TIỂU TỰA
^
Khi Phật
sắp nhập Niết-bàn ông ANANDA và ông UPÀLI, có đến hỏi Phật: Bạch Ðức Thế-tôn sau
khi Phật diệt độ, chúng tôi phải tôn ai làm thầy?
Phật
dạy: "Phải tôn giới Ba-la-đề mọc-xa làm thầy.".
"Ba-la-đề mọc-xa" (Pàtimokkha) Tàu dịch là: "Biệt-biệt giải-thoát", nghĩa là giữ
được một giới luật thì thoát khỏi được một tội.
Phật lại
nói: Như-lai chế ra điều-học có mười điều lợi ích là:
1)- Cho có tuyệt hảo đến Tăng.
2)- Cho có sự an-lạc đến Tăng.
3)- Ðể khiển trách những người bướng bỉnh phá giới.
4)- Cho có sự ở an đến tỳ-khưu trì-giới trong sạch, đáng kính mến.
5)- Ðể ngăn ngừa các lậu-phiền-não trong đời hiện tại.
6)- Ðể đẩy lui các lậu-phiền-não trong đời vị lai.
7)- Cho những người chưa tin, phát tâm tín-ngưỡng.
8)- Cho những người đã tin, càng thêm tin.
9)- Cho Phật-pháp được kiên cố lâu dài.
10)- Ðể hộ trì Tạng Luật.
Chư
tỳ-khưu vui thích trong sự xuất gia, nên ghi nhớ cho rõ các quả vui đều phát
sanh do sự thông hiểu Giới luật trước cho có đức tin bền chắc trong giới-luật và
cần phải thực hành theo cho thuần thục
Người
thông hiểu giới luật ví như cha mẹ như nơi nương nhờ của tất cả hạng người
tín-ngưỡng Phật-pháp. Những người đã thọ Sa-di¸ hoặc Tỳ-khưu giới thực hành theo
điều trọng và điều khinh và biết rõ nơi nào nên tới lui, hoặc không nên tới lui
[1], cũng đều nương theo người thông hiểu "giới-luật "ấy.
Người mà
giữ giới trong sạch đáng làm nơi nương nhờ cho hàng Phật-tử mong tìm sự an vui,
thì hằng đượïc tươi tĩnh, nói năng trong khi hội họp, không chút chi e ngại.
Người trì-giới có thể cảm hóa kẻ nghịch trở thuận làm cho Phật-pháp được hưng
thạnh lâu dài.
Lại nữa
Giới-Luật có lợi-ích phát sanh "sự thu thúc" (Samvara).
Thu thúc
có lợi ích phát sanh sự "không bất bình "(Vipatisàra).
Không
bất-bình có lợi ích phát sanh "sự thỏa thích" (Pàmojja).
Thỏa-thích có lợi ích phát sanh "sự no-lòng" (Pìti). [2]
No lòng
có lợi ích phát sanh "tâm yên lặng" (Passaddhi).
Yên-lặng
có lợi ích phát sanh "điều an-lạc" (Sukha).
An-lạc
có lợi ích phát sanh "thiền định" (Samàdhi).
Thiền
định có lợi ích phát sanh "sự hiểu biết rõ cả pháp theo chơn lý"
(Yathàbhùtannànadassana).
Hiểu
biết rõ các pháp theo chơn-lý có lợi-ích phát sanh "sự chán nản đối với chúng
sanh và vật" (Nibbidà).
Chán-nản
trong chúng sanh và vật có lợi ích phát sanh "sự xa lìa tình-dục" (Viraga).
Xa lìa
tình-dục có lợi-ích phát sanh "sự giải thoát khỏi phiền não" (Vimutti).
Giải
thoát khỏi phiền não có lợi-ích phát sanh "sự hiểu biết rõ rằng được giải-thoát"
(Vimuttinànadassana).
Hiểu
biết rõ rằng được giải-thoát có lợi ích phát sanh "sự dứt khổ vì hết cố chấp"
(Anupàdàparinibbàna).
Quả báo
mà phải được theo thứ tự ấy, đều do sự trì giới-luật cả.
Cớ ấy,
hành giả muốn được an-vui tuyệt đối ở cảnh Niết-bàn, chỉ nên tinh tấn vâng giữ
giới luật và hết lòng thực hành theo cho chín chắn ắt được như nguyện chẳng sai.
Mong sao
cho tất cả thân quyến chúng ta trong vũ-trụ được an vui lâu dài, sớm mau hồi đầu
hướng-thiện qui y Tam-bảo, thọ-trì giới luật, một lòng bất-thối, để tiến bộ trên
đường giải thoát, đạt đến Niết bàn ngỏ hưởng điều an-vui bất-diệt.
Mong thay
Bhikkhu Vansarakkhita (Tỳ-khưu Hộ-Tông).
PL 2510 - TL 1966
[l] Không nên đi đến nhà điếm, nhà đàn bà góa,
nhà gái lỗi thời, bộ-nấp, chỗ tỳ khưu-ni, chỗ bán rượu
[2] Thỏa thích rồi không biết đói gọi là "no lòng".
-ooOoo-
DẪN-TÍCH
^
Giải về:
Nhân quả của sự Trì giới
Từ xưa
đến nay, các bậc trí-tuệ hằng thỏa-thích trong sự tiếp dẫn người đời, lánh dữ
làm lành, hầu thọ hưởng những hạnh phúc lớn lao và làm cho sự sống của mình đạt
điều lợi ích. Hạng người như thế, đều là bậc cao đẳng, thường dứt bỏ gia-tài,
danh-vọng và sự vui sướng trong ngủ-trần, xuất gia tu-hành để dạy bảo người đời
noi theo chánh pháp mà tự mình đã giác ngộ. Ðến khi có nhiều người sùng bái
qui-y, thì được tôn làm "Giáo chủ", lời dạy bảo của bậc "Giáo-chủ", ấy mà thiên
hạ tôn ngưỡng thực hành theo, gọi là "tôn-giáo".
Tôn-giáo
của Ðức Chánh-biến-tri mà được thạnh-hành đến ngày nay là vì ngài giáng sanh nơi
nhà vua, dòng Thích-ca tại xứ Trung-Ấn Ðộ, tên ngài là "Sĩ-đạt-ta"
(Silddhattha), phụ vương ngài là vua "Tịnh-phạn-vương" (Suddhodana) trị vì trong
xứ "Ca-tỳ-la-vệ "(Kapilavatthu), mẫu hậu ngài là bà "Mada hoàng-hậu"
(Mahàmayàdevi). Khi mới sanh ngài ra, có thầy xem tướng tiên đoán rằng: "Nếu
ngài ở thế thì sẽ được làm Chuyển-luân-vương, bằng đi tu ắt làm một giáo-chủ
trong thế gian". Khi ngài được 16 tuổi, phụ-vương ngài truyền ngôi cho làm chúa
trong nước, hoàng-hậu của ngài là bà Bambà.
Làm vua
13 năm, được 29 tuổi ngài bỏ ngôi, xuất-gia đi ẩn tu nơi rừng núi, nhằm ngày mà
thái-tử (Rahulà) là con ngài mới ra đời. Xuất-gia rồi, Ngài hằng tinh-tấn tu
khổ-hạnh, tìm được vô-thượng chánh-đẳng chánh giác, hết 6 năm mới được giác-ngộ,
rồi ngài ngự đến các nơi để tùy duyên hóa-độ chúng-sanh thoát khỏi vòng khổ ải
đến 80 tuổi rồi nhập Niết-bàn.
Pháp và
Luật mà ngài đã giảng giải gọi là "Phật-giáo", những người tu theo "Phật giáo"
gọi là "Phật-tử ".
Các
Phật-tử ấy chia ra làm 4 hạng người là: tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, thiện-nam, tín- nữ.
Trong 4 hạng người ấy, các vị tỳ-khưu mà được thọ cụ-túc giới đầu tiên hết là
nhóm 5 tỳ-khưu "A-nhã Kiều Trần Như" (Annakondanna).
Ðầu
tiên, Phật-pháp còn mới, có ít tỳ-khưu, giới-luật là điều nâng-đỡ Chư-tăng không
cần phải có nhiều. Các vị Thinh-văn ấy đều là bậc A-la hán tâm-tánh trong sạch,
các ngài thấu rõ Phật-pháp đều đủ và tôn-ngưỡng thật hành theo lý Trung đạo mà
Ðức Giáo-chủ đã giải bày.
Ðến khi
Phật-giáo ngày càng thạnh-hành dần dần, số tỳ-khưu càng tăng trưởng rồi ở riêng
theo phe, theo đảng. Có hạng tỳ-khưu không được trong sạch, tu hành không đúng
đắn, cho nên đức Phật mới chế ra điều học.
-ooOoo-
LỢI ÍCH CỦA SỰ TRÌ LUẬT
^
Lẽ
thường, loài người trong thế-gian, ở theo phe, theo đảng, không sao ở cho vừa ý
nhau được, nhơn tâm mỗi người mỗi khác, sức không đồng nhau: người có sức lực,
cộc-cằn thì hà-hiếp, kẻ yếu-đuối nhu nhược phải chịu khổ không được an-vui.
Các đức
vua trong nước hằng ngự chế hình-luật để ngăn-cấm quốc-dân không cho làm điều
hung dữ. Nếu có kẻ phạm nhằm quốc-cấm, sẽ bị nhà vua trừng phạt. Ðức vua cũng có
ra lịnh khuyên làm những việc lành cho chúng dân được an cư lạc-nghiệp. Cho đến
quân-lính cũng có pháp-luật dạy răn mới có trật-tự nghiêm trang được.
Dầu
trong mỗi gia tộc, cũng có phương pháp riêng để cho thân quyến hành theo mới có
thể ở yên dễ dàng được
Về phần
người xuất-gia trong Phật-pháp cũng phải có phép để ngăn ngừa thân khẩu không
cho làm dữ, cho tâm được trong sạch. Ðức Thích-ca-mâu-ni là giáo-chủ của chúng
ta, Ngài là bậc pháp-vương tiếp độ các hàng Phật-tử và là cha lành của Chư-Tăng,
Ngài hằng giáo-dục và chăm-nom sự quấy phải của Giáo hội.
Ngài làm
hướng đạo cho 2 điều:
l) Ngài
chế điều-học để ngăn-ngừa, không cho hàng "Phật tử "làm quấy. Nếu tỳ-khưu làm
sái phép, Ngài ra lịnh rằng: "phạm tội nặng, hoặc tội nhẹ để răn mình chừa cải,
luôn đến Chư-tăng cũng vậy".
2) Ngài
dạy làm sự phải, cho chư tỳ-khưu trau dồi thân khẩu được trang nghiêm, theo các
bậc hiền-triết, như các vị đế-vương trong nước, ngự chế răn cấm quốc-dân không
cho làm dữ, dạy phải làm lành, hoặc như cha lành làm chủ trong gia-tộc, chỉ dẫn
con cháu ăn ngay ở thật, theo thứ tự trong họ-hàng.
Pháp mà
đức Phật cấm-chế và cho phép, dạy hàng Phật-tử lánh dữ làm lành hiệp lại gọi là
"Luật" nghĩa là pháp-tắc để trao dồi thân khẩu cho trang-nghiêm.
Pháp-luật ví như soi chỉ xỏ bông làm tràng-hoa, người mà đã xuất-gia theo
Phật-pháp như hoa có màu sắc khác nhau, sợi chỉ có thể làm cho hoa đều đặn, cho
có màu tươi tốt, liền-lạc, không cho bời-rời, cũng như "Tạng-Luật" có thể làm
cho tỳ-khưu "Tăng" có cách-thức đẹp đẽ, không vụng-về.
Trong
những hạng người tu theo Phật-pháp làm Tỳ-khưu hoặc Sa-di chẳng phải do một nhà
hoặc một họ mà đến, đều là người người khác dòng khác giống, không đồng bậc (bực
cao, bực trung hoặc bực thấp). Có người khác nước, khác tiếng nói, khác xứ sở
cho nên có thói quen khác nhau. Nếu không có Tạng-luật làm mực thước hoặc có mà
Tỳ-khưu, Sa-di không học cho hiểu biết, hoặc đã hiểu biết mà không hành theo, ắt
thân khẩu và tư cách hành-vi không sao tề-chỉnh, không đáng là ruộng phước của
người đời, không làm cho người chưa tin, được tin, người đã tin càng thêm tin.
Nếu các
Tỳ-khưu Sa-di hòa-hảo nhau, thỏa-thích nhau, không cố chấp theo phe, theo đảng,
không cãi lẽ nhau, hiệp nhứt nhau như nước lộn với sữa, liếc xem nhau bằng cặp
mắt từ-bi, khuyên nhau tôn-trọng, thực hành theo giới luật đều đủ, không dư
thiếu, mới làm cho phần đông người phát lòng tín-ngưỡng, như các thứ hoa trong
vườn có sắc tốt và mùi thơm khác nhau mà người bẻ đem để chung trong bình bông,
không thứ lớp, không có mẹo-mực thành ra vật không đáng thỏa thích. Nếu người bó
hoa có trí, lành nghề, họ lấy các thứ hoa như thế đơm cho đều-dặn theo cách thức
rồi để trong bình, hoa ấy sẽ thành vật đẹp xem không mỏi mắt. Không cần nói đến
hoa đẹp, dầu hoa không đẹp cũng dễ coi, nhờ có mẹo mực làm cho ra vật đẹp được
Ðức
Thiên-nhân-Sư là Ðấng giáo chủ của chúng ta, Ngài thấy điều lợi-ích như thế, cho
nên chế ra "Tạng Luật" cho chư Phật-tử hành theo hầu được sự an vui sự tiến-hóa
trong đời này và đời sau.
--- o0o ---
Mục
Lục
-
01
- 02
-03
- 04
- 05 -
06 - 07
- 08
-09
- 10
-11
--- o0o ---
Source:
BuddhaSasana website (
By Binh Anson)
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-11-2002