Vì phải bất ngờ di chuyển từ Anh
sang Mỹ mà lời mời viết bài cho số tưởng niệm này của tạp chí Phật
tử Đông phương (The Eastern Buddhist) đến với tôi quá trể nên không thể
viết điều gì xứng đáng với tầm quan trọng hiện thực của D. T.
Suzuki, một nhà lãnh đạo tôn giáo thiên tài. Tôi chỉ có thể nêu lên đây
một nhận xét nhỏ có tính tự truyện mà thôi.
Vào năm 1937, ở tuổi 33, cái
tầng nền của thế giới mà lúc bấy giờ tôi nghĩ là của mình, đã sụt
lở. Niềm tin chính trị trong tôi đã sụp đổ bởi tác động của chủ
nghĩa Staline và những gì tôi nhìn thấy ở Tây ban nha, cuộc hôn nhân của
tôi bất thành, việc làm gần như con số không, tôi thậm chí đã phải bắt
đầu đi tìm tư vấn nơi các nhà tâm phân học vì dường như chẳng còn
gì đáng để tôi sống trên đời này. Rồi có một ngày tình cờ nhìn
vào tủ kính của một hiệu sách nằm đối diện viện Bảo tàng Anh quốc,
và chỉ vì tò mò, tôi đã mua thử cuốn Essays in Zen Buddhism, vol. 3 (Thiền
luận quyển hạ). Mấy tuần liền sau đó ngày nào tôi cũng quay về
Hampstead Heath để đọc ngấu nghiến từng trang sách này, và nhanh chóng
tìm mua các tác phẩm còn lại của Suzuki, hết quyển này đến quyển khác.
Điều lạ kỳ là D.T. Suzuki đã
làm sống lại lòng yêu thích ban sơ về Phật giáo nơi tôi. Đó là lúc
tôi đọc được quyển "Góp nhặt trên những cánh đồng Phật" của
Lafcadio Hearn, ấn bản Tauchnitz, khi mới 13 tuổi. Lòng yêu thích này được
hâm nóng lại vào năm tôi 21 tuổi, qua những tiếp xúc với các học giả
Phật giáo khi tôi bước chân vào giảng đường đại học Heidelberg. Điều
đáng ghi nhận là tôi thích những diễn giảng của Suzuki về sự uyên
thâm siêu hình của Đại thừa Phật giáo hơn những kinh nghiệm thực tế
về Thiền của ông. Có lẽ vì nguồn gốc và bối cảnh Nhật nhĩ man của
tôi, vì hầu hết những học giả phi Á châu có nghiên cứu về Bát nhã ba
la mật từ trước đến nay đều là người Đức. Đối với tôi, chính
ở tầm vóc vĩ đại của con người mà Suzuki đã làm cho Đại thừa được
chấp nhận như nhau trong cả hai tính cách tinh thần dân tộc khác biệt
nhau như Đức và Anglo-Saxon. Vì lẽ, bởi chính đức Phật không là người
Đức cũng chẳng phải người Anh, có thể vì thế mà sự diễn giải cả
về mặt siêu hình cũng như thực tiễn rất có thể đều gần gũi như
nhau với giáo lý nguyên thủy của Ngài.
Dưới tác động của thông
điệp Suzuki mà tôi lánh mình vào một khu rừng tư nhân thuộc về một người
bạn Quaker ở New Forest, và từ đó đã dốc chí thực tập Thiền ở cái
tuổi quỉ quái này. Rồi tôi hồi phục, trở lại Oxford, xuất bản một số
tác phẩm cố gắng chuyển đạt tri kiến về Đại thừa, đặc biệt về
Bát nhã ba la mật, mà D.T. Suzuki đã truyền cho tôi trước hết. Sự chứng
nhận của ông, một lần qua lời nói và một lần bằng thư tín, rằng
tôi trên thực tế đã "thông hiểu Phật giáo", đã tiếp thêm nghị
lực và cho tôi niềm hạnh phúc vô hạn. Đối với tôi do đó Daizetz
Teitaro Suzuki luôn là một chân dung đầy thuyết phục đã từng vực tôi ra
khỏi dỡ sống dỡ chết, cho tôi năng lực sống một cuộc đời có ý nghĩa
trong gần ba thập kỷ qua. Và những gì ông đã làm được cho tôi cũng là
điều ông đã làm cho nhiều người khác.
E. C.
PAUL J. BRAISTED
THẦY VÀ BẠN
Thật khó cưỡng lại ước muốn bày
tỏ lòng tri ân Suzuki Daisetz - người Thầy (sensei, tiên sinh) mà cũng là bạn
- dù ta biết rõ sự phù phiếm của ngôn ngữ. Ông đã - và đang - hùng biện
vượt khỏi sự lệ thuộc vào ngôn ngữ. Như một vì sao, một đóa hoa, một
cánh chim trời - đó là ông! - và tìm cách mô tả ông cũng như ảnh hưởng
của ông bằng ngôn từ là vô tình tìm cách giảm thiểu tầm vóc vĩ đại
của một nhân cách vĩ đại. Để minh định tính cách của ông, từng câu
chữ xuất hiện trong tâm trí tôi đều trở thành vô nghĩa. Tuy thế dù
sao, cũng còn một ý nghĩ cứ trở lại: có lẽ chúng ta có thể nói về
ông như một con người phục sinh thời hiện đại - trong ý nghĩa phần nào
đặc biệt.
Trong tác phẩm Phục sinh của
mình, Walter Pater kể một huyền thoại: "Khi lượng đất thánh chở đầy
tàu lấy từ Jerusalem được trộn lẫn với đất thó của Compo Santo ở
Pisa, nó mọc lên một cành hoa mới, không giống bất cứ loài hoa nào con
người từng trông thấy - loài dị thảo mà ai nhìn nó đủ lâu sẽ thấy
được những vầng hào quang lấp lánh muôn sắc màu kỳ lạ trải dài
trên đồng cỏ Maremma." Cũng có nghĩa, khi nhà nghiên cứu Thiền người
Nhật này đắm mình trong văn chương và kinh nghiệm tâm linh của Trung Hoa rồi
sau đó của Meister Eckhart và thế giới Tây phương, một đóa hoa thị kiến
đã xuất hiện, là niềm hoan hỷ cho nhiều người ở cả Đông và Tây. Cuối
đường cuộc hành hương của ông ở đây - khi ông đang tìm hiểu những
vùng đất hoàn toàn mới lạ của kinh nghiệm nhân văn - là ông đã mở rộng
lòng đón nhận những kinh nghiệm, những kiến thức của mọi thời đại.
Ông đã đem kho tàng cổ xưa của Á Đông và Tây phương vào trào lưu mới.
Ông là sự hăm hỡ bất tận muốn khám phá thực tại nội tâm sâu thẳm
nhất, dù là ở đâu, và thiết tha truyền lại kiến thức đó cho đồng
loại mình. Ai đã từng nghe ông nói mà không biết sự mới mẻ và đầy mê
hoặc của những thị kiến này? Rất ít kinh nghiệm nào của con người
thoát khỏi sự ghi nhận của ông. Từ những ngày xa xưa khi ông là phiên dịch
viên cho nhà thấu thị Ấn độ Rabindranath Tagore trong lần viếng thăm Nhật
Bản đầu tiên, đến sự hưởng ứng nhiệt tình của cá nhân ông đối với
ý nghĩa của cuốn Những Tiêu chí (Markings) của Dag Hammarskjold, ông đã là
một tiếng nói - một lời gọi từ thực tại đến thực tại - từ thực
tại nội tâm siêu thoát trong tâm hồn ông đến thực tại trong tâm hồn của
tha nhân. Như vậy bằng vô vàn cách thức, trong những bản thảo tái diễn,
ông đã mưu tìm cách định danh cái vô danh, và đã có nhiều người hiểu
được. Ông luôn hấp thụ kiến thức và kinh nghiệm và luôn đặt lại nó
dưới sự hiểu biết mới mẽ. Năm tháng trôi qua, quan điểm chín chắn
và thành thục luôn song hành với niềm hoan hỷ thanh thoát sẽ được những
người từng biết ông kinh qua như một thứ trí tuệ đầy hấp dẫn.
Những bài viết của ông sẽ
được nghiên cứu dài lâu bởi các triết gia và những nhà phê bình không
cùng chung truyền thống văn hóa. Đương nhiên, những bài viết này về
các Thiền sư Trung Hoa hay Nhật Bản, về Eckhart và về những nhân vật
Tây phương khác, không thể mong đợi luôn được các học giả tán thưởng.
Nếu, hay khi, những diễn đạt của ông vượt qua những giới hạn của lý
tính và lôgic nghiêm ngặt, đó là vì không phải ông không biết mình đang
làm như vậy, mà đúng hơn đó là tính hiển nhiên của lòng ông mong muốn
thực hiện cuộc Thiền thoại thấu đáo. Rõ ràng ông là một đóa hoa
"không nói", một loài hoa mới, không nói, nhưng đầy tính hùng biện.
Như vậy với những ai có may mắn quen biết ông sẽ coi ông như vừa là Thầy
vừa là bạn. Đối với họ, ông vẫn còn nói - hay vẫn còn đó.
Những tư tưởng của ông thường
được diễn đạt bằng Anh ngữ hơn bằng ngôn ngữ quê hương ông, tuy vậy
cuối cùng ông đang dịch các kinh sách Thiền tông Trung Hoa sang tiếng Nhật
và tiếng Anh. Trong nhiều tác phẩm bằng Anh ngữ của ông, người Tây phương
sẽ còn tìm hiểu trí tuệ và những thị kiến của ông và sẽ nương theo
những ánh sáng ấy theo cách riêng của mình, và người ta hy vọng minh triết
này sẽ được diễn đạt đầy đủ hơn bằng Nhật ngữ. Bằng cách đó
những đồng hương của ông sẽ có thể chia xẻ tinh thần ông một cách
trọn vẹn như chúng tôi ở phương Tây đã từng biết đến và trân trọng.
P. J. B.
AKIHISA KONDO
CÂY CẦU ĐÁ CỦA
TRIỆU CHÂU
Trong Bích nham lục, một trong những trước
tác quan trọng của văn học Thiền, có mẩu chuyện sau:
Một vị tăng hỏi Triệu Châu:
"Cây cầu đá của Triệu Châu lừng danh khắp chốn, đến khi nhìn thấy
chỉ là một cây cầu gỗ. Sao vậy?" Triệu Châu trả lời: "Ông chỉ
nhìn thấy cầu gỗ, chưa thể nhìn ra cầu đá đấy thôi." Vị tăng hỏi:
"Vậy thế nào là cầu đá?" Triệu Châu đáp: "Là nơi để lừa
ngựa đi qua."
Cây cầu đá của Triệu Châu
đại diện tinh thần năng động phụng sự miệt mài của Thiền - Thiền
hành động - đã được truyền thừa tâm ấn từ bao thế hệ nối tiếp
nhau trong lịch sử Thiền tông.
Suốt cuộc đời trường thọ
chín mươi lăm năm của ông, Bác sĩ Suzuki đã sống một đời cây cầu đá
đúng như ý nghĩa Triệu Châu muốn nói. Thực tế ai cũng biết là ông đã
dốc sức nỗ lực diễn giải ý nghĩa của kinh nghiệm giác ngộ, satori,
và tầm quan trọng của trí tuệ bát nhã (prajĩà) trong Thiền tông. Satori,
nói cách khác, là thức tỉnh trí tuệ bát nhã.
Nhờ những nỗ lực đó của
ông mà ngày nay không còn ai nghi ngờ tầm quan trọng của kinh nghiệm thức
tỉnh trong Thiền. Cho nên hoàn toàn dễ hiểu khi, được gán cho tầm quan
trọng này, đạt ngộ thường được coi là mục tiêu tối thượng của
Thiền tập.
Nhưng nếu ai chỉ đơn giản lấy
ngộ làm mục tiêu và thỏa mãn với điều đó, y chưa thật sự hiểu hết
nội dung nghĩa lý của kinh nghiệm satori.
Như Bác sĩ Suzuki đã chỉ ra một
cách chính xác, giác ngộ là quan trọng, nhưng tầm quan trọng đó nằm ở
chỗ nó không đơn thuần là khoảnh khắc hoàn thành ước vọng bấy lâu của
ta mà là khoảnh khắc tái sinh - sự khởi đầu cuộc sống tâm linh nơi một
con người mới, để sống không phải vì mình mà với hết thảy sinh linh
hữu tình cũng như vô tình, để chia xẻ với chúng những đau khổ và phiền
muộn, giúp chúngợ tựu thành giác ngộ, tự giải phóng mình khỏi những
hệ lụy và khổ đau, những bất an và cảm giác vô nghĩa. Nói cách khác,
với sự thức tỉnh trí tuệ bát nhã, cuộc sống mới với thế nhân và
vì thế nhân của họ bắt đầu đáp ứng nỗi thúc giục khôn cưỡng của
lòng Đại bi, biểu hiện trực tiếp của trí tuệ bát nhã. Đó là cuộc sống
của Bồ tát, mà Triệu Châu trong khái niệm Thiền chân chất và cụ thể
đã gọi là ‘cây cầu đá’.
Trong nghĩa đó, sau khi trải
qua kinh nghiệm chứng ngộ, Bác sĩ Suzuki đã đi con đường của Bồ tát suốt
cuộc đời ông với tinh thần kiên cường không mệt mỏi. Theo cách hiểu
của ông về cây cầu đá của Triệu Châu, không những lừa, ngựa đi qua
mà nhiều người cả phương Tây lẫn phương Đông, bất kể những khác biệt
về quốc tịch, màu da, chủng tộc, giai cấp, văn hóa, ngôn ngữ, trí thức,
tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, giàu nghèo hay những giá trị thế tục
khác, đều có thể tự mình bước qua bờ vô minh mà đi đến bờ chân
lý.
Ở phương Đông, khoảng thời
gian ông bắt đầu viết về Thiền, thì thực tế Thiền chỉ để tu tập.
Mọi minh giải bác học hay tìm cách tiếp cận thuần lý đều
bị coi là báng bổ hay ít ra cũng
là vô ích hoặc chướng ngại.
Đương nhiên khi kinh nghiệm
Thiền càng được quan tâm, chừng nào nó còn là một cái gì đó phải
được trải nghiệm, thì việc hành trì là quan trọng. Nhưng nếu không có
sự diễn giải bằng trí năng, việc hành Thiền có nguy cơ rơi vào tình trạng
tự mãn thần bí - một thứ Thiền bịnh - vốn là trở ngại tai hại hơn
nhiều cho việc thức tỉnh thật sự trí tuệ bát nhã.
Vì ngay cả tri thức - Vijĩàna
(Thức) trong thuật ngữ Phật giáo - là một trong những chức năng của bát
nhã, không còn là trở lực nếu nó không tự phụ khẳng định uy thế siêu
việt của nó và được vận dụng trong chức năng thích đáng bởi một người
đã hoàn toàn tự chủ với sự thức tỉnh trí tuệ bát nhã. Trái lại,
tri thức sẽ được sử dụng như một công cụ đắc lực nhất để nhận
thức bản chất của kinh nghiệm chứng ngộ và đưa đến sự hiểu biết
đúng đắn về việc hành trì Thiền.
Đúng là bạn không thể làm
cho con ngựa hết khát nước, nhưng ít ra bạn có thể dẫn nó tới chỗ
có nước. Mọi nỗ lực, do đó, vận dụng các phương tiện và thủ đoạn
- upàya - để dẫn nó tới chỗ có nước là rất có ý nghĩa vì ta cho nó
cơ hội uống khi nó khát. Trong ý nghĩa đó, sự diễn giải Thiền của
Bác sĩ Suzuki qua hàng loạt trước tác của ông đã soi sáng và giúp ích
nhiều người đang cần sự hướng dẫn và chỉ bảo. Văn phong Nhật ngữ
của ông cực kỳ giản dị, rõ ràng và dễ hiểu. Không sử dụng những
thuật ngữ Phật học khó hiểu, tác phẩm của ông vẫn thấm đượm trí
tuệ uyên thâm. Ông viết với lòng nhiệt tình phản ánh tính cách con người
ông, làm cho mọi người cảm thấy gần gũi với tinh thần Thiền tự bản
chất đã có nơi họ nhưng họ lầm tưởng nó là một cái gì huyền bí bất
khả lãnh hội chỉ có nơi vài người xuất chúng.
Sự tiếp cận bằng trí năng
của ông càng thu hút và hướng dẫn giới trẻ Nhật bản vốn được nuôi
dạy bởi đường lối giáo dục duy lý Tây phương, khó lòng cộng hưởng
với không gian truyền thống đầy uy lực của Thiền tông, dù họ trân trọng
giá trị của nó.
Nói chung sách của ông không
những khơi gợi cảm hứng nơi giới tăng lữ mà còn giúp công chúng hiểu
giá trị của Thiền như một tài sản truyền thống tiếp dưỡng chính cuộc
sống của họ. Đóng góp của ông trong lĩnh vực này có ý nghĩa vô cùng
trong hiện trạng của nền văn hóa Nhật đang bị ‘hiện đại hóa’ dưới
ảnh hưởng mạnh mẽ của Tây phương, bởi lẽ không có sự thay đổi nào
có thể thành tựu mỹ mãn trong bất cứ quốc gia nào mà không hòa hợp với
giá trị văn hóa nền tảng vốn gắn liền trong tâm khảm người dân.
Đối với Tây phương nơi lề
lối tư duy biện biệt là truyền thống phổ biến thì phương pháp phân
tích để minh giải của ông hầu như không xa lạ; nhưng nó xa lạ đối với
Đông phương. Tuy thế ông lại giới thiệu một chủ đề rất không quen
thuộc với tâm thức Tây phương. Do đó không lạ gì khi người Tây phương
thoạt đầu xem điều ông nói chỉ là một sản phẩm bí truyền nào đó của
Đông phương huyền bí.
Một trùng hợp ngẫu nhiên đầy
thú vị khi, vào năm 1900, Bác sĩ Suzuki cho xuất bản ở Mỹ tác phẩm đầu
tiên về Thiền bằng Anh ngữ của ông, quyển Đại thừa Khởi tín luận của
Azvaghowa (Mã Minh), thì Freud cũng đồng thời xuất bản tác phẩm đầu tay
của ông về Phân tâm học, cuốn Giải thích về Mộng.
Có lẽ điều này không lạ
hay bất ngờ lắm, vì dù họ không hề quen biết nhau và không nhận thức
mình đã cùng có chung cái gì, song họ đã khởi xướng cùng một trách vụ:
sự phê phán bịnh lý học của nền văn hóa Tây phương hiện đại, đặc
biệt là sự thắng lướt của lý trí mà cả hai đều đưa ra những
phương pháp sửa chữa theo cách riêng của mình. Freud chú trọng ý nghĩa của
vô thức, sức mạnh của cảm xúc, là đối lực của ý thức và sức mạnh
của lý trí, và mâu thuẩn của chúng chính là nguồn gốc những rối loạn
tâm thần. Bác sĩ Suzuki đặc biệt làm sáng tỏ bản tính nhị nguyên và
phân biệt của lý trí là nguồn gốc những phiền não con người.
Vì sự vạch trần vấn đề một
cách táo bạo và không thương xót của Freud, tâm thức Tây phương dần mở
mắt trước sự tha hóa của con người tách khỏi con- người-toàn-diện của
nó được phơi bày qua hình thức vô số bịnh án về những rối loạn
tâm thần. Những người đi trước Freud như Nietzche, Marx, và Kierkegaard đã
tiên đoán hiện tượng này cho dù nó từng được che đậy khéo léo bằng
vinh quang của những thành tựu duy vật chất được gọi là tiến bộ.
Freud tiến đến giải pháp cho
vấn đề bằng phương pháp phân tâm học. Nó được hướng dẫn bởi nguyên
tắc chuyển vô thức thành ý thức, cái phi lý vào địa hạt lý trí, hay
nói theo cách của ông, "ở đâu có bản ngã (id), ở đó có tự ngã
(ego)."
Theo nghĩa này ông vẫn còn
trong phạm trù văn hóa duy lý truyền thống của Tây phương. Tuy nhiên, với
tất cả thành quả lao động vĩ đại của ông trong ngành phân tâm học,
ông đã đạt đến kết luận bi quan về tương lai của văn minh nhân loại
vì, qua sự quan sát có tính phê phán, ông đã nhìn thấy khuynh hướng tự
hủy mà ông cho là có sẵn nơi bản tánh con người. Ông cũng kết luận, bằng
lối tư duy duy lý, rằng tôn giáo là một ảo giác và là một thứ chủ
nghĩa ấu trỉ.
Đóng góp của Bác sĩ Suzuki
trong lãnh vực này, hiển nhiên, là phương pháp Thiền. Ông nhấn mạnh tầm
quan trọng của việc thức tỉnh và cũng dùng chữ "ý thức" như
Freud đã dùng. Tuy nhiên với ông "ý thức" có nghĩa khác với quan
niệm của Freud là chuyển vô thức dục tính thành ý thức. Dụng ngữ của
Suzuki là làm sao ý thức về "cái Vô thức Vũ trụ", thành tựu bằng
sự thức tỉnh trí tuệ bát nhã.
Vì Phật giáo chủ yếu phát
sinh từ sự quán sát thực tế và từ nhận thức về cảnh trạng của
nhân loại là đau khổ thân, nên có thể đồng quan điểm với Freud ở chỗ
nói rằng cảnh trạng hiện hữu của con người là bi quan trong hiện tại
cũng như tương lai chừng nào nó còn bị thúc đẩy bởi khuynh hướng tự
hủy vốn cắm sâu gốc rễ trong vô minh của nó.
Phật giáo hiểu rằng, cảnh
trạng hiện sinh đau khổ của con người vì hai loại vô minh liên kết nhau
bất khả phân. Thứ nhất là vô minh không biết mình đang bị tha hóa tách
rời Phật tánh và thứ hai là vô minh không biết rằng Phật tánh hiện hữu
trong hết thảy chúng sinh là sự thật. Tóm tắt, con người mê muội vô
minh không biết Phật tánh vốn có sẵn nơi mình. Và chính vì sự không biết
này mà con người mù quáng đầu hàng những thôi thúc bản năng vốn bị
điều động bởi các nguyên lý, theo cách nói của Freud, khoái lạc và cái
chết. Càng bị thúc đẩy bởi những động lực này và đeo đuổi thỏa mãn
chúng, dù có sự cưỡng lại của lý trí qua những ức chế, con người càng
bị tha hóa tách rời thực tánh của mình. Phương cách để tự giải phóng
mình khỏi
sự tự vong thân tha hóa, theo Thiền
không phải là ức chế hay thăng hoa bằng lý trí, mà phải đột phá vô
minh và nhận chân Phật tánh bằng kinh nghiệm tỉnh thức trí tuệ bát
nhã. Như thế, ngay cả khi Thiền, một trường phái của Phật giáo, chia xẻ
cùng quan điểm với Freud về cảnh trạng hiện sinh của loài người, nó
khởi sự phát triển học thuyết riêng về sự giải phóng khỏi điểm
nơi mà Freud kết thúc bằng chủ nghĩa bi quan. Thiền giúp con người khám
phá bản lai diện mục của mình, theo diễn đạt của nó, giúp tái sinh
làm một con người toàn diện và cho phép nó đạt đến một cuộc sống tâm
linh mới vượt khỏi những nguyên lý khoái lạc và chết, đồng thời siêu
việt tính phân đôi của lý trí. Trải nghiệm điều này và sống trong
nó, giúp người khác giác ngộ, đó là đời sống tôn giáo của Thiền
tông. Với Bác sĩ Suzuki, tôn giáo mà ông tin tưởng và thực hành không phải
là một ảo giác hay chủ nghĩa ấu trỉ. Tôn giáo đối với ông là con
đường thuần thục và là chủ nghĩa hiện thực với ý nghĩa người ta có
thể sống cuộc đời của mình trọn vẹn với nó như một tồn tại toàn
diện mới mẻ và giúp người khác phục hồi cái toàn diện của họ.
Trong lúc Tây phương bắt đầu
được tô vẻ bằng khái niệm màu hồng về tiến bộ trên nền tảng tin
tưởng vào sự ưu việt của lý trí, đúng lúc ấy một thông điệp đã
được gởi đến từ phương Đông. Thiền tuyên bố khi ý thức được hiện
trạng tự vong thân của mình do sự ưu thắng của lý trí, con người có
thể tự giải thoát mình khỏi vô minh để tỏ ngộ Phật tánh trong mình.
Hiểu như vậy không có gì phải sợ bị phơi trần trước sự rỗng không
và vô nghĩa của hiện hữu con người, vì nó được xem như bước ngoặt
mở ra con đường thức tỉnh tối hậu cho trí tuệ bát nhã đã được chuẩn
bị trong Thiền. Đó là thông điệp của Bác sĩ Suzuki gởi tới khắp thế
giới - một thông điệp về sự phục sinh của chính con người.
Có lẽ hơn ai hết, những người
bận tâm điều trị những con bịnh rối loạn tinh thần sẽ trở nên nhạy
bén trước căn bịnh của văn minh Tây phương như hệ quả trực tiếp từ
những quán sát của họ trong các văn phòng của họ. Trong khi những nhà trị
liệu phái Freud ít nhiều còn tiêu cực và hoài nghi hay thờ ơ trước Thiền
vì định hướng về dục tính của họ, thì những nhà tâm trị hay tâm
lý trị liệu với đầu óc chưa bị gò bó bởi lý thuyết và cởi mở trước
thực tại tâm linh lại tỏ ra quan tâm đến những điều Suzuki nói. Trong số
đó Jung là người đầu tiên đã nhận thấy và đánh giá cao ý nghĩa của
kinh nghiệm Thiền. Trong lời tựa viết cho cuốn Dẫn nhập Thiền tông của
Suzuki, ông nói: "Phong trào duy nhất bên trong nền văn minh của chúng ta
vốn có, hay hẵn phải có, kiến giải nào đó về những nỗ lực này
chính là liệu pháp tâm lý". Ông đã so sánh kinh nghiệm Thiền với những
kinh nghiệm thần bí của Meister Eckhart và John Ruysbroeck và diễn giải
chúng như một tiến trình cá thể hóa, thuật ngữ của ông thay cho ‘trở
thành tổng thể’. Tuy thế ông vẫn dự phòng hữu lý khi nói "Vĩ đại
thay giá trị của Thiền tông để hiểu rõ quá trình tiến hóa tôn giáo,
công dụng của nó đối với Tây phương vẫn có vấn đề". Cho dù
công dụng của nó đối với Tây phương có vấn đề hay không nó vẫn là
câu hỏi phải giải đáp trong tương lai. Nhưng nếu Suzuki không cảm nhận
được giá trị của công dụng đó đối với Tây phương về mặt ‘trở
thành tổng thể’, thì đâu là ý nghĩa của sự nghiệp đời ông dành cho
sự truyền bá Thiền
sang phương Tây? Cá nhân tôi vẫn
muốn nhấn mạnh một phát biểu khác của Jung, "Tôi tin chắc kinh nghiệm
chứng ngộ có xảy ra ở phương Tây". Bởi lẽ tôi tin là, chừng nào
cái Vô thức Vũ trụ còn tâm trong đó chứng ngộ, satori, diễn ra, nó còn
là bao quát và không biên giới vượt ngoài những dị biệt về văn hóa.
Ngay cả khi bị ước định bởi văn hóa, con người vẫn có tiềm năng cố
hữu để thực hiện một bước nhảy và tự giải phóng mình khỏi sự
ràng buộc vào những định kiến văn hóa - sản phẩm của tính phân biệt,
bằng cách nhận thức được cái Vô thức Vũ trụ vốn phổ quát. Theo sau
Jung là Karen Horney; sau những tiếp xúc cá nhân và đàm đạo với Bác sĩ
Suzuki, bà đã quan tâm sâu sắc đến Thiền tông. Sự tiếp cận tổng thể
của bà với chính con người và quan niệm căn bản của bà về chân bản
ngã với sự nhấn mạnh tầm quan trọng của trực giác trong liệu pháp, tất
cả đã thúc đẩy bà nghiên cứu và hấp thụ một cách nồng nhiệt những
thành tựu của Thiền. Trong chuyến đi Nhật của bà cùng với Suzuki, kỷ
niệm vẫn còn sinh động trong tâm trí tôi, bà đã gặp và trao đổi ý kiến
với rất nhiều Thiền sư. Cho dù bà được coi là một trong những người
lãnh đạo nhóm các nhà văn hóa, nhân cách của bà còn vĩ đại hơn học
thuyết của bà nhiều. Vì tự cảm thấy thích hợp và có nhiều tương đắc
với Thiền, bà mong mỏi khai triển ý tưởng của mình bằng sự khuyến
khích tư tưởng được trải nghiệm ở Nhật Bản. Thật không may, cái chết
đột ngột của bà đã khiến những điều bà đạt được trong chuyến
đi này trở thành dang dở. Sau khi bà mất, Suzuki đã tổ chức các buổi
thuyết trình và hội thảo với nhóm của bà do Harold Kelman lãnh đạo.
Năm 1957, Erich Fromm mời Suzuki
đến dự một hội nghị ở Mexico. Cuộc gặp gỡ này của họ đã hình
thành tác phẩm Thiền và Phân tâm học. Đây là một sự kiện đầy ý nghĩa
vì, mặc dù bắt nguồn từ những nền văn hóa khác nhau và vào những thời
đại khác biệt, Thiền và Phân tâm học vẫn cùng chung một nhiệm vụ
khôi phục con người như một hữu thể toàn diện trong thời đại phân
hóa nhân cách và ưu tư khắc khoải này, và họ đã trực tiếp tiếp xúc
vì sự hợp tác nhằm khẳng định mục tiêu chung của họ.
Cứ thế, những hoạt động
không ngừng của ông để giải thích và truyền bá Thiền ở Đông cũng
như Tây phương bắt đầu kết trái vào cuối đời ông. Sự kiện nổi bật
nhất chính là trong suốt những năm dài tiên phong hoạt động, trên thực
tế ông đã hoạt động đơn độc. Nghĩa là ông chỉ có một mình và tự
lo lấy, dù ông cũng có sự trợ giúp đắc lực và chăm sóc cá nhân của
cô Mihoko Okamura cho đến khi nhắm mắt. Con đường do ông mở ra đã được
tiếp bước và vun xới bởi những người như R.H. Blyth, Alan Watts, R. De
Martino, P. Kapleau.
Một buổi chiều, khi đang cùng
với ông ở Ipswich, gần Boston, trong lúc đàm đạo tôi bất chợt hỏi
ông: "Câu nói của Bách Trượng ‘ngồi một mình trên đỉnh Đại hùng’
nghĩa là sao?" Như để trả lời, bất chợt ông đứng dậy với sự
nhanh nhẹn lạ kỳ, rồi ngồi xuống kiết già trên ghế. Tôi không bao giờ
quên được hình ảnh toàn thể con người ông vào lúc đó bổng trông như
lớn hơn và rạng ngời ánh sáng của một sức mạnh siêu phàm. Chính ở
đấy tôi đã chứng kiến tính chất mạnh mẽ và cao quí của sự đơn độc
nơi ông.
Năm 1952, trong các diễn thuyết
của mình ông vẫn chủ yếu nhấn mạnh tầm quan trọng của Trí (Prạjĩà,
bát nhã). Nhưng theo thiển kiến, trên thực tế ông lại dạy chúng ta Bi
(Karuịà) qua lối sống thường nhật của ông. Một buổi tối tôi đang kể
ông nghe kinh nghiệm của tôi về một bệnh nhân; người này đã cố gắng
cùng cực chịu đựng sự đau đớn, tôi bỗng lặng người khi thấy ông
khóc. Một lát sau, Suzuki nói: "Tôi cảm thấy mang ơn ông biết bao vì
những việc ông đã làm." Tôi cảm nhận được mối liên hệ thiết
thân của ông với nỗi đau của con người. Tự thâm tâm ông cảm thấy
mang ơn bất cứ sự giúp đỡ nào giải thoát con người khỏi khổ đau của
họ. Do đó ông đã bày tỏ lòng tri ơn thay cho bệnh nhân của tôi là người
đối với ông không hề xa lạ
mà là một người thân thuộc
theo nghĩa người ấy cũng đang tồn tại và đang băn khoăn khổ cầu giác
ngộ về Phật tánh của chính mình. Lúc đó tôi vô cùng xúc động trước
ước vọng chân thành của ông - biểu hiện của lòng đại Bi - muốn giải
thoát mọi người khỏi khổ đau và sự vô minh của họ. Lời ông nói thấm
xâu vào lòng tôi và âm vang của nó còn rung động mãi bên tai nhắc nhỡ
tôi ý nghĩa thật sự của nghề lương y của mình.
Về cuối đời, ông ngày càng
trình bày rõ nét ý nghĩa của đại Bi trong các thuyết giảng và luận văn
của mình. Nhất là sau khi dịch ra Anh ngữ tác phẩm Giáo hành tín chứng
(Kyô-gyô-shin-shô) của Shinran (Thân Loan), một trong những trước tác quan yếu
nhất của Phật giáo Tịnh độ, ông đã nhấn mạnh ý nghĩa của Đại hành,
biểu hiện sinh động của đại Bi vốn là sự vận hành của Trí tuệ
bát nhã giúp con người hồi sinh như một hữu thể toàn diện.
Di ngôn của ông trên giường
bịnh là "Đừng lo!", "Cảm ơn", "Xin cảm ơn".
Trong giây phút cuối đời, ông không muốn người ta lo lắng vì sự đau đớn
cùng cực mà ông phải chịu đựng bởi cơn bịnh, và ông không ngớt tri
ơn mọi sự đã diễn ra, ngay cả cái chết. Trong ý nghĩa đó, bản thân
ông đã minh họa cho những gì ông vẫn khuyên dạy chúng ta trong suốt cuộc
đời: lòng đại bi và đại nguyện.
Ông đã khép lại đời mình
trên thế giới này. Nhưng, hãy nhìn! Với những ai có thể nhìn ra, thì
cây cầu đá của Triệu Châu vẫn thường hiện hữu.
A. K.
SOHAKU KOBORI
TƯ DUY BỪNG SÁNG
I
Một trong các thành tựu chủ
yếu của Bác sĩ Suzuki là ông đã truyền đạt thành công cái bất khả
truyền. Thực tại của Thiền tự bản chất không chấp nhận bị chuyển
hóa thành Tảng đá Rosetta; nó luôn khước từ việc phiên dịch thành bất
cứ loại ngôn ngữ khái niệm nào. Điều này làm tôi chợt nhớ đến câu
chuyện về ba vị thần của Trang tử:
Một vị là Hỗn Độn cai quản
trung tâm vũ trụ. Một vị là Thúc, thần của biển Nam và vị thứ ba là
Hốt, thần của biển Bắc. Cả ba là bạn thân và một hôm họ gặp nhau
chỗ Hỗn Độn. Vị này tiếp đãi hai người bạn nồng hậu đến mức
hai vị thần Nam và Bắc hải bàn nhau cách đền đáp Hỗn Độn. Họ đi đến
kết luận: Trong lúc ai cũng có bảy cái lỗ nhờ đó mà thấy, nghe, ăn, và
thở, vậy mà Hỗn Độn chẳng có cái nào; hai ta phải khoét cho ông ấy mấy
cái. Vậy là, mỗi ngày họ đục khoét cho Hỗn Độn một cái lỗ, sau một
tuần khi họ khoét xong bảy cái lỗ, Hỗn Độn lăn ra chết." (Chương
7)
Chính Bác sĩ Suzuki là người
đã cố gắng giới thiệu Hỗn Độn, thực tại của Thiền, vào lề lối
tư duy Tây phương. Không giết chết Hỗn Độn, ông đã khiến nó hội
thông Tây phương làm cho họ lưu ý tính hiện thực của một quan điểm đẫm
dấu thời gian của Đông phương. Ở phương Tây, việc hiểu một quan niệm
mới mẻ như vậy xem ra rất có ý nghĩa, đặc biệt ở giữa lòng trào lưu
tư tưởng hiện đại. Erich Fromm, nhà phân tâm học, đã nói "Lão giáo
và Phật giáo có tính hợp lý và thực tiễn hơn hẳn các tôn giáo của
Tây phương. Họ có thể nhìn con người một cách hiện thực và khách
quan, chỉ có những người ‘đã thức tỉnh’ mới dẫn dắt nó, và nó
có thể dẫn dắt được bởi mọi người đều có sẵn trong mình khả năng
tỉnh thức và giác ngộ. Đó chính là lý do tại sao tư tưởng tôn giáo Đông
phương, Lão giáo và Phật giáo - và sự hỗn hợp của cả hai trong Thiền
tông - mang tầm quan trọng đến vậy đối với Tây phương ngày nay."1
Trong thế giới hiện tại, con người, bị tách biệt với thiên nhiên, lại
xa rời ngay cả chính nó, chỉ còn nương dựa vào những tiến bộ khoa học
và kỹ thuật để cải thiện chuẩn mực của cuộc sống và xây dựng một
thiên đường có giới hạn trên trần thế. Nhưng con người, trong thực tế,
hoảng hốt nhận ra trong hai, ba trăm năm tiến bộ vượt bực về tri thức
khoa học mà tri thức để sống chung với đồng loại tỏ ra tiến triển rất
ít, nếu không nói là chẳng có gì.
Do đó con người ngày nay phải
chịu đựng cảm giác biệt lập bởi mâu thuẫn giữa tri thức cá thể
trong khoa học với sự ngu dốt bầy đoàn trong chiến tranh. Chính vì hiện
trạng này mà giao tiếp giữa Đông và Tây nhằm tìm kiếm những thái độ
mới đã trở nên thiết yếu - những thái độ theo đó con người có thể
hội nhập với chính nó và cùng lúc có thể hòa mình với đồng loại bất
kể những khác biệt địa vị.
II
"Nhiệm vụ của chúng ta
là giúp thiết lập nhịp cầu văn hóa giữa Đông và Tây, để cho Tình
Yêu có khả năng thành mục tiêu của nó." Đó là phát biểu của Bác
sĩ Suzuki trong bài xã luận của tạp chí Văn hóa Đông phương, "Ở đâu
thiếu tầm nhìn tâm linh ở đó không có văn hóa, vì văn hóa phản ánh những
thành tựu tâm linh của con người. Tâm linh nói thẳng với tâm linh; đó
là Giác ngộ. Khi tâm linh đã bừng sáng, Vô minh không còn phát tác, con người
có thể cảm thông nhau. Một tâm linh thức tỉnh thì luôn sáng tạo và văn
hóa sẽ bắt nguồn từ đó bằng mọi hình thức đa dạng của nó. Một sự
cảm thông văn hóa do đó có nghĩa là xiển dương phẩm chất tinh thần của
con người."
Như ông vẫn nhấn mạnh, Đông
và Tây cần thông hiểu nhau; để được vậy tinh thần con người phải
được khai ngộ tận căn để. Đây là một trong những khía cạnh quan trọng
nhất trong tư tưởng của Bác sĩ Suzuki. Và, để hiểu được ý nghĩa của
tâm linh thức tỉnh đó tôi muốn nói thêm vài quan điểm của mình. Tư tưởng
của ông không được phân loại tương tợ những ý thức hệ vốn là những
khái niệm tư tưởng đặc thù được giới hạn bởi những quốc gia hay dân
tộc. Đúng hơn nó thể hiện những ý nghĩa chung cho nhân loại mà không
có bất kỳ định kiến cực đoan nào, nó giúp họ sống hòa đồng với
nhau. Tư tưởng của Bác sĩ Suzuki không chỉ đơn giản là kết quả lý luận
của một dạng thức nào đó của tư duy khoa học hay siêu hình, mà nó
hình thành trực tiếp từ kinh nghiệm của ông, được rọi sáng vào thực
tại rốt ráo của con người cũng như của thế giới tự nhiên. Nói cách
khác, ông không đạt đến thực tại từ bên ngoài mà chính ông đã hòa
thành một với thực tế "Vô thức Vũ trụ" (thuật ngữ của ông)
vốn nằm ở nguồn căn mọi hiện hữu và liên kết chúng lại thành một
nhất thể.
Ông thường khẳng định
"Tôi không phải là một học giả", chừng như để gợi ý rằng một
học giả thông thường, tạm gọi vậy, sống mà truy tầm một thực tại
nào đó thông qua tư duy luận lý hay khách quan, tự đặt mình tách rời
cái mình đang đeo đuổi. Khi một người nghiên cứu hay theo đuổi mà mục
tiêu được nghiên cứu nằm ngoài y thì kết quả nghiên cứu đó không phải
là một kết quả tích hợp. Như hiện tại, con người, không có sự phản
chiếu sâu xa, chỉ dựa vào những phương tiện khoa học để cải thiện
cuộc sống, không ý thức được thực tế hiển nhiên rằng khi quan sát
thiên nhiên họ hoàn toàn bỏ sót bản thân. Einstein, theo tôi hiểu, đã khẳng
định "không gian bốn chiều", có nghĩa là thêm một chiều - chiều
thời gian - vào ba chiều vật lý đã được biết trước đó. Nhưng theo tôi,
không gian bốn chiều này vẫn còn thiếu một chiều, là người đang quan sát
nó - tức chính Einstein, bởi qua ông mà bốn chiều kia được tích hợp. Liệu
ông có ý thức được bản thân mình đương nhiên là cái chiều thứ năm
này không? Chừng nào khoa học tự nhiên chưa ý thức được cái chiều tiềm
ẩn này vốn liên kết con người với thiên nhiên, thì ngoại giới, dù
phát triển bao nhiêu, cũng không đủ điều kiện để đưa con người hướng
về thực thể hoàn hảo của nó, hướng về thế giới cảm thông giữa những
tâm hồn đã thức tỉnh.
III
Như đã nói, đặc tính nổi bật
trong tư tưởng của Bác sĩ Suzuki là dòng chảy tự phát của tri thức ông
bắt nguồn sâu xa từ kinh nghiệm Thiền của ông. Tri thức đó, một khi đã
đạt đến cực điểm trong ông, đã bùng vỡ thành Vô thức Vũ trụ
(Chaos) vốn có trước mọi sự rẻ nhánh hay phân cực cần thiết cho quá
trình tư duy. Vô thức Vũ trụ như thế mới thực là nền tảng hiện thực
chung cho sự trải rộng vô cùng của tự nhiên - không gian, thời gian, các
tinh cầu và vũ trụ, vô tình hay hữu tình bao gồm súc vật, cây cỏ cho đến
con người. Cái Vô thức Vũ trụ này vượt ngoài những giới hạn của
lãnh vực trí năng con người sở đắc được từ trước đến nay, nên đôi
khi còn được gọi là "huyền bí" hay "siêu nhiên". Nhưng
những thuật ngữ như vậy là những khái niệm hạn chế xuất phát từ
tri kiến chưa tích hợp, chưa ý thức được yếu tính của tự nhiên và
con người.
Tuy vậy, may thay ý thức của
con người lại bắt nguồn sâu xa từ Vô thức Vũ trụ. Vào khoảnh khắc
ý thức con người, vốn dần dà chìm đắm trong biển Vô thức Vũ trụ, bất
chợt trồi lên trên bề mặt của vô thức đó, một lần nữa nó cứa
sâu vào tầng ý thức thông thường. Đó là lúc Thiền gọi là ý thức của
con người tỉnh thức trước chân tánh của mình: ngộ hay satori.
Chúng ta phải hết sức thận
trọng trước tiến trình của kinh nghiệm tỉnh thức; phải nghe được từ
tâm khảm mình rằng nó không hề là sự liên tục suông của trạng thái hữu
thức của tâm trí, cũng không phải sự chìm lĩm đơn thuần vào vực thẳm
vô thức. Nó là sự thức tỉnh lại của ý thức sau khi đã một lần ‘trải
qua’ Vô thức Vũ trụ. Sự ‘hồi phục’ này, tuy thế, không bao giờ lẫn
lộn với tri giác hay tri nhận mà, theo thuật ngữ quen thuộc của Bác sĩ
Suzuki, là sự "ý thức vô thức" hay "vô thức ý thức".
Trừ khi chúng ta thấu hiểu tiến
trình này, bằng không chúng ta chẳng thể hiểu rõ hạng từ ‘tinh thần bừng
sáng’ mà Bác sĩ Suzuki đã xác quyết như là nền tảng chung để con người
có thể cảm thông nhau.
IV
Tôi xin trích dẫn một đối
thoại trong Bích nham lục như một ví dụ điển hình mô tả tiến trình của
tinh thần thức tỉnh.
Một hôm, Định thượng tọa
(môn đệ của Lâm Tế) hỏi Lâm Tế: "Yếu chỉ của Phật pháp là
gì?" Lâm Tế bước xuống bồ đoàn, túm lấy ông, tát2 một cái rồi
đẩy ra , làm Định đứng chết trân. Thấy vậy, nhà sư đứng kế bên bảo:
"Thượng tọa, sao không bái tạ đi?" Định, nhân khi sắp cúi lạy,
hoát nhiên đại ngộ. (Tắc thứ 32)
Cho phép tôi ghi chú ở đây
vài lời bình giải của Viên Ngộ Khắc Cần kèm theo mỗi câu trong công
án Định Thượng tọa. Dưới đoạn văn "Lâm Tế bước xuống bồ đoàn,
túm lấy ông, tát một cái rồi đẩy ra", Viên Ngộ chú giải: Hôm nay
(Lâm Tế) tóm lấy (môn đệ). Đó là tấm lòng tha thiết của lão sư già.
Ngay cả những Thiền tăng lỗi lạc trên đời cũng chẳng thể thoát khỏi
nó (cái tóm bắt).
Lời bình muốn nói rằng lối
cư xử của Lâm Tế đối với môn đệ - vào thời khắc ý thức tôn giáo
của y đã chín muồi - quả thật đúng lúc và đầy từ tâm.
Với câu "Định đứng chết
trân", Viên Ngộ bình: Y đã rơi xuống cái hang tăm tối chỉ toàn quỷ
xứ, hoàn toàn mất ý thức. Có nghĩa là ý thức của Định đã hòa lẫn
vào Vô thức Vũ trụ, nhưng chưa ngộ, vẫn còn trong vòng tăm tối. Với câu
‘nhân khi sắp cúi lạy, ông thoắt tỉnh ngộ’, Viên Ngộ bảo Nó như
ánh sáng tràn vào bóng tối. Bạch Ẩn thêm: "Thoắt cái người chết sống
lại". Ở đây chúng ta có thể thấy cái tăm tối của Vô thức Vũ trụ
trong thoáng chốc biến thành ánh sáng - tức giác ngộ tối thượng. Theo Bác
sĩ Suzuki, tâm hữu thức của Định, vẫn còn ở trên cấp tình tự mâu
thuẫn phân hai, đã đến chỗ tận cùng; mà Lâm Tế thì quá sành sõi tiến
trình tâm thức này (có thế ông mới là một Thiền sư lỗi lạc) nên đã
giúp môn đệ bằng một cái tát. Đây quả
nhiên là từ tâm uyên áo của
Thiền. Nhưng Định vẫn đứng ngây ra đó, đắm chìm trong đại dương vô
thức, không biết mình là ai hay đang làm gì, mất hết ý thức trước kia
vẫn từng chập chờn trong suốt cuộc đời truy tìm chân lý của mình.
Chính giây phút đó, một đệ tử cao cấp của Lâm Tế, chứng kiến sự
việc, đã giúp bạn đồng môn của mình phá vỡ hố thẳm vô thức. Sư giục
"Này ông! Sao không bái tạ đi?" và lời này đã đẩy y đến chỗ
thức tỉnh trí tuệ căn cơ. Định bái tạ và kìa! Ông bỗng sống lại
trong một thế giới mới thật tuyệt vời! Hãy xem Tuyết Đậu miêu tả
khoảnh khắc vi diệu này trong bài kệ tán thán sau:
Cự Linh đài thủ vô đa tử
Phân phá Hoa sơn thiên vạn
trùng.
Cự Linh cất tay chẳng nhọc
công
Phá vỡ Hoa sơn muôn vạn lớp.1
Thần Cự Linh ở đây là hình
ảnh của Lâm Tế. Cái tát của ông đã đập tan trùng trùng vô thức nơi
Định Thượng tọa, và cũng như dòng Hoàng hà tuôn chảy qua dãy Hoa sơn,
trí tuệ căn cơ đã được khơi nguồn trong khoảnh khắc Vô thức Vũ trụ
bị đập tan.
V
Từ trường hợp trích dẫn
trên chúng ta có thể phần nào thấy được tiến trình kinh ngiệm chứng
ngộ. Trong triết học Phật giáo, nó được nói đến như là " sự thức
tỉnh của Trí (prajĩà)". Có nghĩa là một tâm linh cá nhân đơn lẻ trải
qua kinh nghiệm về‘con-người-toàn-diện mà siêu việt thế giới phân biệt
và hữu hạn để được nâng lên giai tầng vô hạn, vô phân biệt. Ở đó
y thấy mình thoát khỏi lớp vỏ bọc của tự ngã độc tôn hữu hạn
luôn chối bỏ cái tôi của người khác. Bây giờ y đang đứng trên nền tảng
‘hiện hữu’ được chia sẻ đồng đều cho hết thảy mọi người và mọi
vật, hòa mình vào suối nguồn của dòng đời bất tận. Và rồi, trên cơ
sở cá thể mà người ta nhìn thấy bản tánh đại đồng và vô hạn của
con người. Với quan điểm này mọi người đều có thể thông hiểu và
tôn trọng lẫn nhau.
Cũng trong phạm vi tư tưởng của
Bác sĩ Suzuki, nếu có thể gọi quan niệm của ông về sự thức tỉnh Đại
Trí (maha-prajĩà) là một đỉnh cao, thì đỉnh cao kế tiếp là ý tưởng về
Đại Bi (mahà-karuịà) mà đôi khi ông so sánh với Tình Yêu. Ông đã giới
thiệu khái niệm này với môi trường văn hóa Tây phương như một yếu tố
cơ bản tổng hợp mọi khác biệt trong cách sống và suy nghĩ. Ở đây tôi
sẽ thử làm sáng tỏ mối tương quan giữa đại Trí và đại Bi.
Thuật ngữ Bát-nhã (prajĩà)
thường được dùng chung với từ Ba-la-mật (pàramità), một thuật ngữ
mà ta có thể hiểu ít nhất theo hai nghĩa. Thứ nhất là "đến bờ bên
kia" (bằng trí tuệ siêu việt); nghĩa kia là "đạt đến trí tuệ
siêu việt". Trong kinh Laíkàvatàra (Lăng-già) có đoạn văn huyết mạch
sau: "Trí tuệ vượt ngoài quan niệm về hiện hữu hay không-hiện hữu,
mà một tâm đại Bi tự thức tỉnh trong chính nó." Đây không những
là câu quan yếu nhất trong triết học Laíkàvatàra mà trong toàn bộ giáo
huấn của Phật giáo Đại thừa. Như tôi đã nói, (prajĩà- pàramità) theo
một nghĩa là sự hoàn thiện của trí tuệ siêu việt thức tỉnh con người
nhìn thấy nền tảng căn để của mọi tồn tại. Nhưng đại Trí đó
không bao giờ tự nó tựu thành đơn độc; sự thức tỉnh nhìn thấy nền
tảng căn để của hết thảy tồn tại phải là kinh nghiệm chung của mọi
con người. Bao lâu nó còn trong tình độ kinh nghiệm cá nhân hay giới hạn
trong một nhóm riêng biệt nào thì nó chỉ là trí tuệ bị hạn cuộc, tương
đối và do đó chỉ là trí tuệ hữu hạn dù nó có thể đạt đến cuộc
sống cô liêu và thánh thiện. Nó sẽ chẳng bao giờ là trí tuệ tối thượng
được cả nhân loại cùng chia xẻ. Vì mọi người đều sống trong một cộng
đồng tương liên, sự thành tựu trí tuệ tối thượng của cá nhân đơn
thuần sẽ không bao giờ có ý nghĩa; nó chẳng dính dáng gì tới hạnh
phúc của nhân loại như một tổng thể. Theo Bác sĩ Suzuki, ở đây quan niệm
về Bồ tát là đương nhiên: một vị Bồ tát không bao giờ muốn thành Phật
- vị đã hoàn thành viên mãn đại trí - trừ phi hết thảy chúng sinh trên
cõi thế từ quá khứ, hiện tại cho đến vị lai đều đã giác ngộ.
"Nếu ngài đạt đến cảnh giới tự chứng mà ngài cảm thấy nó
tràn đầy bình yên, phước lạc và hùng mạnh, ước nguyện tự nhiên của
ngài là chia xẻ điều đó với đồng loại. Về lý thuyết, sau khi đã
được lợi mình, bước kế tiếp là làm lợi cho người. Về thực tế,
ngài không thể có tự lợi nếu không có lợi tha."
Đại trí rất nhạy cảm với
sự bất toàn của chính nó; nó không phải là một trí năng tĩnh tại; nó
chỉ có thể tác động một cách tích cực lên những ai còn mê mờ. Chừng
nào còn có những tâm trí mê mờ thì trái tim của một tâm hồn đã bừng
sáng còn nhức nhối. Đại trí luôn bị dằn vặt, đau khổ vì sự bất
toàn của nó. Sự nhạy cảm bẩm sinh này của đại trí chính là tâm đại
bi. Trong tận cùng căn để của Vô thức Vũ trụ thì Trí và Bi không phân
hai, bởi khi trí tuệ thù thắng được thức tỉnh trong con người thì từ
bi cũng đồng thời phát khởi - chính là sự viên mãn của đại trí - cũng
như bản chất của ánh sáng là để tràn vào bóng tối. Tôi tin là cốt
lõi của hệ tư tưởng của Bác sĩ Suzuki bao gồm hai đỉnh cao này, trí tuệ
và tình yêu - hay bát nhã và đại bi - và cả hai đều phát sinh trực tiếp
từ thực chứng của ông. Khi một tâm hồn đã bừng sáng mà suy nghĩ, thì
nó tạo ra một tư duy bừng sáng.
Khi ánh sáng đại giác chiếu
rọi bên trong con người, nó thành đại trí để cắt đứt mọi ý tưởng
hữu hạn, đau khổ và tự ngã độc tôn. Khi nó chiếu rọi rangoài, nó là
đại bi - lòng thương yêu hướng về lợi ích của hết thảy chúng sinh,
khơi sáng cho tâm hồn của chúng.
VI
Trong lịch sử tư tưởng Tây
phương, con người đã có thời đứng ngang hàng với Thượng đế và
không hề hoài nghi ý nghĩa hay giá trị của sự sống. Tuynhiên, từ khi mọi
nguyên lý thống trị con người mất đi uy quyền của nó, con người đi đến
chỗ cho rằng "Thượng đế đã chết". Từ đó họ bắt đầu đảm
nhận vai trò của đấng Sáng thế, đi tìm trong cơ giới những cái tương
xứng với quyền năng sáng tạo của đấng Sáng thế.
Con người ngày nay tin là khoa
học và kỹ thuật sẽ đem đến cho nó một thiên đường tương đối trên
trần thế. Tuy vậy nó vẫn không hiểu tại sao nó và đồng loại luôn cảm
thấy cuộc đời vô cùng trống trải và vô nghĩa. Con người bối rối nhìn
quanh và cảm nhận nỗi cô đơn bị tha hóa tách rời khỏi tâm điểm hiện
hữu của mình. Nó cũng bắt đầu đối diện với nỗi sợ hãi rằng, bằng
chính những phương tiện khoa học, có thể bị quét sạch khỏi thế giới
này trong một cơn hủy diệt hạch nhân. Chính vì những khuynh hướng tư
tưởng hiện đại như vậy và cũng chính vì những suy nghĩ sâu xa và căn
để hơn nhiều về vấn đề hiện hữu của con người, mà Bác sĩ Suzuki
đã cố gắng giới thiệu một tầm nhìn mới vào thế giới ngày nay. Cái
mà ông muốn đóng góp, theo tôi, là ý tưởng về con người toàn diện
trong nó trí tuệ và từ bi bắt rễ vững chắc. Trong khi trí tuệ sẽ có
khả năng kiểm soát tri thức khoa học và do đó bảo vệ con người khỏi
tự hủy diệt, tình yêu sẽ thiết lập cơ sở thông hiểu nhau giữa con người
ở mọi tầng lớp và cũng là cơ sở hòa điệu giữacon người và thiên
nhiên.
VII
Lần cuối cùng tôi nhìn thấy
Bác sĩ Suzuki, thi thể ông được đặt trong một căn phòng dưới tầng hầm
bệnh viện St. Luke ở Tokyo. Ông nằm trong quan tài đặt trước án thờ. Trời
còn tinh mơ và chỉ có mình tôi trong phòng. Tôi bước đến trước ông, thắp
lên một ngọn nến. Tôi quỳ xuống lạy ông, và hương trầm với khói
nhang đã hòa quyện chúng tôi thành một. Tôi đã đọc bài thi kệ sau đây:
Dù chúng sanh vô số
Tôi nguyện độ tất cả
Dù ái dục vô tận
Tôi nguyện dứt hết cả
Dù Chánh pháp vô lượng
Tôi nguyện quán triệt hết
Dù Phật đạo vô thượng
Tôi nguyện sẽ tựu thành
Trong suốt chín mươi sáu năm đời
thầy
Không gì ngoài lời nguyện này
Mà nhìn kìa, thầy còn để lại
một lời nguyện nữa
Thật là Dã phong lưu!
Ôi thầy, thầy tôi!
Tôi đã dâng tiếng hét này
lên ông với tất cả sinh lực phát ra tận đáy lòng tôi. Nó bất chợt
hét lên từ lòng biết ơn sâu nặng tình ông đối với tôi. Khiđọc xong bài
kệ trước quan tài ông, tự nhiên nước mắt lăn dài trên má tôi, dù
mình không có chút buồn phiền. Đó là lần cuối cùng tôi giã biệt thân
xác thầy tôi.
Vào buổi chiều ngày 14 tháng
7, xác thân ông đã tan thành mây khói trong lễ hỏa táng ở Bắc Liêm thương.
Và khói tan vào những ngọn gió mát hắt hiu từ biển thổi vào. Ông đi đâu
về đâu? Nhìn kìa, ông vẫn còn đây. Ông không bao giờ chết - lời thệ
nguyện của ông. Đại ước nguyện của ông đã truyền đạt cái bất khả
truyền và chia sẻ nó với hết thảy nhân loại sẽ không bao giờ tan biến.
Vòng luân chuyển của lời nguyện này, đã vận hành trong suốt chín mươi
sáu năm qua, cần phải được luân chuyển xa hơn, xa hơn nữa, đời này tiếp
nối đời sau, bao lâu con người còn hiện hữu trên mặt đất này.
SK
---o0o---
Mục Lục
| 1
| 2
| 3
| 4
| 5 | 6
| 7
---o0o---
Source:
PhatViet (Phật
Giáo Việt Nam)
Chân thành cảm ơn Ðạo Hữu Tâm Diệu
đã gởi tặng phiên bản diện tử Unicode này
---o0o---
|
Thư mục Tác Giả |
---o0o---
Trình bày:
Nhị Tường
Cập nhật : 01.02.2003
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục