Bhàsitamitam
tena bhagavatà jànatà passatà ahetà sammàsambuddhena
Ðức Thế Tôn đã hiểu,
ngài là bậc Chánh đẳng chánh giác có giảng thuyết rằng:
Sampannasìlà
bhikkhave viharatha sampannappàtimokkhà
Này các thầy Tỳ-khưu!
các thầy hãy là người có giới đầy đủ, có Pàtimokkha [*] ấy đủ
rồi ở yên đi.
[*] Tàu âm là
Ba-la-đề-mộc-xoa, pháp diễn mà người đã thọ đúng đắn rồi hằng
làm cho người thoát khỏi 4 ác đạo.
Pàtimokkha
samvaravuto viharatha àcàraga càra sampanno
Hãy là người thu thúc
bằng sự kiềm chế trong pàtimokkha, đầy đủ hạnh kiểm và nơi vãng
lai thích hợp.
Anumattesu
vajjesu bhayadassàvì samàdàya sikkhàttha sikkhàpadesùti
Hãy là người thường thấy
sự lo sợ tội lỗi dù là nhỏ nhen chút ít, rồi nghiêm trì các điều
học (sikkhàpada).
Tasmàtihamhehi
sikkhitabbam
Vì thế, chúng ta là hàng
xuất gia trong Phật giáo nên học hành rằng:
Sampamasìlà
viharissàma sampannappàtimokkhà
Chúng ta là người có
giới đầy đủ, có Pàtimokkha đầy đủ rồi ở yên.
Pàtimokkhasam
varasamvutà vihàrissàma àcàra gocàrasampanno
Chúng ta sẽ là người thu
thúc, kềm chế trong pàtimokkha, có đầy đủ hạnh kiểm và nơi vãng
lai thích hợp rồi ở yên.
Anumattesu
vajjesu bhayadassàvì samàdàya sikkhissàma sikkhàpadesùti
Chúng ta sẽ là người
thấy sự lo sợ, tự nhiên, trong tội nhỏ nhen chút ít, rồi nghiêm
trì các điều học.
Evanhino
sikkhitabbam
Chúng ta phải học hành
như vậy.
Pàtimokkha
visodhento appeva jìvitam jahe
Bậc xuất gia tín thực
khi đã trau giồi (tín
thực: tin chắc chắn).
Pàtimokkha
Thu thúc Giới, dám hy
sinh sanh mạng mình.
Pannattam
lokanathenana bhinde silasamvaram
Không phá thu thúc Giới
mà đấng Cứu thế chế ngự để lại đâu.
Kikìva andam
camarìva vàladhim
Chim Cà-cưỡng liều mình
cố giữ trứng nó, thú Camari (bò có lông đuôi dài ở Tây Tạng)
liều thân ráng giữ lông nó, thế nào.
Piyamvà puttam
nayanam và ekakam
Người cố chăm sóc con
một.
Taheva silam
anurakkhamànakà
Người chột mắt cố duy
trì mắt sáng thế nào, ta hãy thọ trì Giới của ta cho được, nhất
là như chim cà cưỡng vậy
Supesalà homa
sadà sagàravo
Cho được là người có
Giới là nơi thương yêu, có lễ phép đúng đắn và tôn kính mãi mãi.
Satthà
sàvakkànam sikkhapàdam pannapeti dasa atthavase paticca
Ðức Thầy chế ngự điều
học đến các thầy Thinh Văn vì 10 điều lợi ích là:
Sanghasutthutàya
1. cho có điều tuyệt hảo
đến Tăng.
Sanghaphàsuttàya
2. cho có sự an lạc đến
Tăng.
Dummankùnam
puggalànam niggahàya
3. để khiển trách kẻ
bướng bỉnh phá giới.
Pesalànam
bhikkhùnamphàsuvìhàya
4. cho có sự ở yên đến
chư Tỳ-khưu có giới là nơi thương mến.
Dittha
dhammikànam àsavànam samvaràya
5. để ngăn ngừa các lậu
phiền trong hiện tại.
Samparàyikànam
àsavànam patighàtàya
6. để đẩy lui những lậu
phiền não trong đời vị lai.
Appasannànam
pasàdàya
7. để kích thích những
người bất mãn, được tín ngưỡng.
Pasannànam
bhiyyo bhàvàya
8. khiến kẻ thích càng
tin chắc.
Saddhammatthitiyà
9. cho chánh pháp được
thêm kiên cố.
Vinayà nuggahàya
10. để hổ trợ tạng Luật.
Vinayamhi
mahatthesu
Pesalànam sukhàvaho
Niggahànanca papicche
Lajjìnam paggahesuca
Sàsamàdhàrane ceva
Sabbannuji nugocare
Anannavisaye khema
Suppannatte asamsaye
Khi tạng Luật có
đại lợi đem sự vui đến Tăng có giới đáng kính mến, khiển trách
nhóm Tỳ-khưu ham muốn xấu xa, nâng cao nhóm Tỳ-khưu có sự hổ
thẹn, có khí chất duy trì giáo pháp là nơi vãng lai của đấng
Chánh Biến Tri không thuộc quyền hạn của kẻ khác, là nơi yên
tâm; nghĩa là đức Thế Tôn đã chế ngự chân chánh không còn ngờ
được.
Khandhake vinaye
ceva parivàre ca màtike yathattakàri kusalo patipajjati yoniso
Bậc trí tuệ hay làm điều
lợí ích thích hợp hằng thực hành theo phương pháp trong thiên
Luật trong Parivàra và Màtika (một phần trong Luật) .
Pamutthami ca
suttante
Adhidhame ca tàvade
Vinaya avinatthamhi
Puna titthati sàsanam
Dù là tạng Kinh
và tạng Luận đã phá hủy mà tạng Luật chưa tiêu hoại, thì Phật
giáo vẫn tồn tại.
Ðức Chánh Biến
Tri có giảng thuyết về danh hiệu và cái pháp của Sa-môn rằng
"Samanà samanàti vo bhikkhave jano jano sanjànàti": này các
Tỳ-khưu, đại chúng hằng rõ danh hiệu của các ngươi rằng là
Sa-môn. Về phần các ngươi cũng vậy, khi có ai hỏi rằng, ông là
chi? Các ngươi cũng nhận rằng: Chúng tôi là Sa-môn".
Như vậy: Nếu các
ngươi có danh hiệu như thế và nhận mình đúng như vậy rồi biết
rằng:
Ye dhammà
samanakarànà brahmana karanà:
Các pháp nào làm cho thành Sa-môn và bà la môn, chúng ta sẽ thọ
trì những pháp đó.
Hành động như
thế, mới vừa sự nhận thức chơn chánh của chúng ta, theo lời họ
đã gọi thật.
Lại nữa, chúng
ta đã thọ dụng y, bát, thực phẫm, chỗ ngụ, thuốc mên của những
thí chủ nào thì cái nghiệp lành của họ sẽ sanh phước lớn, có
nhiều quả báo chẳng sai vậy, vì họ nương nhờ nơi chúng ta.
Hơn nữa, sự xuất
gia của chúng ta, chẳng phải là vô hiệu quả dầu pháp để tu hành
được nhiều phước báu thật.
Này các Tỳ-khưu!
Các ngươi cần biết mình như vậy, chẳng nên quên.
Ngài bèn giảng
tiếp 2 pháp trọng yếu nhất là: hổ thẹn (hiri) và ghê sợ
(ottappa) tội lỗi.
Rồi giải rằng:
Parisuddhi
kàyasamàcàra, parisuddhi vacìsamàcàra, parisuddhi manosamàcàra,
parisuddha àjìva, indriyasamvara bhojanamattannù jàgariyànuyoga,
satisampajanna: Sự nương
ngụ trong nơi thanh vắng, cách trau dồi cái tâm cho xa khỏi pháp
cái (nìvaranadhamma) rồi tập trung tinh thần cho trí tuệ thấy rõ
"Tứ Diệu đế". Tất cả pháp đó là pháp pháp của Sa-môn.
1) Hổ thẹn
(hiri) về sự xấu hổ đối với các pháp ác.
2) Ghê sợ
(ottappa) là nói về sự ghê sợ các tội lỗi.
Cả hai pháp
trên đây là quan trọng đặc biệt của Sa-môn, bằng không cũng
chẳng gọi là Sa-môn được. Có 2 pháp đó rồi, các đức tánh khác
mới có thể phát sanh lên được.
3) Thân trong
sạch đầy đủ (parisuddhi kaỳisamàcàra), chỉ về 3 nghiệp lành của
thân.
4) Khẩu trong
sạch đầy đủ (parisuddhi vacì samàcàra), chỉ về 4 nghiệp lành của
miệng.
5) Tâm trong
sạch đầy đủ (parisuddhimano samàcàra), chỉ về 3 nghiệp lành của
ý.
6) Sự nuôi mạng
trong sạch (parisuddha àjìva) tức là sự nuôi sống cho thanh cao
(xem trong Chánh mạng Thanh tịnh giới).
7) Lục căn thu
thúc (indriyasamàcàra) (xem trong Lục căn Thanh tịnh giới).
8) Biết tiết chế
trong thực phẩm (bhojanama tannù) chỉ biết về tiết độ trong sự
thọ thực (xem trong phép Quán tưởng thọ vật dụng Thanh tịnh
giới).
9) Tỉnh thức
thường thường (jàgariyànuyoga) là dạy phải thức nhiều ngủ ít.
10) Trí nhớ biết
mình (satisampajanna).
11) Sự nương ngụ
trong nơi thanh vắng. Nghĩa là sự trú ẩn trong rừng hoặc dưới
bóng cây hay là nơi tịnh thất vắng vẻ.
12) Sự trau dồi
cái tâm cho xa khỏi pháp triền cái, rồi chú tâm tham thiền.
13) Làm cho trí
tuệ thấy rõ pháp "Tứ điệu đế": là làm cho phát sanh sự thấy biết
rõ rệt cái khổ, nhân sanh khổ, sự diệt khổ, đạo diệt khổ (xem
trong Tứ diệu đế).
Tất cả các pháp
đó là pháp của Sa-môn cần phải có, bằng không, ắt sẽ sa vào
trong 4 ác đạo chẳng sai.
Ðức Thế Tôn
giảng thuyết về hàng Sa-môn và cái pháp của hàng Sa-môn như thế.
Người đã tự
nguyện xuất gia hoặc Sa-môn phải chú tâm rằng "Ta là bậc xuất
gia hoặc Sa-môn rồi, cần gìn giữ đức tín thanh cao vừa theo cái
tướng mạo của người xuất gia hoặc Sa-môn mới được". Hay quán
tưởng theo Phật ngôn rằng: "Bây giờ đây ta có tướng mạo khác hơn
kẻ thế, nhất là cách thức hành động của Sa-môn thế nào, ta cần
phải làm theo, không nên sai suyển". Bậc xuất gia ví như người
thương mãi, buôn bán muốn được lợi, nếu hành đúng cách, mới được
lời nhiều, bằng làm sái ắt phải lỗ vốn. Vì thế đức Phật có giảng
về pháp đè nén cái tâm của người xuất gia như vầy:
Kusoyathà
duggahito hatthamevà nukantati sàmannam dupparamattham
niràyàyùpakadhati yamkinci sithilam kammam samkilitthanca
yamvattam sankassaram brhmacariyam natamhoti mahapphalam kayirà
ce kayiràthenam dalhamenam parakkame sithilo hi paribhajo bhiyyo
akirate rajam
Lẽ thường, cỏ
tranh mà người không khéo lắm, kéo ngược trở lại ắt phải đứt
tay, thế nào, sự xuất gia của hành giả, tu không chơn chánh, sái
pháp luật, hằng lôi kéo họ sa trong địa ngục, cũng như thế ấy.
Người mặc y
vàng, song không thu thúc theo pháp của Sa-môn, cũng không khỏi
sa địa ngục, như Phật ngôn rằng:
Kàvàvakanthà
bahavo pàpadhammà asannatà pàpà papehi kammehi nirayam te
upapajjare.
Phần đông người
có áo cà sa dính cổ, tức là mặc y vàng, song là kẻ có pháp xấu
xa, không thu thúc theo pháp của Sa-môn, thường phải bị đọa
trong cảnh địa ngục, do các nghiệp xấu của họ đã tạo. Lại nữa,
người xuất gia đã phá giới, rồi thọ thực của thí chủ dâng cúng
bằng đức tin không nên đâu, ráng dùng cục sắt đương nóng còn
hơn, hiệp theo Phật ngôn rằng:
Seyyo ayogulo
bhutto tatto aggisikhù pamo yance bhunjeyya dussìlo rattha
pindam asannato.
Người xuất gia
phá giới, là người không thu thúc mà cũng dùng vắt cơm của kẻ
thế chẳng dễ đâu, ráng ăn cục sắt đương nóng còn hơn.
Ðức Phật đã
giảng thuyết chỉ rõ tội khổ của bậc xuất gia và Sa-môn không trú
trong pháp của họ, như những qui tắc đã giải.
1) Bậc xuất gia
nên quán tưởng thường rằng: Bây giờ ta đã có tướng mạo khác hơn
kẻ thế, nghĩa vụ nào của Sa-môn ta phải làm cho tròn.
2) Bậc xuất gia
nên quán tưởng thường thường rằng: Sự nuôi sanh mạng của ta
nương nơi kẻ khác, ta cần phải làm cho người cấp dưỡng dễ dàng.
3) Bậc xuất gia
nên quán tưởng thường thường rằng: sự làm cho thân khẩu thêm
chơn chánh, vẫn còn nữa chẳng phải chỉ có bấy nhiêu.
4) Bậc xuất gia
nên quán tưởng thường thường rằng: tâm ta không tự chê bai ta vì
Giới không đầy đủ chăng?
5) Bậc xuất gia
nên quán tưởng thường thường rằng: hàng trí tuệ đã xem xét rồi,
họ không khiển trách ta vì Giới không đầy đủ chăng?
6) Bậc xuất gia
nên quán tưởng thường thường rằng: ta phải chia lìa sự vật mà ta
thương yêu vừa lòng, không sao tránh khỏi được.
7) Bậc xuất gia
nên quán tưởng thường thường rằng: ta có cái nghiệp của ta, ta
làm lành thì được vui, gây dữ thì chịu khổ.
8) Bậc xuất gia
nên quán tưởng thường thường rằng: ngày và đêm hằng qua mau lẹ,
bây giờ đây ta làm được cái chi chăng?
9) Bậc xuất gia
nên quán tưởng thường thường rằng: ta có ưa thích trong nơi
thanh vắng chăng?
10) Bậc xuất gia
nên quán tưởng thường thường rằng: ta có các đức cao quí chăng?
Khi có bậc phạm hạnh để hỏi ta trong giờ cuối cùng, ta sẽ không
hổ thẹn chăng?
Mười pháp mà các
bậc xuất gia nên quán tưởng thường thường đó gọi là Thập pháp
(dasadhamma), song dịch như trên đó, mới thật đúng lý. Người tu
học cần phải hiểu rằng Thập pháp là pháp dành cho hàng xuất gia,
tuy nhiên như đã có giải, điều nào thuộc về hàng xuất gia, điều
ấy người cư sĩ hành theo cũng được.
Trong 10 pháp đó
nên hiểu như vầy:
1- Dạy phải
quán tưởng về tướng mạo.
2- Dạy phải quán tưởng về chánh mạng.
3- Dạy phải quán tưởng về hành động.
4 & 5 - Dạy phải quán tưởng về qui tắc.
6 & 7 - Dạy phải quán tưởng về luật tự nhiên
8- Dạy phải quán tưởng về thời gian.
9- Dạy phải quán tưởng về chỗ ngụ.
10- Dạy phải quán tưởng về đức hạnh cao quí.
Về phước báu
trong quán tưởng có chia ra làm 2 là: Phần riêng và chung.
Giải về phần
riêng của mỗi phần trước.
1) Giải về
phương tiện phát sanh sự hổ thẹn (hiri) và ghê sợ (ottappa) tội
lỗi, để thực hành cho vừa với bổn phận của người xuất gia, nghĩa
là điều nào không đúng quy tắc của bậc xuất gia thì phải chừa
bỏ, nhất là phải hành những pháp chơn chánh, như là trì Giới,
cho thân khẩu trong sạch, tu Định cho tâm yên lặng, hành Tuệ cho
thấy rõ chánh tà. Phải cần kíp làm cho tròn nghĩa vụ.
2) Khi đã quán
tưởng như vậy thì sẽ được 2 điều lợi ích:
- được làm
tròn phận sự đối với người cấp dưỡng.
- sẽ có sự hành động cho họ dễ nuôi, nghĩa là làm cho mình
thành người biết đủ (sandona), thọ 4 vật dụng tùy có tùy được.
Họ cho vật chi thì vừa lòng với vật ấy không được chọn tốt,
xấu, ngon, dỡ.
3) Bậc xuất gia
chưa chứng đạo quả, là đức hạnh cuối cùng trong Phật giáo gọi là
còn phận sự phải hành, nghĩa là phải tu tập cho thanh cao hơn
nữa, cần phải học những điều chưa biết, thực hành những điều đã
biết. Khi đã trì giới được trong sạch thì cần tu Thiền thêm lên,
cho trí tuệ phát sanh để đắc đạo quả Niết Bàn là mục đích tối
cao của Phật Giáo. Nếu bậc xuất gia được biết mình như vậy, thì
hằng có sự lợi ích, để tự hóa trở thành nên bậc cao nhân. Nếu
lầm tưởng rằng: Mình là đủ, không cần tu tập nữa, vừa lòng với
bấy nhiêu thì không cần mẫn hành bậc cao mà mình chưa chưa đắc.
Như thế, bậc xuất gia vẫn còn mắc trong vòng phàm tục và phải bị
luật vô thường chi phối, sa vào 4 ác đạo chẳng sai. Nếu hành giả
hằng quán tưởng biết mình như thế ắt sẽ tinh tấn tu hành thêm
lên.
4 và 5) Bậc xuất
gia quán tưởng hiểu rõ trong điều thứ tư và điều thư năm như vậy
rồi, sẽ thấy mình chưa toàn thiện thì phát tâm cố gắng tu trì,
không để, không để mình tự chê trách mình được. Nhưng lẽ thường
phàm nhơn hiếm có người đọc biết chân chánh như thế .Vì vậy, có
lúc làm sai mà họ cho là phải, có khi hành chánh mà họ cho là
tà.
Cho nên có Phật
ngôn rằng: "Tội mình khó biết, lỗi người dễ xem!" Nhân đó, đức
Phật dạy phải luôn luôn quán tưởng những điều trên đây, cho phát
sanh trí nhớ.
6) Đã thường
quán tưởng điều này, thì sẽ rõ sự chia lìa do 2 lẽ là:
- Các sự vật
mà ta thương yêu vừa lòng, nó sẽ lìa ta khi ta còn sanh tiền
cũng có.
- Trong giờ mạng chung, ta phải bỏ nó cũng có, đó là lẽ tự
nhiên không sao tránh được.
Khi thấy rõ 2
pháp trên rồi, mình được 3 điều lợi ích:
- Dứt tâm bất
bình nóng giận, khi gặp sự vật đáng ghét bỏ
- Ngăn tâm không cho buồn rầu thương tiếc, lúc ly biệt sự vật
thương yêu.
- Kiềm chế tâm ham muốn, sự vật của mình để tránh tà mạng gây
ra các nghiệp ác.
Ðó là 3 điều lợi
ích mà bậc xuất gia nhờ sự quán tưởng thường thường mới thấy rõ
được.
7) Trong điều
này nên hiểu câu "Ta có cái nghiệp của ta" rằng: Mọi người trong
mỗi kiếp đều có tạo nghiệp, không dữ thì lành, chẳng tốt thì
xấu, không có ai tránh khỏi, cho nên gọi là "Ta có cái nghiệp
của ta". Lại nữa, nếu làm lành thì được vui, làm dữ thì chịu
khổ. Cớ ấy sự quán tưởng trong điều thứ 7 mới có lợi ích, không
cho làm ác, chỉ tạo việc lành, vì hiểu rõ quả báo của nghiệp.
8) Đức Phật có
khuyên các Tỳ-khưu cần phải biết thời gian qua rồi, chẳng khi
nào trở lại. Nên hiểu rõ chơn chánh rằnh: Nó chỉ thoáng qua mau
lẹ, nếu không thì hằng để cho ngày giờ trãi qua vô ích, sẽ có
điều hối hận ăn năn. Có Phật ngôn rằng
"Những người còn trai tráng, có
tánh thông minh mà lười biếng không chuyên cần làm các công việc
thì khó gặp được xuất thế bằng "Trí tuệ".
Lời Phật dạy đây
để tỉnh thức họ cho tinh tấn trong niên cấp còn khỏe mạnh, cho
sự tu hành mau được tấn hoá trong 2 phương diện đời và đạo, sự
quán tưởng thường thường trong điều này, hằng đem lại hạnh phúc
yên vui cho mình chẳng sai.
9) khi đã quán
tưởng thường thường thì có sự tĩnh tâm vừa lòng trong nơi thanh
vắng, lìa xa bè đảng bàu bạn, ưa thích trong nơi yên lặng, để
tham thiền cho tâm an trụ, rồi suy xét điều chi cũng được chân
chánh rõ rệt, không có trở ngại và bậc tu thượng được dễ dàng.
10) giải rằng: -
"Các đức tính cao quí chỉ về tâm thiền định hoặc giải thoát".
Nếu đã quán tưởng thường như thế thì được tĩnh tâm, không hề vừa
lòng với các hạnh phúc nhỏ nhen bực hạ, tinh tấn trong đức tánh
cao thượng theo thứ tự.
Về phước báu
trong cách quán tưởng 10 điều đó, hằng đem lại sự yên tĩnh cho
tâm, để tiến bộ trong chánh pháp, tu giới, định, tuệ cho càng
tăng trưởng thanh cao. Nói tóm lại, sẽ được mãn nguyện trong 2
đường: đời và đạo xuất thế, chứng quả Niết bàn là mục đích cứu
cánh của Phật giáo.
-ooOoo-
1) Tỳ-khưu có 5
chi hằng sa địa ngục (chi: cái duyên ở một thể chia ra):
Tỳ-khưu tư vị
vì thương .
Tỳ-khưu tư vị vì ghét.
Tỳ-khưu tư vị vì dốt nát.
Tỳ-khưu tư vị vì sợ.
Tỳ-khưu dùng của Tăng như của mình.
2) Tỳ-khưu có đủ
4 chi mới đáng gọi là Tỳ-khưu:
Phải hằng niệm
tưởng đức của Phật.
phải hằng có tâm bác ái (mettà).
phải hằng tham thiền đối tưởng tử thi (asubha).
phải hằng niện tưởng sự chết (maranasati).
3) Sa-môn có đủ
4 chi mới gọi là Sa-môn:
phải có tâm
nhẫn nại.
Phải thận trọng trong việc phước đức.
Phải dứt bỏ lợi danh và phiền não.
Không bận lòng về thế sự.
4) Người sớm tới
đi vào địa ngục có 3 hạng:
người không
phải hành đạo cao thượng mà tư xưng là hành đạo cao thượng.
Người cáo gian bậc phạm hạnh.
Người nói ngũ dục không có tội, rồi thọ dụng ngũ dục.
5) Lời nói cao
thượng có 4:
Không thấy,
nói không thấy.
Không nghe, nói không nghe.
Nói không trúng, nói rằng Nói không trúng
Không biết rõ rệt, nói rằng Không biết rõ rệt
6) Tỳ-khưu có
giới đáng tôn kính có 4 chi:
không tư vị vì
thương.
không tư vị vì ghét.
không tư vị vì si mê.
không tư vị vì sợ.
7) đệ tử đối với
thầy có 5 pháp:
Phải hết lòng
thương yêu thầy.
Phải hết lòng tinh tấn thực thà.
Phải hết lòng hỗ thẹn tội lỗi.
Phải hết lòng tôn trọng thầy.
Phải hết lòng nhớ tưởng thầy.
8) Thầy đáng cho
đệ tử nương tựa có 7 pháp:
Phải có tâm
bác ái bình đẳng.
Phải có giới tinh nghiêm.
Ðáng cho trò tôn trọng.
Phải nhẫn nại, khi trò bất bình, biết tùy cơ cảm hoá trò.
Phải biết đạo lý cao siêu và biết giảng giải theo sức trò.
Phải ngăn trò không cho làm điều vô ích tội lỗi.
Phải tìm phương pháp để chỉ dẫn trò cho mau tiến hoá.
9) Bậc minh tuệ
có 4 chi (pandità) là bậc đáng nương tựa:
Biết ơn người
đã làm đến mình (katannù).
Biết làm cho mình được trong sạch (attasuddhi).
Biết làm cho người được trong sạch (para suddhi).
Tế độ người tế độ (sangaho).
10) Bậc tịnh giả
(thiện trí thức) có 7 chi:
Biết nhân.
Biết quả.
Biết mình.
Biết tiết độ.
Biết thì giờ.
Biết nơi hội hợp.
Biết người.
Ba bậc trên đây
(8, 9,.10) là hạng người đáng nương tựa, thân cận thì sẽ được
hưởng thụ 4 quả báu:
Hằng làm cho
giới được tăng tiến cao thượng.
Hằng làm cho định được tăng tiến cao thượng.
Hằng làm cho tuệ được tăng tiến cao thượng.
Hằng làm cho sự giải thoát được tăng tiến cao thượng.
TỲ-KHƯU CÓ 7
PHÁP HÀNG PHẠM HẠNH THƯƠNG MẾN
Không mong
được lợi.
Không mong được danh giá .
Không ngã chấp.
Hỗ thẹn tội lỗi.
Ghê sợ tội lỗi.
Không ganh tỵ.
Không bỏn xẻn (đáng thân cận).
TỲ-KHƯU CÓ 7
PHÁP KHÔNG ÐÁNG CHO HÀNG PHẠM HẠNH THƯƠNG MẾN.
mong được lợi.
mong được danh giá .
ngã chấp.
không thẹn tội lỗi.
không ghê sợ tội lỗi.
ganh tỵ.
bón rít (không nên gần gũi).
SÁU ÐẶC TÍNH CỦA
KẺ SI MÊ
Mong được
người ca tụng.
Mong được đứng đầu trong hàng Tỳ-khưu .
Mong được làm cả trong chùa .
Mong được thiện tín cúng dường .
Mong được ưa thích, việc của kẻ khác làm mà nói là của mình .
Mong được kẻ khác dưới quyền mình trong tất cả mọi việc.
Những kẻ có đặc
tính như thế là người hèn hạ không nên thân cận
SÁU HẠNG XUẤT
GIA
xuất gia của
người dốt nát.
Xuất gia của người hay giận.
xuất gia của người chơi giỡn.
xuất gia của người thu góp của cải.
xuất gia của người để nuôi sống.
xuất gia của người muốn được thoát khổ.
(chỉ có hạng
người xuất gia thứ 6 mới gọi là chơn chánh.).