, nói về
tầm quan trọng của việc truyền bá Thiền Phật giáo của Bác sĩ Suzuki
sang Tây phương nói chung và sang Hoa Kỳ nói riêng:
Trong bối cảnh lịch sử,
Daisetz Suzuki sẽ cùng đứng bên các nhà học giả Ấn Độ đã truyền bá
Phật giáo sang Trung Hoa và các học giả Trung Hoa đã truyền nó sang Nhật Bản.
Ông đã sống và làm việc với chúng ta trong nhiều năm và qua một quãng
đời dài. Ông đã có một ảnh hưởng to lớn bằng cả tính cách con người
lẫn nhà văn, và ảnh hưởng đó vẫn đang phát triển Ợ Đó là một
hành động vĩ đại và nhiệt thành.
Theo tôi sự cảm thông và hợp
tác tích cực giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ là một trong những điều quan trọng
nhất trong hiện trạng thế giới. Ở đây hơn bất cứ nơi nào khác có khả
năng phong phú cho sự tương tác đầy hiệu quả của những nền văn hóa
Á châu và Tây phương, một sự tương tác có thể có hệ quả trọng yếu
cho mỗi nền văn hóa và cho cả lịch sử của nhân loại trong tương lai.
Chưa có ai đã làm được nhiều việc để chuẩn bị sự tương tác này
cho nước Mỹ như Daisetz Suzuki đã làm.
Sau đây là đề tặng tôi đã
viết gởi Bác sĩ Suzuki sau lần mạn đàm với ông ở Chicago năm 1951:
Daisetz Suzuki
Ông con người khiêm tốn lạ thường:
Người ta nói tuổi trẻ của họ
qua ông:
Đức Cù-đàm, Hoa nghiêm, Thiên
thai, và Thiền .
Chỉ là con người: không ràng buộc;
thật sự con người.
C. M
WILHELM GUNDERT
NGƯỜI GIEO HẠT
GIỐNG
Để tìm kiếm lý giải cho hiện tượng
phi thường của cuộc đời-sự nghiệp của Bác sĩ Suzuki thì việc xem lại
thời đại sinh thành của ông cũng như những nhân tố nổi trội đã hình
thành tính cách ông vào những năm đầu đời có thể rất có ý nghĩa.
Năm ông ra đời, 1870, đất nước ông dưới sự lãnh đạo của Minh trị
Thiên hoàng, vừa khởi đầu đường lối mới về hiện đại hóa cấp tiến.
Cha của ông, một thầy thuốc gia truyền thuộc tầng lớp quý tộc samurai,
đã bị tước bỏ đặc ân ban cấp lúa gạo hàng năm. Cả gia đình lâm
vào cảnh nghèo túng. Họ không còn khả năng cho con theo học nghề thầy
thuốc mà nó có vẻ có năng khiếu. Nhưng đến năm mười tám tuổi, ông
đã xoay sở được một chân giáo viên ở trường tiểu học của một làng
chài, dạy số học, tập đọc, viết, và môn tiếng Anh được Nhật ngữ
hóa mà ông góp nhặt từ những cuốn sách giáo khoa căn bản.
Từ những điều trên xuất hiện
ba nét cá tính: di sản tinh thần võ sĩ đạo của ông biểu hiện ở sự
can đảm, trung thực, và tận tụy; năng khiếu y học của ông hay, nói rộng
hơn, năng khiếu quan sát sắc bén và rõ ràng, được chứng thực bằng ngoại
diện thể hình của ông - cái đầu luôn ngẫng cao, đôi mắt tinh anh, hai
tai thính, cái mũi nhạy; và, như một điềm triệu của buổi sơ thời triều
đại Minh trị, cảm tình của ông đối với hải ngoại - như với môn tiếng
Anh mà ông ưa thích, đã được giảng dạy dù ở một ngôi trường làng hẻo
lánh. Đằng sau tất cả những phẩm chất này chúng ta nhận ra một tinh thần
lạc quan có cội nguồn sâu xa thường đi đôi với tính ngây thơ chân chất,
tin rằng mọi trở ngại trên đường đi dù thế nào cũng sẽ khắc phục
được. Chính vì phẩm chất này mà thầy của ông sau đó đã đặt tên hiệu
cho ông là "Đại chuyết," Daisetz.
Cái chết của thân mẫu khiến
ông hoàn toàn trơ trọi và được tự do theo đuổi những thiên hướng riêng.
Ông đi Tokyo để tham dự khóa học không chính thức ở Đại học Hoàng
gia mới mở. Nhưng điều thu hút ông hơn cả là sự phục hồi mới mẻ những
sinh lực của Phật giáo đang tập trung tại Thiền viện thời danh Engakuji
(Viên giác tự), ở gần Liêm thương. Lãnh đạo tinh thần ở đó là Shaku
Sòen, chỉ lớn hơn ông mười một tuổi, một tính cách cao thượng, nhạy
cảm, và bất khuất, đã trải qua thời thanh niên cần khổ với vị Thiền
sư nghiêm khắc nhất, và xúc động khi thấy rõ những nhu cầu của Phật
giáo trong thời đại khủng hoảng này. Ông đã nhìn thấy quê hương ông
đang bị tràn ngập bởi những sự vật ngoại lai, sự suy tàn niềm tin
vào Phật pháp và cuộc sống chỉ chuộng hình thức.
Shaku Sòen quyết tâm hóa giải
mối hiểm nguy cực kỳ này với tất cả nỗ lực của ông. Sau khi được
thầy Kòsen ấn chứng, ông đã từ chối định cư ngay, như thông lệ, ở
một tu viện. Và dù nghèo túng, ông vẫn đi Tokyo để học Anh ngữ trong ba
năm, "một việc không ích gì cho Thiền bất cứ ở đâu", như thầy
ông đã viết cho ông, và sau đó trải tiếp ba năm chuẩn bị sống cùng
các đạo hữu ở tận Tích lan xa xôi để học đọc các văn bản tiếng Pàli,
tìm hiểu những dị biệt trong quan niệm về Phật giáo của họ so với
ông. Đó là thời gian khổ và thiếu thốn tột bậc của ông. Ông trở về
năm 1892 và ngay sau đó được đề cử làm giám tự Engakuji và các tu viện
chi nhánh. Dường như ngay từ đầu Shaku Sòen đã nhận thấy những năng lực
đặc biệt của người học trò mới và đặt ít nhiều hy vọng ở ông.
Sang năm sau, 1893, một cuộc họp có tầm quan trọng đặc biệt, Hội nghị
quốc tế về tôn
giáo, đã diễn ra ở Chicago - cơ
hội để giới thiệu trước thế giới một ý niệm khởi đầu về giá
trị của Phật giáo Viễn Đông. Shaku Sòen quyết định xuất dương lần nữa.
Ông cho Suzuki phiên dịch những tài liệu ông đã biên soạn để thuyết trình
trước Hội nghị. Năm sau, qua trung gian của Sòen, ông đã dịch ra Nhật ngữ
cuốn Phúc âm của Phật do Paul Carus biên soạn.
Đó là bước khởi đầu của
sự nghiệp Suzuki như một diễn giả tiên phong của Thiền sang phương Tây.
Và mọi việc đã diễn ra theo chiều hướng thuận lợi cho ông có được
trang bị tốt nhất mà ông muốn có để thực hiện sứ mệnh này, cũng là
số phận của ông. Trong thời gian hội nghị, Shaku Sòen làm quen với ông
Hegeler, nhà triệu phú chủ công ty kẽm ở Illinois, người cùng với con rễ
là Bác sĩ Paul Carus điều hành một nhà xuất bản chuyên ấn hành sách về
tôn giáo, khoa học, và các tạp chí định kỳ. Vì Bác sĩ Carus đang cần một
dịch giả, Shaku Sòen thấy không có ai tốt hơn để tiến cử cho ông ta bằng
người đồng hành trẻ của ông. Việc làm này bao hàm sự tin tưởng kép:
một mặt, bốn năm kiên trì hành Thiền ở Engakuji của người bạn trẻ này
đã đủ để y "miễn nhiễm" trước tất cả các ảnh hưởng ngoại
lai khác, và mặt khác, không có phương pháp nào tốt hơn để hóa giải một
mối hiểm nguy bằng cách tiếp cận ngay điểm xuất phát của nó. Thời xưa
các vị thầy Phật giáo thường ứng dụng một điều được gọi là
tiên tri, vyàkaraịa(thọ ký; Nh. Juki), tức ký thác trách vụ. Một vị thầy
biết rõ năng lực của đệ tử và tùy theo đó mà giao cho y một nhiệm vụ
đặc biệt nào đó. Sự giới thiệu Suzuki của Shaku Sòen với ngài Hegeler
chính là đưa juki vào thực tế vậy.
Suzuki đã trải qua mười một
năm tiếp theo ở công ty xuất bản Open Court để làm việc với Bác sĩ
Paul Carus, kiểm duyệt các bản in thử, biên tập, biên dịch từ Hoa ngữ
và Nhật ngữ, kể cả Phạn ngữ. Ngoài ra ông còn tháp tùng thầy Shaku
Sòen trong những chuyến đi diễn thuyết ở Hoa kỳ với tư cách thư ký và
phiên dịch của ông. Trong một chuyến du hành này ông đã gặp Beatrice
Erskine Lane, một phụ nữ Mỹ, người sau đó đã thành hôn với ông ở Nhật
Bản. Đến năm 1908, ông xuất bản quyển sách quan trọng đầu tay, cuốn
Đại cương Phật giáo Đại thừa.
Cuối năm đó ông rời Mỹ, đến
Paris một thời gian để sao chép các tư liệu bằng Phạn ngữ, dịch
Swedenborg từ tiếng Anh sang tiếng Nhật ở London, rồi trở về Liêm thương
để nghiên cứu sâu thêm dưới sự hướng dẫn của thầy Shaku Sòen. Bấy
giờ ông đã 38 tuổi và đã có tiếng là diễn giả duy nhất về Thiền
và Phật giáo nói chung ở Tây phương. Ông vẫn làm công việc đó không ngừng
nghỉ trong năm mươi tám năm tiếp theo, giảng dạy, viết sách và thuyết
trình ở bất cứ nơi nào mời, vẫn với phong cách lặng lẽ, không khoa trương
mà chinh phục cử tọa.
Sự nghiệp văn chương của
ông, phong phú như vậy, không ngoài chủ đề Thiền tông. Ngay cả văn phong
của ông cũng mang nét đặc thù của Thiền. Nó không cần hệ thống,
không có hoạch định; nó là một chuỗi những "tiểu luận" và
"nghiên cứu" ngẫu hứng. Có lẽ một số tác phẩm của ông có thể
làm thất vọng những học giả
chuyên nghiệp. Nếu quả vậy thì đó không phải lỗi của tác giả mà của
chính Thiền tông mà tác giả chỉ là một cây
phong cầm hợp điệu. Và nếu
các bạn chuyển từ những tiểu luận phổ thông đến các chủ đề chuyên
sâu hơn của ông, như quyển Khảo cứu Kinh Lăng già chẳng hạn, các bạn
sẽ khâm phục tài của tác giả đối phó với những phức tạp của vấn
đề biện chứng này và những giải pháp minh bạch dễ hiểu của ông.
Các bản dịch từ Hoa ngữ và Nhật ngữ của ông không phải lúc nào cũng
chính xác từng câu chữ, nhưng nó luôn nói đúng tâm điểm, và cuối cùng
đó mới là vấn đề. Gặp trường hợp những đoạn văn phức tạp ta không
bao giờ thấy ông chịu bó tay để tìm ra một biện pháp vắn tắt đạt
thẳng mục tiêu.
Tầng lớp cử tọa của những
buổi thuyết trình và thảo luận của ông cũng rộng rãi như chính kiến
thức ông. Ông đã đến bất cứ nơi nào mời để nói về Thiền, với
các triết gia, các nhà thần học hay tâm lý học. Một số người ngờ vực;
họ hỏi Thiền tông thì dính dáng gì đến phân tâm học. Nhưng ông không
nãn chí, ông biết rõ mình đang làm gì. Như thể Suzuki Daisetz đã khám phá
tất cả mọi giao điểm giữa liệu pháp tâm lý và Thiền. Dù sao, chưa có
ai có thể thấy rõ hơn ông nét dị biệt không thể phủ nhận của hai
ngành này từ cốt lõi cho đến quan điểm.
Nhưng sự phê bình về cái vẻ
bề ngoài không quan tâm của Suzuki còn đi xa hơn. Ở Đức, một giáo sư uyên
bác về tôn giáo mới đây đã chỉ trích ông từng góp phần hơn bất cứ
tác giả nào vào trào lưu Tây phương hóa Thiền tông ở Viễn Đông và
làm mất đi những sắc thái tôn giáo cơ bản của nó. Như để minh chứng
cho điều mình nói, ông chỉ ra hiện tượng tệ hại về tính đua đòi học
Thiền gần đây đã trở thành thời thượng ở Mỹ và cả ở châu Âu.
Vậy, để bắt đầu từ
"thói hợm hĩnh của Thiền", chỉ cần nhớ lại câu chuyện tương
tự ở chương 13 sách "Phúc âm theo Matthew" là đủ:
Xem kìa,, người gieo hạt ra đồng
gieo hạt giống; khi nó gieo, một vài hạt rơi xuống trên đá, lập tức sẽ
bị văng ra vì không có đất, và khi mặt trời mọc lên, chúng sẽ khô
héo, và vì không bắt rễ được, chúng sẽ lụi tàn.
Rõ ràng chân lý của ví dụ
này đã bắt đầu để nhận thức chính nó. Một người bạn của tôi vừa
ở Mỹ về đã kể tôi nghe chủ một hiệu sách mà ông gặp và hỏi thăm
tình hình kinh doanh hiện tại, đã trả lời một cách vắn tắt: "Thiền
đi ra, tình dục vào".
Suzuki Daisetz là người gieo hạt
giống với nghị lực và lòng kiên nhẫn phi thường. Ông đã tiếp nối những
gì thầy ông, Shaku Sòen, đã làm ở Hội nghị Chicago hơn bảy mươi năm
trước, đó là: thu hút sự quan tâm của nhân loại hướng về hiện tượng
Thiền, không gì khác. Đây là một trách vụ hoàn toàn chính đáng xét từ
quan điểm Tây phương.
Nhưng nhà phê bình có thể đi
xa hơn, hỏi rằng: Thế nào là tính chính thống của Suzuki trong lãnh vực
riêng của ông, trong Thiền? Liệu hạt giống mà ông gieo rắc có là Thiền
thật hay Thiền giả? Ở đây có một cạm bẫy cho các chuyên gia trong khoa
học về tôn giáo. Mỗi tôn giáo thiết lập một định chuẩn riêng cho
tín đồ của nó. Bạn không thể so đọ giữa tiêu chuẩn Thiên chúa giáo
với tiêu chuẩn Phật giáo, và một Thiền giả chỉ có thể được đo bằng
chuẩn mực của Thiền. Chúng ta có thật biết chuẩn mực Thiền là gì chưa?
Phải chăng Suzuki chưa biết chút gì về nó? Cách nào thì ông cũng sẵn lòng
tự thú nhận mình có tội, bởi suốt cuộc đời mình ông đã nói và đã
viết về những điều siêu việt ngôn ngữ và văn tự. Cũng trong ý nghĩa
này mà, thiết nghĩ, ông đã ký tên những trước tác của mình bằng bút
hiệu bí ẩn nhất: Daisetz (Đại Chuyết), vừa có nghĩa "vô cùng giản
dị" vừa có nghĩa "vô cùng khờ khạo". Ông thú nhận tội, nhưng
tiếp tục "phạm tội." Ông là hiện thân của một công án Thiền,
quá bí ẩn đối với cách tư duy Tây phương. Có một câu chuyện tương tự
như vậy trong tắc thứ tám của tác phẩm Bích nham lục, chuyện Thiền sư
Thúy Nham, sau khóa Hạ, hỏi thính chúng rằng ông có rụng sợi lông mày
nào chăng. Ba trong các bằng hữu cao niên nhận xét về ông, một người tiêu
cực, một người tích cực, còn người thứ ba, Vân Môn, rất ngắn gọn.
"Quan", ông nói, và chặn đứng cuộc luận bàn về những điều nằm
ở ngoài nó.
Nhân tiện cũng không phải là
vô ích khi nhớ lại, nói chung, thái độ của Phật giáo về những ‘người
ngoại đạo’ tỏ ra ôn hòa hơn nhiều tôn giáo khác, kể cả Thiên chúa
giáo. Nhưng đạt được sự tán thành của người khác, một loại thích
nghi nào đó, sự vận dụng ‘phương tiện thiện xảo’ (Ph. upàya, Nh.
hòben), chẳng những được khuyến khích - như trong Saddharma-puịđarika(kinh
Pháp hoa) - mà còn được thực hành trong chừng mực mà so ra những sự
dung túng vô tội vạ của Suzuki Daisetz chỉ là vô nghĩa.
Về phần mình, phải thú nhận
trong nhiều năm trời tôi đã từng coi nhẹ ý nghĩa to lớn của nhân cách
và sự nghiệp của Suzuki Daisetz. Sự thay đổi chỉ đến khi tôi đã hình
thành quyết tâm nghiên cứu Bích nham lục, một tác phẩm dù có tầm quan
trọng bậc nhất, vẫn chưa được ai phiên dịch hoàn chỉnh. Tôi đã bắt
đầu bằng những ấn bản còn thiếu sót đang lưu hành tại Nhật Bản,
khiến tôi thất vọng, và đã cầu viện tới sự chú giải của Katò
Totsudò từ Nhật gởi đến. Chính vào lúc đó, tháng 9 năm 1954, Bác sĩ
Suzuki tới Đức để thuyết trình tại viện Đại học Marburg và ở
Stuttgart. Tôi được vinh dự phiên dịch cho ông. Một trong những tiêu điểm
của ông là cho rằng Thiền thích hành động tự nhiên hơn sự giải thích
bằng ngôn từ. "Chúng ta không cần nói với một người bạn tốt rằng
mình thích anh ta. Một cái vỗ vai thân tình sẽ làm việc đó." Nói đến
đấy, ông vỗ vỗ vai tôi, và toàn thể cử tọa thích thú.
Ông đồng ý với bất mãn của
tôi về các ấn bản chưa hoàn chỉnh của Bích nham lục, cho rằng những
quyển sách như vậy chưa xứng đáng với nhan đề tác phẩm (một nhận
xét rất đúng, vì họ đã lược bỏ phần bình giải quan trọng nhất của
Viên Ngộ đóng góp cho tuyển tập của Tuyết Đậu). Trên đường đi
Stuttgart bằng xe điện, ông đọc một quyển sách bằng Hán văn: cuốn Bích
nham lục gồm hai tập ấn hành tại Nhật Bản. Đến Stuttgart, khi chúng
tôi chia tay, ông mang nó ra, ghi trên mỗi tập lời đề tặng và thân tình
trao lại cho tôi. Trong những hành vi của ông không có bóng dáng kiểu
cách. Nhưng với tôi, trên tất cả, đó là sự động viên quyết định mà
tôi đang cần để tiếp nối công việc đang bỏ dở. Và trong những năm
đó, nó đã trở thành một thứ huấn lệnh khiến tôi phải tiếp tục dù
gặp nhiều khó khăn. Tôi không cần phải nói thêm là từ đó những tác
phẩm của ông đã trở thành thiết yếu đối với tôi, nhất là các biên
khảo về những kinh điển được coi là xuất xứ của Thiền tông; và sự
ngưỡng mộ học thức uyên thâm của ông đã lên đến cao điểm khi tôi
nghiên cứu những bài viết của ông về kinh Lăng già.
Nhưng để kết luận, tôi phải
kể lại một kinh nghiệm cá nhân xảy ra năm 1954. Chúng tôi đang ngồi
trong hành lang một khách sạn thì một phụ nữ, dáng vẻ đau buồn, bước
đến và cầu xin được tiếp kiến. Vì bà ta không biết tiếng Anh nên
tôi phải phiên dịch. Không cần kể đến chi tiết cuộc đối thoại,
nhưng cái làm tôi không thể nào quên là thái độ im lặng, trang nghiêm và
đồng cảm của một ông già tám mươi tư tuổi khiêm tốn lắng nghe mọi
câu hỏi buốt thấu của người phụ nữ, sự thân ái giản dị trong lời
khuyên nhủ, an ủi và động viên, cũng như ánh mắt sinh động chân thành
của ông. Ông chắp hai tay để trên bàn, đến cuối buổi nói chuyện, ông
rút tay phải ra và ngập ngừng chìa về phía người phụ nữ. Cuối cùng
bà ta bắt tay ông và chúng tôi chia tay. Tháng 6 năm 1966, khi tôi thông báo
cho bà tin con người khả kính đã mất, bà đã nói: "Lúc đó, ông ấy
đã cứu sống tôi."
Chúng ta đang sống trong một
thời đại mà Đông phương không còn là Đông phương và Tây phương cũng
không hẳn là Tây phương. Những dòng chảy của cuộc đời, của niềm tin
và tình huynh đệ đang luân chuyển và dần dà cuốn trôi mọi rào cản lịch
sử. Đó là một hiện trạng đòi hỏi, trên mọi phương diện, một tinh
thần rộng lượng nói riêng và trên tất cả là niềm tin cậy sâu xa và bền
vững vào nền tảng nơi bắt nguồn cuộc sống của chúng ta và là nơi duy
nhất chúng ta thân thuộc.
W. G.
SHOJUN BANDO
D. T. SUZUKI Ở LA
SALLE
I
Năm 1897, Daisetz Teitaro Suzuki thực
hiện chuyến du hành đầu tiên qua phương Tây, lúc ông 27 tuổi. Ông sống
ở La Salle thuộc tiểu bang Illinois trong mười một năm, làm việc cho Bác sĩ
Paul Carus và công ty xuất bản Open Court. Cuộc định cư này được thu xếp
bởi thầy của ông, Shaku Sòen, viện trưởng Engakuji (Viên giác tự) ở
Liêm thương, người đã tham dự Hội nghị quốc tế về tôn giáo được
tổ chức ở Chicago năm 1893. Bác sĩ Paul Carus là nhà tư tưởng cấp tiến
gốc Đức, quan tâm sâu sắc đến tư tưởng Đông phương, nổi tiếng qua
tác phẩm Phúc âm của Phật. Theo yêu cầu của Bác sĩ Carus tìm một người
phụ tá từ Nhật có thể biết cả Hán cổ và Anh, Shaku Sòen đã giới thiệu
với ông chàng thanh niên Daisetz. Lúc đó Bác sĩ Carus
đang biên dịch Đạo đức kinh
ra Anh ngữ, và Daisetz giúp ông nghiên cứu, dịch các văn bản Phật giáo
và Lão giáo. Tác phẩm đầu tay của Suzuki, cũng như những bản cùng dịch
với Bác sĩ Carus đều do nhà Open Court lần lượt xuất bản.
Công ty Open Court vẫn nổi tiếng
với những ấn bản của nó, nhất là sách về tư tưởng triết học. Nó
còn ấn hành các tạp chí định kỳ như tờ The Monist (Nhất nguyên luận).
Bác sĩ Carus sinh năm 1852 ở Đức và được hưởng nền giáo dục theo
Schopenhauer. Ông quen thân với những người nổi tiếng đương thời như
K.R.E. von Hartmann và Max Scheler. Năm 1886 ông di cư sang Hoa kỳ và thành hôn với
trưởng nữ của ngài Hegeler, cũng là một di dân Đức đã đến Hoa kỳ từ
đầu thập niên 1840 và đã trở thành một trong những triệu phú ở
Illinois.
II
Tôi có dịp đi La Salle vào
tháng tư năm 1966. Đại đức Toshiaki Saito, ông Mitsuru Yamada và ông Roger
Adams, thuộc Giáo hội Phật giáo Chicago, đã đưa tôi đến đó. Từ lâu
tôi đã mong muốn tham quan nơi mà Bác sĩ Suzuki thời trai trẻ vô danh đã từng
trải qua hơn mười năm miệt mài tu học. Tôi có cảm giác đó là giai đoạn
định hình vô giá đối với ông. Là một thanh niên nhạy cảm, đầy hoài
bão và khát vọng tu học, ông một mình bước vào thế kỷ mới trong cảnh
đất lạ quê người. Có thể nói sự khởi đầu của mọi hoạt động trí
thức và triết học của ông từ đây về sau đều có dấu ấn của giai
đoạn này. Chính tại đây tư tưởng Phật giáo của ông được mang ra đối
nghiệm với tư tưởng hiện đại bắt nguồn từ truyền thống Thiên chúa
giáo. Cũng có thể nói định hướng cuộc đời ông đã được hình thành
ngay từ lúc đó. Ngoài ra, cũng cần thêm là tôi bị La Salle mê hoặc bởi
chàng thanh niên Suzuki đã từng ở đó vào độ tuổi của tôi bây giờ.
La Salle ở về hướng Tây-Nam
cách Chicago khoảng một tiếng rưỡi chạy xe. Nghe nói vào những thập
niên trước để đi từ Chicago đến đó phải mất ba tiếng xe lửa. Ngày
nay, dù có sự phát triển thần kỳ với những xa lộ hiện đại, La Salle
vẫn giữ được nét khiêm tốn của những ngày đầu, và nó vẫn là một
tỉnh lẻ đồng quê êm đềm với 14.000 cư dân. Thậm chí có lúc chúng
tôi còn trông thấy cả đàn chuột đồng băng ngang xa lộ.
Chúng tôi đã đến thăm ngôi
nhà nơi chàng thanh niên Suzuki cư ngụ khi sống ở La Salle. Từ đó đi bộ
đến văn phòng Công ty xuất bản Open Court mất độ 20 phút mà ngày xưa
Suzuki vẫn đi về mỗi ngày. Khi trở lại Tokyo, tôi đã đến thăm Bác sĩ
Suzuki, và khi tôi đưa ông xem tấm ảnh chụp ngôi nhà, ông đã reo lên:
"Ồ, phải rồi, nó đấy!" và chỉ vào cánh cửa sổ ngoài cùng
bên phải trên tầng hai, cho tôi biết ông đã sống trong căn phòng nhìn về
hướng Bắc đó. Tòa nhà, theo ông nói, lúc đó thuộc về ông Ramsey, một
quản gia của gia đình Hegeler, và trông chẳng khác mấy so với sáu mươi
năm về trước. Ông chăm chú nhìn nó với nhiều hoài niệm.
Đây là bức ảnh chụp ngôi
nhà của ông Hegeler. Công ty xuất bản Open Court vẫn còn giữ văn phòng
làm việc ở tầng một của tòa kiến trúc cổ 116 năm, trông như một pháo
đài này. Nó hơi có vẻ điêu tàn và đứng trơ vơ cách biệt những ngôi
nhà kế cận. Người ta nói Bác sĩ Carus và Daisetz thường cùng làm việc
trong một căn phòng ở tầng hầm lững của ngôi nhà. Khi chúng tôi đến
viếng, cô Elizabeth Carus, một trong những người con của Bác sĩ Carus, đang
vắng nhà vì đi Chicago; nhưng thay vào đó là ông Alvin Carus, anh em của cô,
đã tiếp đón chúng tôi. Trước đây vài năm, một người bạn của tôi
khi đến thăm tòa nhà này đã may mắn gặp và được tiếp chuyện với Côử
Carus, đã kể với ông rằng gia đình Carus vẫn thường gọi Bác sĩ Suzuki
là "Tei-san" (tục danh của Bác sĩ Suzuki, tiếng Nhật là Teitarô),
và cho biết thời đó ông tập thể dục trên sà ngang rất điệu nghệ.
Những kệ sách bao quanh tường
của văn phòng chứa đầy tác phẩm triết học phản ảnh một không gian
tri thức sinh động của thế giới từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ
20. Tôi thấy ở đây những ấn phẩm tái bản cuốn The Canon of Reason and
Virtue (Lão tử đạo đức kinh) và cuốn T’ai-shan Kan-yin P’ien (Thái thượng
cảm ứng thiên). Văn phòng được điều hành bởi hai người đàn ông, một
cô gái và một phụ nữ trung niên. Thật đáng ngạc nhiên khi thấy một hoạt
động bề thế như vậy được tiến hành trong một tòa nhà đầy vẻ ảm
đạm rêu phong. Và dù cuộc viếng thăm phố La Salle chỉ diễn ra trong ngày,
đó vẫn là một kinh nghiệm bổ ích và đáng nhớ của tôi.
III
Những lá thư của D.T. Suzuki gởi
từ La Salle cho thầy là Shaku Sòen vừa được xuất bản bằng Nhật ngữ
trong Tuyển tập Thiền Suzuki Daisetz, phần phụ lục. Tất cả gồm mười
hai lá thư viết từ tháng Giêng năm 1898 đến tháng 10 năm 1906, tức từ
năm Suzuki 28 tuổi đến năm ông 36 tuổi, hiện được lưu giữ tại đền
Tokeiji (Đông khánh tự) ở Liêm thương. Qua những lá thư này chúng ta có
thể thấy nhân sinh quan nghiêm cẩn của ông. Đó là những tư liệu quí
vén mở một cách sắc nét không chỉ những hoạt động hằng ngày của
ông mà cả tư tưởng riêng của ông trong những ngày ấy, vì vậy, tôi xin
trích ra đây một số.
Mô tả sinh hoạt hàng ngày của
ông ở La Salle, chàng thanh niên Suzuki đã viết trong lá thư đề ngày 11
tháng 6 năm 1898:
Mỗi buổi sáng con đến phòng
biên tập để dịch cuốn Daijò Kishin Ron (Đại thừa Khởi tín luận); buổi
chiều và tối thường ở nhà một mình để trau giồi và nghiên cứu
thêm. Gặp khi đẹp trời, tinh thần phấn chấn, con đạp xe về ngoại ô
và thích thú đọc sách mang theo trong khung cảnh êm đềm xung quanh. Những
ngày này con đang trải qua một cuộc cuộc sống khá kỳ thú, đôi khi phụ
những người giúp việc trong nhà như kéo nước giếng, chở đất, đi mua
đồ lặt vặt ở tiệm tạp hóa, bửa củi và cả nấu bếp, nếu cần.
Bản dịch tiếng Anh đầu tiên
tác phẩm Daijò Kishin Ron (Đại thừa khởi tín luận) là một trong những
thành tựu đáng nể của chàng thanh niên Daisetz ở La Salle, và trong bối cảnh
lịch sử Phật học cận đại, nó là công trình tiên phong của một trí
thức Nhật Bản dịch từ kinh điển Phật giáo bằng Hán văn. Kể về công
việc này, ông nói cũng trong lá thư trên:
Việc dịch cuốn Kishin Ron (Khởi
tín luận) khó đến mức có lúc con đã muốn bỏ dở. Nó quả là một thử
thách. Nhờ có bản Hán dịch đời Đường mượn của một người bạn vừa
được gởi đến hôm nay, con thật vui mừng khi có thể đối chiếu hai bản.
Dù đã sơ dịch gần hết tác phẩm, con nghĩ tác phẩm cuối cùng chỉ có
thể ra mắt chừng nào toàn bộ bản thảo được đọc và sửa chữa thêm
nhiều lần. Theo con nghĩ, dù Kishin Ron, xét từ quan điểm triết học, ngày
nay có thể không còn được đánh giá cao, nhưng từ quan niệm chủ quan và
tôn giáo thì nó vẫn là một tác phẩm đáng lưu ý, có giá trị trường tồn
bất diệt. Con muốn nói những ai vì lập trường khách quan hiện tại mà
phủ nhận hoặc chống đối nó đều không chỉ mù tịt về ý nghĩa của
Kishin Ron mà còn quên mất sự phát triển lịch sử của tư tưởng thế giới.
Trong một bức thư khác đề
ngày 23 tháng 10 năm 1898, ông nói cũng chủ đề này:
Con có cảm giác vô cùng thoải
mái, để thời gian trôi qua mà không biết mình đang làm việc gì đặc biệt
... Con đã đưa bản dịch tiếng Anh cuốn Daijô Kishin Ron cho Bác sĩ Carus
xem, sau khi đã cẩn thận sao chép lại. Mặc dù ông nói ông sẽ sớm xem
xét, con cũng không chắc khi nào ông sẽ làm việc đó, bởi lời của ông
cũng khó tiên liệu như bầu trời mùa thu. Có lẽ con phải chờ tới khi thời
gian chín mùi cũng như mọi sự tùy thuộc vào ý Trời.
Năm sau, 1899, ông viết trong một
bức thư đề ngày 3 tháng 7:
Vài ngày nữa con sẽ đi
Chicago và ở đó khoảng một tháng để viết lời tựa cho bản dịch cuốn
Kishin Ron, khi đã tham khảo xong Tam tạng kinh (Tripitaka). Làm xong việc này,
công trình coi như đã hoàn tất và sẵn sàng để in.
Thời gian này, song song với việc
biên dịch, ông đang chuẩn bị viết cuốn Đại cương Phật giáo Đại thừa,
sẽ được ấn hành sau đó. Đây là công trình có tham vọng vạch thời đại
do một học giả Nhật soạn thảo bằng tiếng Anh, vì trước đó chưa từng
có ai thử làm công việc như vậy. Ông đã đề cập đến dự án này
trong bức thư đề ngày 21 tháng 11 năm 1899:
Con đã ghi chú dàn bài tổng
quát những điều có thể được xem như đại cương về Phật giáo Đại
thừa để hoàn thành trước khi rời khỏi đất nước này. Tất nhiên nó
chỉ là một thứ bị vong lục đại cương cho nên còn nhiều chỗ cần phải
sửa lại. Con sẽ rất sung sướng nếu nó có thể hữu ích cho Thầy làm
tham khảo.
Trong khi bận rộn công việc
ở Công ty xuất bản Open Court, có lẽ ông đã thu được nhiều kiến thức
thực tiễn về ngành xuất bản sách báo. Có thể nói, những hoạt động
sách báo của ông sau này, nhất là việc xuất bản tờ Phật tử Đông phương
ở viện Đại học Otani, đều có kinh nghiệm khởi từ La Salle. Trong bức
thư ngày 10 tháng 6 năm 1900:
Gần đây con đã ngẫu nhiên học
được cách đánh máy chữ. Thỉnh thoảng con làm vài việc cho Bác sĩ Carus
bằng phương tiện này. Mong thầy hiểu rằng con không hề chán nãn công việc
hiện tại, vì mọi thứ việc chẳng qua là cách mưu sinhỢ Mới đây, người
đọc bản thảo hay còn gọi là thư ký ban biên tập của Công ty đã xin
nghỉ việc, và Bác sĩ Carus đã đề nghị con thay thế ông ấy. Dù chưa biết
ông sẽ trả lương bao nhiêu cho công việc này vì con chưa hề hỏi, con vẫn
biết chắc sẽ được tưởng thưởng xứng đáng. Mỗi ngày phải làm việc
sáu tiếng, thời gian dành cho nghiên cứu hẳn sẽ bị cắt giảm.
Ông đã mô tả sinh hoạt hàng
ngày ở văn phòng:
Công việc của con ở Open
Court không phải ngày nào cũng viết. Chỉ khi nào cần xem xét một bài báo
có liên quan đến Nhật Bản hay một tiểu luận nói về Phật giáo thì con
mới phải cầm bút theo yêu cầu của Bác sĩ Carus. Nhiệm vụ của con ở công
ty là đọc các bản in thử, liên lạc giữa tác giả và nhà in, làm mọi
công việc liên quan đến từ điển, tìm những từ đặt sai chỗ và những
chỗ trống, kéo dài ra hay rút ngắn lại vài câu, sửa lỗi chính tả, v.v.
Dù đó là một vị trí khá hơn là một chân sửa lỗi bản in người Nhật,
trong bản chất nô lệ nó vẫn như nhau. Trước mắt, con chưa được trả
đồng lương nào vì vẫn còn là người thử việc.
Như cố Bác sĩ R. H. Blyth đã
nói, quả thật Bác sĩ Suzuki rất ít khi chú ý vấn đề phụ nữ trừ những
năm sau này khi ông thường đề cập đến ý nghĩa của nữ giới trong Phật
giáo tương phản với Thiên chúa giáo, lấy nam giới làm trọng tâm. Tuy vậy,
ông đã bộc bạch quan điểm của mình về phụ nữ và cuộc sống gia đình
trong một bức thư lúc còn trẻ, đề ngày 11 tháng 6 năm 1898:
Con thật bối rối khi đi chung
với phụ nữ và trò chuyện với họ. Bàn luận về việc học hành thì
được, song để bàn với họ những chuyện linh tinh, chuyện thế sự, chuyện
vặt vãnh thì con rất khó thích nghi. Ở Nhật mình có thể đối đãi với
họ một cách lịch sự mà không cần nói một lời, nhưng ở đây, nước
Mỹ, người ta có thói quen phải biết nịnh đầm, và thật khó vô cùng
khi con phải tìm lời tâng bốc ai. Cho nên con phải tự giam mình trong nhà,
đọc sách hay ngồi Thiền. Hình như câu tục ngữ "Đừng trở nên quá
thân mật với đàn bà cũng như với đàn ông thiếu hiểu biết" vẫn
chưa thay đổi trong một ngàn năm nay. Cho dù có học ở một mức độ nào
đó, một phụ nữ vẫn là phụ nữ. Cho nên, có rất ít phụ nữ trung
bình tự làm mình nổi bật bằng sự thể hiện những đức tính mà nữ
giới cần có. Vì thực tiễn chung ở đây là coi trọng phụ nữ một cách
không phân biệt, họ có nhiều cơ hội
hơn để nâng cao giá trị đạo
đức cũng như bộc lộ những khiếm khuyết của họ. Do đó có thể nói
không ai tránh khỏi cả hai yếu tố ưu điểm và khuyết điểm. Trong khi
người phụ nữ Nhật có vẻ quá phục tùng và nhu mì, thì tính kiêu ngạo
và tự phụ của phụ nữ ở đây chỉ là những sự nhũng nhiễu, nếu không
nói là đáng ghét.
Từ khi đến sống ở đây,
con dần dà cảm thấy nét đẹp độc đáo của mối quan hệ giữa cha mẹ
và con cái trong các gia đình Nhật Bản. Dù tình mẫu tử ở đâu cũng như
nhau, song ở đây tình yêu giữa cha mẹ và con cái khá lạnh lùng; chỉ có
tình yêu trai gái là được coi trọng. Sự tán thưởng khuynh hướng đối
xử tốt với vợ hơn với cha mẹ có vẻ lạ lùng dưới mắt người Đông
phương. Phong tục ở đây là các thiếu nữ tự chọn bạn tình cho mình hơn
là nghe theo ý kiến của cha mẹ họ. Họ có xu hướng độc lập rất cao,
nhưng thiếu những tình cảm mềm mỏng và dịu dàng, là điểm chung của mọi
người bình thường ở đây.
Con có khuynh hướng thích cuộc
sống độc thân hơn có gia đình. Kể ra cũng kỳ cục nếu biết rằng con
chưa bao giờ có đủ thời gian để suy nghĩ về chuyện này, nhưng chẳng có
lý do gì để mọi người phải lập gia đình bằng mọi giá, về phần con
cũng chẳng cần thiết phải làm như vậy.
Quan điểm căn bản của ông về
cuộc sống nói chung và về nếp sống gia đình nói riêng được thể hiện
qua những dòng sau:
Tại sao cứ thèm khát danh vọng
cá nhân? Con chỉ mong có thể hiểu được ý nghĩa thật sự của cuộc đời,
bằng cách làm tròn mọi trách nhiệm nào con cảm thấy phải chu toàn. Con
đã cắt đứt mọi quan hệ với đồng Đô-la Vạn năng, và cảm thấy có
khuynh hướng từ bỏ những ý nghĩ hệ lụy của gia đình. Nhân tiện, đối
với cuộc sống gia đình, hôn nhân và tình yêu, con cũng có lý thuyết
riêng của mình. Con mong sẽ có dịp nói với Thầy về quan điểm này của
con. Hai vấn đề này, mãnh lực đồng tiền và cuộc sống gia đình, là
hai ràng buộc lớn nhất (có thể từ này không chuẩn xác, con tạm thời
dùng nó) trên đời, vì vậy con đã tự tách mình ra khỏi chúng và chuẩn
bị dâng hiến mọi năng lực của mình cho những vấn đề khác...
Qua những tác phẩm dày cộm
ông viết sau này, chúng ta thấy lời ông nói đã được chứng minh xác đáng
ngoại trừ cuộc hôn nhân của ông với cô Beatrice Erskine Lane. Giá trị của
nó, dù sao, đã được chứng thực rằng nguyên tắc chủ đạo của cuộc
hôn phối này trong thực tế là để hỗ trợ nhau cùng nghiên cứu và truyền
bá Phật giáo.
Điều đáng lưu ý là ý nghĩ
về cái chết hình như là dòng sóng ngầm bên dưới mọi hoạt động triết
học của ông trong thời gian đó, bởi ông viết:
Từ ‘chết’ quả đã khơi dậy
trong con những cảm giác và ý tưởng bất tận. Con vẫn chưa thể quên
được ấn tượng chủ quan mạnh mẽ của cái chết của mẹ. Bất cứ khi
nào nghĩ đến nó, con không khỏi rùng mình. Không phải con sợ chết, vì
con đã nhận thức được, qua kinh nghiệm riêng về những trận đau ốm gần
đây, rằng cái chết chẳng là gì cả. Người ta nói cú đánh của tử thần
dập tan mọi thứ, nhưng tinh thần chúng ta không bao giờ bị đình đốn bởi
sự kiện này, và sự thao thức đó đưa chúng ta đến lĩnh vực triết học
hay tôn giáo. Không có gì khiến con người bất an hơn từ ‘chết’...
Qua những dòng này chúng ta thấy
sự tương ứng không thể nhầm lẫn với những phát biểu về chủ đề cái
chết mà ông thường đề cập vào những năm cuối đời. Ông luôn thích
trích dẫn, trong các bài thuyết trình cũng như trong bài viết, nhất là
càng về cuối đời, bài hòa ca (waka) của thiền sư Shidò Bunan (Chí Đạo
Vô Nan): "Trong khi sống, hãy chết, chết hẵn; chết như bạn sẽ chết,
thì mọi sự sẽ tốt đẹp"2. Ở đây chúng ta nhận thấy suốt những
năm nghiên cứu triết học Phật giáo sau này, ‘cái chết’ tiêu cực
trong ông đã trải qua cuộc lột xác tận gốc để thành một ‘cái chết’
tích cực. Cuộc đời ông từ đó là nơi mà ‘cái chết’ tích cực này
đóng một vai trò năng động nhất.
Như vậy, tư tưởng căn bản
nào đã giúp ông nghị lực để chịu đựng mười năm dài ở La Salle một
mình đối diện với cô liêu, lo lắng về tương lai, với cuộc sống đơn
điệu của một người làm công? Trái với những gì ta tưởng, những ý
nghĩ thầm kín, vững vàng và bình an của ông đã được ông mô tả một
cách sinh động trong bức thư đề ngày 10 tháng 6, 1900:
Innen (nhân duyên, những quan hệ
của nghiệp) ắt vượt ngoài tầm tư duy của chúng ta. Một ý tưởng, khi
được tiếp nhận chưa có hiệu quả tức thì, biết đâu sau này nó sẽ
giúp người đó thâm nhập Đạo Giác ngộ - chỉ bằng một khoảnh khắc
lóe sáng qua tâm trí y. Cổ đức có nói, "Được nghe Phật pháp, dù chỉ
một lần, cũng là phước đức vô tận, ngay dù không mấy có tín
tâm;" chỉ cho chân lý này. Con đặc biệt không ưa thích lý luận, nhưng
vì tin tưởng chắc chắn vào chân lý nêu trên nên thỉnh thoảng con vẫn tỏ
bày ý tưởng của mình. Mong ước thầm kín của con là, nếu tư tưởng của
con ích lợi cho sự tiến bộ của con người, thì trái ngọt trong tương
lai chắc chắn sẽ kết quả từ đóỢ Theo đó dường như con đường mà
chân lý hiển hiện không lệ thuộc bất cứ gì và hầu như bất chấp ảnh
hưởng của con người. Chính vì niềm tin của con vào chân lý này mà con cố
gắng thể hiện nó choquảng đại quần chúng. Phô bày quan điểm riêng của
mình cho thiên hạ chẳng hãnh diện gì, nhưng bởi con tuyệt nhiên tin chắc
rằng - ngay cả khi có thể có điều không đúng trong những gì con nói - một
chút chân lý ẩn chứa trong quan điểm của mình cũng giống như câu chuyện
ngụ ngôn về hạt lúa mì trong Thánh kinh, chắc chắn sẽ sinh trưởng mạnh
mẽ và bao trùm khắp trời và đất. Đó là vì chân lý chẳng thuộc về
ai, hoàn toàn độc lập, xuyên suốt, mà vẫn là cái để mọi người cũng
như chính bản thân con phải theo đuổi.
Bước đầu đời của ông ở
La Salle đã được chống đỡ một cách vững chắc bởi niềm tin tưởng mãnh
liệt về chân lý bất diệt bắt nguồn từ tâm Bồ đề cháy bỏng của
ông mong muốn chia sẻ chân lý với hết thảy nhân loại. Tuổi trẻ đó,
ông đã tiếp tục khám phá sự bình an của tâm hồn ở giữa nghịch cảnh
trong niềm vững tin rằng quả vốn đã có sẵn trong nhân, và trong cuộc sống
đời thường ở La Salle, dù đôi khi nó là điều vặt vãnh.
S. B.
RYOJIN SOGA
TƯỞNG NHỚ BÁC
SĨ D. T. SUZUKI
Bác sĩ Daisetz T. Suzuki, nhà học giả
lão thành đáng kính của chúng ta, đã ra đi một cách bất ngờ. Một tin
buồn vô hạn! Mới đây chúng ta vẫn tưởng và hằng mong ông sẽ sống đến
ngoài trăm tuổi. Ông vẫn rất năng nỗ và sáng suốt. Nhưng lòng mong mỏi
đó đã tan vỡ bởi một sự thật hiển nhiên.
Tuy thế trong thâm tâm tôi vẫn
cảm thấy ông còn đó, còn thật hơn và có phần lấn át cả sự tiếc nuối
vì cái chết của ông. Thật vậy, trước sự ra đi của người thân, ai cũng
trải nghiệm một cảm giác mạnh mẽ về sự hiện diện của người quá
cố trong một thời gian. Nhưng ở đây tôi muốn nói một điều khác. Tôi
muốn nói về sự liên giao hay sự đồng nhất tinh thần xảy ra giữa những
tâm hồn tỉnh thức ngoài vòng sinh tử. Tôi nhìn thấy Bác sĩ Suzuki và
ông ấy nhìn thấy tôi; tôi hiểu ông ấy và ông ấy hiểu tôi; tôi tin
ông ấy và ông ấy tin tôi: tất cả diễn ra thật rõ nét khi ta chiêm nghiệm.
Nó không bao giờ là sản phẩm của trí tư biện mà là một kinh nghiệm thực
tế còn thực hơn cả kinh nghiệm gặp nhau trong cuộc sống hằng ngày.
Một kinh nghiệm như vậy trong
văn học Phật giáo đã được diễn tả bằng sự "quán chiếu tương
thông giữa Phật với Phật". Có nghĩa là, về không gian có chư Phật
trong mười phương, về thời gian có chư Phật trong quá khứ, hiện tại
và vị lai, tất cả đều an trú trong Nhất Chân Pháp giới, quán chiếu tương
thông. Bác sĩ Suzuki hiện giờ là một vị Phật Quá khứ, còn tôi, là một
con người bình thường sống trong thế giới khổ đau này, chắc chắn sẽ
là một vị Phật Tương lai dưới ánh sáng của Bản Nguyện. Trong sự hỗ
tương quán chiếu của chúng ta, Phật Quá khứ và Phật Vị lai vẫn hằng
gặp nhau, thông hiểu nhau và hỗ tương ấn chứng. Chính xác hơn, sự suy
tưởng như vậy đối với tôi chính là niệm Phật (nembutsu).
Thông thường, các nhà nghiên
cứu Phật giáo Tịnh độ coi trọng học thuyết nembutsu và chiêm nghiệm
chúng sâu sắc. Tuy thế, đó không phải là cách để Bác sĩ Suzuki tiếp cận
Phật giáo Tịnh độ. Thông qua cơ cấu học thuyết phái Tịnh độ, ông mưu
tìm kinh nghiệm căn bản của những nhà Đại thừa và đời sống của trí
huệ và từ bi. Ông đã nhìn thấy sự sở đac tối hậu chân lý của tín
ngưỡng Tịnh độ qua hành vi nembutsu. Và trên hết ông yêu thích một trong
những bài kệ sau đây của Ippen (Nhất Biến):
Trong lời niệm phát ra (niệm
Phật)
Không Phật, cũng không ta -
Nam mô A di đà, Nam mô A di đà!
Đối với Bác sĩ Suzuki, niệm
Phật đương nhiên là tuyệt đối tự khẳng định.
DAIEI
KANEKO
HỒI TƯỞNG VỀ D. T. SUZUKI
Thật
đau buồn trước hung tin bất ngờ về cái chết của Bác sĩ Daisetz Suzuki, nhà
lãnh đạo Phật giáo trong thời đại chúng ta.
Ai
cũng biết, tri thức của Bác sĩ Suzuki về Phật giáo thấm đẩm tinh thần
satori (ngộ). Từ bước khởi đầu tầm Đạo, ông đã mong tìm giải đáp cho vấn
đề ách yếu nhất - chuyện sinh và tử của con người. Mọi nỗ lực của tuổi trẻ
ông đều tập trung vào mục đích này. Cuối cùng ông đã nhận ra vấn đề đã
được giải quyết từ lâu trong satori hay là kinh nghiệm về tuyệt đối khẳng
định. Từ đó ông hướng mục tiêu vào việc ghi lại kinh nghiệm này trong văn
học Phật giáo, nhất là văn học Thiền, và phổ biến nó ra thế giới. Việc làm
này cũng chính là lời thệ nguyện của ông.
Bác
sĩ Suzuki là một người say mê đọc sách. Ông thông thạo tín ngưỡng, sự uyên
áo và những tư tưởng của Đông và Tây phương, cổ cũng như kim, một cách
đáng kinh ngạc. Thú đọc sách rộng rãi của ông được tập trung vào chủ đề
nói trên, và ông gạt qua bất cứ hệ thống tư tưởng nào không soi rọi ánh
sáng cho vấn nạn đó. Ông không quan tâm tập hợp các dòng tư tưởng hay học
thuyết Phật giáo chính yếu của những nhà sáng lập các trường phái lớn của
Phật giáo. Trực giác và trải nghiệm là đặc tính nổi bật trong tư tưởng của
ông.
Tuy
thế, rõ ràng Bác sĩ Suzuki không chỉ là một Thiền giả đã chứng ngộ theo kỷ
luật của một vị thầy. Người ta nói, khi các tín đồ Thiền trình bày chỗ
hiểu của họ về Thiền, Bác sĩ Suzuki thường trả lời: "Đó là chỗ xa chân lý
nhất." Lời nói và tư tưởng của ông đôi khi làm cho người nghe hay độc giả
có ấn tượng ông quả là ‘nhà tư tưởng’ Phật giáo vĩ đại theo nghĩa đặc
trưng của thuật ngữ này. Ông có đôi mắt của nhà tiên tri nhìn thấu suốt
xương tủy của sự vật. Ông thấu rõ bản chất của con người và đồng cảm sâu
xa trước những bất hạnh của họ. Ông luôn biết lắng nghe. Ông thường phê
phán một người mà trên quan niệm rộng hơn vẫn cho thấy ông xem trọng họ.
Suy cho cùng, ông là ‘chiếc bình chứa’ mênh mông vô hạn.
Bác
sĩ Suzuki và tôi, ngoài việc là đồng nghiệp ở Viện đại học Otani, thỉnh
thoảng còn gặp nhau trong tư cách diễn giả ở những buổi thuyết trình về
Phật giáo do các Hội đoàn Phật giáo tổ chức. Những dịp như vậy chúng tôi
có cơ hội lắng nghe lẫn nhau. Sự phê phán của ông về tôi là một nguyên tắc
chân thành và thẳng thắn. Ông thường nói: "Bài giảng của ông nghe ra quá
trừu tượng và tư biện. Tôi không thích lắm, nó không hợp với tôi." Tôi
sung sướng tiếp nhận lời phê bình của nhà học giả lão thành đáng kính này
của chúng ta, và luôn suy xét chúng cặn kẽ. Tuy nhiên phân tích đến cùng
sẽ thấy sự khác biệt cơ bản giữa hai cách tiếp cận Phật giáo của chúng
tôi.
Về
điểm này tôi có một điều phải suy nghĩ. Bác sĩ Suzuki thường giới thiệu
tên tôi với các học giả và văn giới ngoại quốc muốn tìm hiểu Phật giáo
Tịnh độ. Ông gợi ý họ đến thăm tôi. Phải chăng điều này có nghĩa là ông
thừa nhận tư tưởng của tôi đáng được giới thiệu cho người ngoại quốc từ
một quan điểm rộng rãi hơn, bất kể ông thích hay không thích nó? Dù thế
nào, tôi vẫn rất cảm kích cử chỉ biểu hiện tinh thần cởi mở và chân tình
này của ông.
Ngày
13 tháng 6 năm nay (1966), dưới sự bảo trợ của Hiệp hội Phật tử Tại gia,
tôi đã đến Liêm thương để đối thoại với Bác sĩ Suzuki về chủ đề "Bản
Nguyện". Bác sĩ Suzuki đã vui mừng tiếp đón tôi một cách nồng nhiệt, như
gặp lại người em ruột thịt xa cách đã lâu. Đó là lần cuối cùng tôi được
gặp ông. Giờ đây tôi vẫn nhớ như in sự tĩnh lặng của những bụi cây mọc hai
bên con đường dài dẫn lên đỉnh đồi và thư phòng của Bác sĩ Suzuki, trong
khu vườn điểm xuyến đầy hoa cỏ mùa hè và những vật dụng tự nhiên khác. Tất
cả đều hoàn toàn hòa vào tính cách con người Bác sĩ Suzuki.
---o0o---
Mục Lục
| 1
| 2
| 3
| 4
| 5 | 6
| 7
---o0o---
Source:
PhatViet (Phật
Giáo Việt Nam)
Chân thành cảm ơn Ðạo Hữu Tâm Diệu
đã gởi tặng phiên bản diện tử Unicode này
---o0o---
|
Thư mục Tác Giả |
---o0o---
Trình bày:
Nhị Tường
Cập nhật : 01.02.2003
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục