Patidesaniya
nghĩa là tội mà Tỳ-khưu phải sám hối bằng cách khác (có giải
trong chương sau).
1) Tự tay mình
thọ lãnh (hatthatopatiggahana).
Tỳ-khưu tự tay
mình thọ lãnh vật thực nơi tay Tỳ-khưu ni không phải bà con,
phạm Ưng phát lộ.
Ðiều học này đức
Phật cấm chế tại Kỳ viên tịnh xá (Vihàra Jetavana) gần thành Xá
Vệ (Sàvatthi) do 1 Tỳ-khưu thọ vật thực nơi tay Tỳ-khưu ni đi
bát dâng cho đến 4 ngày, làm cho Tỳ-khưu ni ấy phải nhịn đói,
mình gầy sức yếu.
2) Ðương ăn
trong chỗ họ thỉnh mời (kulesunimantità).
Tỳ-khưu đang ăn
trong chỗ họ thỉnh mời, nếu có Tỳ-khưu ni đến dạy thí chủ đem
vật này, vật kia đem đến dâng đến Tỳ-khưu ấy, vì lòng thương yêu
trọng đãi Tỳ-khưu, nên đuổi Tỳ-khưu ni ra khỏi, nếu không đuổi
phạm Ưng phát lộ.
Ðiều học này đức
Phật cấm chế tại Kỳ viên tịnh xá (Vihàra Jetavana) gần thành Xá
Vệ (Sàvatthi) do phe Lục sư được mời thỉnh ăn, có phe sau
Tỳ-khưu ni đến dạy thí chủ dâng vật này, vật nọ đến phe Lục sư,
lục sư nhờ đó mà ăn no. Các vị khác phải chịu nhịn.
3) Bậc thánh mà
Tăng đã chỉ định (Sekkhasammata).
Bậc thánh nhơn
nào mà Tăng đã chỉ lịnh định là bậc có đức tin nhiều mà nghèo,
nếu Tỳ-khưu không bịnh, không được thỉnh mà thọ vật thực nơi ấy
đem về dùng, phạm Ưng phát lộ.
Ðiều học này đức
Phật cấm chế tại Trúc Lâmtịnh xá (Velivana) gần thành Vương xá
(Ràjagaha) do chư sư thọ lãnh vật thực nơi bậc thánh nhơn mà
nghèo, làm cho nhà ấy phải chịu đói khát.
4) Chỗ ở trong
rừng nguy hiểm (arannikasenàsana).
Chỗ ở trong rừng
là nơi xa xóm ít nhất là 1000 thước. Tỳ-khưu ngụ trong rừng là
nơi nguy hiểm có điều lo sợ, nếu không bịnh mà thọ lãnh vật thực
của thí chủ đã cho tin trước rằng "họ sẽ đến dâng vật thực trong
nơi ấy" và Tỳ-khưu không cho họ hay có sự nguy hiểm trong nơi
ấy, tự tay mình thọ lãnh đem dùng, phạm Ưng phát lộ.
Ðiều học này đức
Phật cấm chế tại Nigrodha tịnh xá, gần thành Ca tỳ la vệ
(Kapilavatthu) (dòng thích ca), do chư sư ngụ nơi rừng nguy
hiểm, có phe tín nữ vào trai Tăng bị bọn trai hung ác đón đường
cướp của và hãm dâm.
Thể thức không
phạm tội:
Tỳ-khưu cho hay
sự nguy hiểm ấy mà tưởng là chưa cho hay, hoặc nghi, hoặc tưởng
đã có cho hay rồi, có bịnh, thọ lãnh vật thực của thì chủ dâng
đến mà mình đã cho hay trước, hoặc dùng vật thực dư của Tỳ-khưu
bịnh, hoặc dùng củ, trái cây mà mình được thọ lãnh ngoài chùa,
và Tỳ-khưu điên đều không phạm tội.
Ðiều học này có
7 chi:
- Chỗ ngụ
trong rừng như đã nói (yacàvutta àrannika senàsakatà).
- Vật thực không phải phát sinh trong nơi ấy (yàvakàlikassa
attatthajàtakatà).
- Không có bịnh (agilànatà).
- Vật thực không phải của dư của Tỳ-khưu bịnh
(agilànàvasesakatà).
- Không cho hay (appatisam viditata
- Thọ lãnh trong chùa (ajjhàràme patiggahanam).
- Ðã ăn vào (ajjhoharanam).
Ðều đủ cả 7 chi
ấy mới phạm tội Ưng phát lộ.
Chỗ sanh tội
(samutthànavidhi) như trong điều học lễ dâng y lần thứ nhất
(pathamakathina sikkhàpada). Chỉ khác nhau là điều học này phạm
tội vì làm là thọ lãnh và vì không làm là không cho hay trước
(akiriỳa).
Nếu phạm 1 trong
4 tội Ưng phát lộ ấy nên sám hối như vầy:.
- Tôi đã phạm
phép đáng cho đức Phật chê trách là phạm Ưng phát lộ mà người
phạm cần phải bày tỏ ngay, tôi xin bày tỏ pháp ấy, còn lời xin
sám hối và lời thọ tiếp theo như lời sám hối trong các tội
khác.
Gàrayham
Bhante / Àvuso dhammam àpajjim asappàyam patidesa nìyam tam
patidesemi.
Nếu nhiều vị,
đọc "àpajjimhà" thế cho "àpajjim", "patidesama" thế cho
"patidesemi".
Ưng học pháp là
điều học mà Tỳ-khưu, Sa-di phải học và hành. chia làm 4 phần.
I. Mặc y cho
nghiệm trang, phần thứ, có 26 điều (sàrùpa).
II. Thọ thực cho tề chỉnh, phần thứ nhì, có 30 điều học
(bhojanapatisamyutta).
III. Thuyết pháp cho đúng phép, phần thứ ba, có 16 điều học
(dhammadesanàpatisamyutta).
IV. Lượm lặt, phần thứ tư có 3 điều (pakinnaka).
I. MẶC Y CHO
NGHIÊM TRANG - PHẦN THỨ NHẤT(SÀRUPA).
Có 26 điều học:
1) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: Ta phải mặc, đắp y cho kín mình
(parimandalanivàsana).
Ðiều học này đức
Phật cấm chế tại Kỳ viên tịnh xá (Vihàra Jetavana) gần thành Xá
Vệ (Sàvatthi) do phe Lục sư mặc y nội phía trước và phía sau
không đồng, làm cho thiên hạ chê trách.
Chú giải:
Phải mặc y nội phía trên cho kín rún, phía dưới từ đầu gối xuống
8 ngón tay như thế gọi là mặc kín mình. Nếu dễ đuôi, mặc phía
trước hoặc phía sau xệ xuống, phạm Tác ác.
Nếu phạm 1 trong
75 điều "ưng học pháp" gọi là phạm Tác ác cả, không cố ý, quên
không biết có bịnh, có điều rủi ro, và Tỳ-khưu điên đều không
phạm tội.
Không cố ý là:
Tính mặc cho kín mình thiệt mà quên, rồi mặc không kín như thế
gọi là: không cố ý không phạm tội . tâm tưởng nơi khác, rồi mặc
không kín như thế gọi là quên, vì "quên" nên không phạm tội.
Không biết mặc
áo cho kín như thế, gọi là không biết, không phạm tội như lệ
thường, Tỳ-khưu phải học hỏi trước, nếu không học hỏi trước, như
thế gọi là "dễ duôi", cũng không khỏi phạm Tác ác.
Tỳ-khưu nào, đầu
gối lớn, ống chân dài, mặc y phục xuống khỏi 8 ngón tay cho kín
cũng nên.
Tỳ-khưu nào có
ghẻ nơi đầu gối hoặc trong chân như thế gọi là có bịnh, mặc y
cao lên hoặc thấp xuống cũng nên.
Thú dữ rượt hoặc
bọn cướp đánh đuổi gọi là: có điều rủi ro. Trong khi rủi ro như
thế, không phạm.
Các nguyên nhân
không sanh tội nhất là: không cố ý như đã nói trên, cũng kể vào
trong tất cả điều học "ưng học pháp" sẽ giải ra phía sau, nơi
nào có chi khác nhau sẽ giải thêm trong điều ấy.
Trong tất cả
điều học ấy, đều không phạm tội vì bảo kẻ khác làm (anànattika).
Ðiều học này có
3 chi:
- Không đề đặt
cẩn thận (anàdasiyam);
- Không có nguyên nhân không phạm tội (anàpattikaranàbhàvo);
- Mặc không kín mình (aparimandalam nivàsanam).
Ðều đủ cả 3 chi
ấy mới phạm Tác ác .
Trong mỗi điều
học "Ưng học pháp" đều có 3 chi giống nhau như trong điều học
này. cho nên trong mấy điều học sau, không cần phải nói đến phần
chi phạm tội nữa.
Chỗ sanh tội sẽ
giải ra phía sau cuối cùng. Trong mỗi câu đầu của "Ưng học pháp"
không nói tên tội, chỉ có câu Tỳ-khưu nên làm như vầy: "điều đủ
cả điều học" (sikkhàkaranìyà). Biết rằng phạm tội Tác ác, vì
tiếng "không cẩn thận" mà làm thì phạm Tác ác. Cho nên phía sau
không cần phải nói tên tội nữa, cũng nên biết phạm tội vì không
cẩn thận.
2) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: Ta nên đắp y cho kín mình, mặc y vai trái phía dưới
từ đầu gối xuống khoảng 4 ngón tay, phía trên trùm cho kín cánh
chỏ tay trái (parimandala pàràpana).
3) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta nên trùm y cho kín mình khi đi vào khoảng nhà
(supaticchannoantaragharegamana).
4) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta nên trùm y cho kín mình khi ngồi trong khoảng
nhà (supaticchannoantaragharenisidana);
Vào ngụ trong
khoảng nhà dầu ngồi rồi ra y, mặc cho kín mình (như trong khi
ở trong chùa) trong lúc ban ngày hoặc ban đêm cũng không phạm
tội.
Tiếng
"vàsupagatassa" trong kinh chú giải rằng: "đi vào để ngụ,
nhưng không định ngụ đêm hay là ngụ đở". Có chỗ lại nói
"vàsupagato" nghĩa là đi vào ngụ đêm.
5) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta nên thu thúc cho chánh đáng là không nên múa tay
chơn, khi đi vào khoảng nhà (susamvuto antaraghare gamana).
6) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: Ta nên thu thúc cho chánh đáng là không nên múa tay
chơn, khi ngồi trong khoảng nhà (susamvuto antaraghare
nisìdana).
7) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: Ta nên ngó xuống là xem phía trước, xa 4 hắc khi đi
vào khoảng nhà (nghỉ đứng trong nơi nào rồi liếc xem để ngừa sự
rủi ro tai hại: như voi, ngựa, xe cũng nên)
(ukkhittacakkhuantaraghare gamana).
8) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta nên ngó xuống xa 4 hắc khi ngồi trong khoảng nhà
(ukkhittacakkhu antaraghare nisìdana).
9) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nên dỡ y lên, khi đi vào trong khoảng nhà,
dầu trong khi thọ thực cũng không nên dỡ y lên (na ukkhittakàya
antaraghare nisìdana).
10) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nên dỡ y lên, khi ngồi trong khoảng nhà
(na ukkhittakàya antaraghare nisìdana).
11) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: Ta không cười lớn tiếng khi đi vào khoảng nhà, dầu
có bịnh cũng không khỏi phạm tội (na ujjhaggikàya antaraghare
gamana).
12) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: Ta không cười lớn tiếng khi ngồi trong khoảng nhà.
Nếu có cớ nên cười, thì, mĩm cười, không phạm tội (na
ujjhaggikàya antaraghare nisìdana).
13) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: Ta nên nói nhỏ nhẹ khi đi vào khoảng nhà
(appasaddho antaraghare gamana).
14) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: Ta nên nói nhỏ nhẹ khi ngồi trong khoảng nhà
(appasaddho antaraghare nisìdana). nói nhỏ nhẹ là như nhà bề dài
12 hắc, đại đức (sư cả) ngồi đầu, vị thứ nhì ngồi giữa, vị thứ
ba ngồi sau chót.
nếu vị cả nói
với vị thứ nhì, vị này chưa đủ nghe rõ, còn vị thứ ba chỉ nghe
tiếng mà không phân biệt được lời lẽ chi của 2 vị ngồi trước,
như thế gọi là nói nhỏ nhẹ. Còn nói lớn tiếng là tiếng nói
nghe đến vị thứ ba phân biệt được sự lý, như thế gọi là lời
nói lớn.
Trong kinh Chú
giải nói: phân biệt tiếng nhỏ, tiếng lớn là tiếng nói thường
không nhỏ không lớn nhưng có người có tiếng lớn, có người có
tiếng nhỏ. Vậy nên nói tiếng thường làm mẫu.
15) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: Ta không uốn mình khi đi vào khoảng nhà
(nakàyappacàlakam antaragha renisìdana).
16) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: Ta không uốn mình khi khi ngồi trong khoảng nhà
(nakàyappacàlakam antaragha renisìdana).
17) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nên đánh đồng xa khi đi vào khoảng nhà
(nabàhuppalakaman antaragha gamana).
18) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nên uốn vai khi ngồi trong khoảng nhà
(nabàhuppacà lakaman antaragha renisìdana).
19) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nên lắc đầu khi đi vào khoảng nhà
(nasisappacà lakaman antaragha gamana).
20) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nên lắc đầu khi ngồi trong khoảng nhà
(nasisappacà lakam antaragha renisìdana). Nên ngồi cho thân thể,
tay chân ngay thẳng, trong khi ngồi trong khoảng nhà.
Trong 3 điều
học, nói về khi ngồi ấy, nếu vào ngụ đêm trong xóm, dầu uốn
mình, lắc đầu cũng không phạm tội.
21) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nên chống nạnh khi đi vào trong khoảng nhà
(nakhambhakato antaraghare gamana).
22) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nên chống nạnh khi ngồi trong khoảng nhà,
vào ngụ đêm chống nạnh không phạm tội (nakhambhakato antaragha
renisìdana).
23) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nên trùm đầu khi đi vào trong khoảng nhà
(na ogunthito antaraghare gamana).
24) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nên trùm đầu khi ngồi trong khoảng nhà (na
ogunthito antaraghare nisìdana).
25) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nên nhón gót khi đi vào trong khoảng nhà
(na ukkutikàya antaraghare gamana).
26) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nên ngồi khoanh tay choàng đầu gối khi
ngồi trong khoảng nhà ( napallathikàyan taraghare nisìdana), vào
ngụ đêm không phạm tội.
Trong cả 26 điều
này, Tỳ-khưu vì dễ duôi, cố ý làm sai luật cấm, phạm Tác ác.
Không cố ý,
quên, không biết, có sự tai hại và Tỳ-khưu bịnh, và Tỳ-khưu điên
đều không phạm tội.
II. THỌ THỰC CHO
CHỈNH TỀ - PHẦN THỨ NHÌ (Bhojanapatisamyutta).
Có 30 điều học:
1) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta nên chú ý thọ lãnh vật thực cho đúng phép, là
không làm như thế, lấy đem đi đổ bỏ, vì giận (sakkaccam
pindapàta patiggahana).
2) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: khi thọ thực ta chỉ nên ngó trong bát (pattasanni
pindapàta patiggahana).
3) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta chỉ nên thọ lãnh canh vừa với cơm (samasùpaka
pindapàta patiggahana).
4) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta chỉ nên thọ lãnh vật thực vừa miệng bát
(samatittika pindapàta patiggahana), dầu thọ lãnh vật
ajàmakàlika, sattàkakàlika hoặc yàvajìvika đầy tràn bát cũng
nên.
nếu thọ lãnh 2
bát nên thọ trước 1 bát rồi để vào nơi khác gởi về chùa, rồi
thọ thêm nữa, hoặc mía đã róc, chặt ra từng đoạn, hoặc trái
cây mà họ gói lại để lên bát, như thế nói là vun bát cũng
không đặng, cho nên thọ lãnh cũng nên.
Trong điều
này, dầu Tỳ-khưu đau thọ lãnh vật thực, vung tràn bát cũng
không khỏi tội.
5) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: Ta nên ăn cho chỉnh tề (sakkaccam pindapàta
bhunjana).
6) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: khi ăn ta chỉ nên ngó trong bát (pattasanni
pindapàta bhunjana).
7) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: Ta phải ăn vật thực cho đều, là không ăn sâu giữa
bát, hoặc đùn vun lên (sapadàna pindapàta bhunjana).
8) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta chỉ dùng canh cho vừa với cơm (samasùpaka
pindapàta bhunjana).
9) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nên đùa cơm vun lên giữa bát mà ăn
(nathùpikato omaddità pindapàta bhunjana).
10) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nên đùa cơm khuất lấp đồ ăn, cố ý muốn
được nhiều thêm nữa, dầu Tỳ-khưu bịnh cũng không khỏi phạm tội.
Nếu không cố ý
muốn được thêm mà đùa khuất vật thực không phạm tội
(nasùpamvàbyanjanam vàodane napaticchàdana).
11) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không bịnh không xin vật thực để ăn; xin nơi bà
con hoặc nơi người có yêu cầu, hoặc xin cho người khác không
phạm tội (sùpamvàbyanjanam vàodanam và agilànno attano atthàya
vinnàpetvà bhunjana).
12) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nên liếc xem bát vị khác, cố ý tìm lỗi
người, Tỳ-khưu bịnh cũng không khỏi phạm tội.
Liếc xem cố ý
cho thêm, hoặc không cố ý tìm lỗi không phạm tội (na ujjhàna
sanniparesam pattaolokana).
13) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không làm vắt cơm cho lớn quá bằng trứng ngỗng,
gọi là lớn quá, nhỏ bằng trứng gà gọi là nhỏ quá, nhỏ hơn trứng
ngỗng, lớn hơn trứng gà thì vừa (nàtimahan takavalakarana).
14) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta làm vắt cơm cho tròn không dài (parimandala
àlopakarana).
15) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: khi vắt cơm chưa đến miệng, ta không hả miệng chờ
(na anàhataka valemuhkadvà ravivarana).
16) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: trong khi ăn không nhét trọn bàn tay vào miệng
(nabhunjamà nosabbam hatthammukhe pakkhipana).
17) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nói chuyện khi vật thực còn trong miệng
(nasakavalena mukhenabỳaharana).
18) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không thảy vật thực vào miệng mà ăn
(napindukkhepakabhunjana).
19) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không cắn vắt cơm mà ăn
(nakavalàvaccedakabhunjana).
20) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không ăn độn cơm bên má như khỉ ăn (nà
avagandakàraka bhunjana).
21) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không búng rảy tay trong khi ăn (rảy rác được)
(nahatthaniddhunaka bhunjana).
22) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không làm cho cơm đổ, liệng, bỏ rác, có đổ cơm
không phạm tội (nasitthàvakàraka bhunjana).
23) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: trong khi ăn ta không le lưỡi ra khỏi miệng (na
jivchànicchà raka bhunjana).
24) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nên ăn và chắp (nacapucapukà raka
bhunjana).
25) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không dùng vật thực nghe tiếng rột rột
(nasurusurukà raka bhunjana).
Ðiều học này,
đức Phật cấm chế tại Ghosita tịnh xá, gần thành Kosambi, do 1
vị Tỳ-khưu nghe Tăng thọ sữa húp rột rột rồi diễu rằng: có lẽ
Tăng húp sữa cho nguội chăng?
26) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không ăn, liếm tay (nahatthanilehaka bhunjana).
27) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nên ăn liếm bát và vét bát (napattanille
haka bhunjana).
28) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không liếm môi trong khi ăn (na otthanille
napattanille haka bhunjana).
29) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không dùng tay còn dính vật thực, cầm đồ đựng
nước, tính đem rửa tay hoặc cho người khác rửa, cầm không phạm
tội. (nasàmi senahatthenapà nìyathàlakapatiggahana).
Ðiều học này
đức Phật cấm chế tại rừng Bhesakalà gần thành sumsumàratira,
do chư Tỳ-khưu tay còn dính cơm mà cầm đồ đựng nước bị thí chủ
chê trách.
30) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không đổ nước rửa bát còn hột cơm, trong khoảng
nhà. Nên lượm cơm cho nát rồi đổ, hoặc đổ trong ống nhổ, rồi đem
đi đổ hoặc đem đổ nơi khác, đều không phạm tội (nàsasittha
kampattadhovanaman taragharechaddana).
trong cả 30 điều
học này, Tỳ-khưu nào dễ duôi, cố ý, phạm Tác ác. Không cố ý,
không trí nhớ, không biết mình, có sự hại, và Tỳ-khưu điên đều
không phạm tội.
Tỳ-khưu bị bịnh
không phạm tội, trừ ra trong 4 điều học thọ vật thực đầy tràn
miệng bát, móc ăn giữa bát, đùa cơmlấp vật thực và liếc xem bát
Tỳ-khưu khác để tìm lỗi người, dầu Tỳ-khưu bịnh cũng không khỏi
phạm tội.
III. THUYẾT PHÁP
CHO ÐÚNG PHÉP PHẦN THỨ BA (dhammadesanàpatisamyutta).
Có 16 điều học:
1) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh, có dù trong
tay.
Chú giải:
Nếu người khác họ che cho, hoặc dù để trong mình cho vừa rảnh
tay cũng gọi là người không có dù trong tay, nói pháp đến
người ấy cũng nên (nachatta pànissagilànassadhammadesana).
2) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh, có gậy trong
tay (như trong điều học trên) (nadanda
pànissagilànassadhammadesana).
3) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh, có vật bén
(dao, gươm) trong tay (như trong điều học trên) (nasattha
pànissagilànassadhammadesana).
4) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh, có cung tên,
súng trong tay (àvudha pànissagilànassadhammadesana).
5) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh, có mang dép
guốc (napàdukàru dhassa gilànassadhammadesana).
6) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh, có mang giầy
da (naupàhanàarullhassaa gilànassadhammadesana).
7) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh, ngồi trên xe,
võng ... ngồi trên xe với nhau, nói pháp cũng được.
Tỳ-khưu ngồi
trên xe cao, người nghe ngồi xe thấp hoặc ngồi trên xe bằng
nhau, Tỳ-khưu ngồi xe trước, người nghe ngồi xe sau, đều nói
pháp được hết. Nhưng người ngồi xe sau, dầu cao hơn mà nói
pháp đến người ngồi xe trước không nên (naỳanaga tassa
gilànassadhammadesana).
8) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh, ngồi hoặc nằm
trên giường (nasayanaga tassa gilànassadhammadesana).
Tỳ-khưu nằm
nơi cao nói pháp đến người nằmnơi thấp cũng nên, người nằm nói
pháp đến người đứng, hoặc ngồi nói đến người đứng, hoặc ngồi
với nhau, hoặc đứng nói với người đứng đều được cả.
9) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh, ngồi khoanh
tay choàng qua đầu gối (napallatthikàyanisinnassa
agilànassadhammadesana).
10) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh, có bịt khăn
(navetthitasìsassa agilànassadhammadesana).
11) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh, đội khăn hoặc
nón (na ogunthitasisassa agilànassadhammadesana).
12) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không nói pháp đến người vô bịnh, ngồi trên
chiếu đệm (nachamàyamnisìditvà àsane nisinnassa
agilànassadhammadesana).
13) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không ngồi trên chỗ thấp nói pháp đến người vô
bịnh ngồi nơi cao (nanice àsanenisìditvà uce àsanenisinnassa
agilànassadhammadesana).
14) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không đứng nói pháp đến người vô bịnh ngồi
(nathito nisinnassa agilànassadhammadesana).
Trong kinh Chú
giải có nói, dầy Tỳ-khưu trẻ đến chỗ Tỳ-khưu cao hạ, rồi
Tỳ-khưu trẻ ấy đứng, vị trưởng ngồi hỏi đạo, Tỳ-khưu trẻ không
nên đáp. Nếu Tỳ-khưu trẻ không có thể bảo vị trưởng lão đứng
dậy mới nên hỏi,không dám nói, vì tôn kính vị trưởng lão, nên
nghĩ rằng; ta nói pháp đến Tỳ-khưu trẻ đứng gần bên, rồi nói
cũng nên.
15) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không đi phía sau nói pháp đến người vô bịnh đi
phía trước (napacchato gacchanto purato gacchantassa
agilànassadhammadesana).
kinh Chú giải
có nói, nếu người đi trước nói đạo không nên đáp, nên nghĩ
rằng: ta nói pháp đếnngười đi phía sau, như thế rồi nói.
16) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: Ta không đi ngoài đường, nói pháp đến người vô bịnh
đi trong đường (na upathena gacchanto pathena gacchantassa
agilànassadhammadesana).
nếu mỗi người
đi 1 bên đường, nói pháp cũng nên.
Trong cả 16 điều
học, Tỳ-khưu dễ duôi cố ý phạm Tác ác .quên, không biết mình, có
bịnh, có điều hại,và Tỳ-khưu điên đều không phạm tội.
IV. LƯỢM LẶT,
PHẦN THỨ TƯ (Pankinnaka).
Có 3 điều học:
1) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không bịnh, không đứng tiểu hoặc đại tiện. Trong
khi mắc đại tiểu tiện gấp rút không phạm tội. (nathito agilàno
uccàram vàpassàvamvàkarana).
2) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không bịnh, không đại hoặc tiểu tiện, khạc nhổ,
hỉ mũi trên chỗ xanh nhứt là cây cỏ tươi, dầu rễ cây còn sống
cũng đều gọi là xanh cả (naharite agilàno uccàram
vàpassàvamvàkarana).
Lên ngồi trên
nhánh cây để đại tiểu tiện rớt xuốn chỗ không có vật xanh cũng
nên. Ði tiểu chỗ không có vật xanh, dầu đại tiểu tiện đến gấp
rút cũng gọi như người có bịnh, không tội. Nếu tìm không kịp
nơi không có vật xanh, nên kiếm vật chi lót. đại tiểu tiện có
chảy nhằm vật xanh cũng vô tội.
3) Tỳ-khưu nên
làm như vầy: ta không bịnh không đại hoặc tiểu tiện, khạc nhổ,
hỉ mũi trong nước (na udake agilàno uccàram vàpassàvamvàkarana).
Nước để dùng
được, nước không dùng được không phạm tội. Nước ngập không có
gò đất, đại tiểu tiện trong nước ấy không tội. đại tiểu tiện
trênkhô chảy xuống nước không phạm tội.
Trong cả 3 điều
học ấy, Tỳ-khưu dễ duôi cố ý phạm Tác ác. Không cố ý, không có
trí nhớ, không biết mình có bịnh, có sự rủi ro, và Tỳ-khưu điên
đều không phạm tội.
* * *
Trong cả 75 điều
ưng học pháp (trừ ra điều 25, 29, 30 trong phần thọ thực tề
chỉnh), đức Phật cấm chế tại Kỳ viên tịnh xá (Vihàra Jetavana)
gần thành Xá Vệ (Sàvatthi) do phe Lục sư làm quấy.
2 điều học cười
lớn, 2 điều học nói lớn tiếng, 1 điều học nói chuyện còn vật
thực trong miệng thành 5 điều học.
1) Ngồi sát đất
nói pháp đến người trên chiếu đệm.
2) Ngồi nơi thấp nói pháp đến người ngồi nơi cao.
3) Ðứng nói pháp đến người ngồi.
4) Ði ngoài đường nói pháp đến người đi trong đường
5) Ði sau nói pháp đến người đi trước
5 điều học này
với 5 điều trên thành 10 điều học. 10 điều học này thuộc về
samanubhàsanasamutthàna là tội sanh do thân khẩu ý, phạm tội vì
làm (kiriỳa) khỏi phạm tội vì tưởng (sannàvimokkha) phạm tội vì
cố ý (sacittaka), phạm tội vì đời (lokavajja) thân nghiệp
(kàyakamma), khẩu nghiệp (vacikamma), ác tâm (akusalacitta), thọ
khổ (dukkhavedana).
Nói pháp đến
người vô bịnh, có dù trong tay, có gậy trong tay, có vật bén
(dao, gươm) trong tay, có cung tên trong tay, mang guốc, dép,
mang giầy da đến người đi trên xe, người nằm, đến người ngồi
khoanh tay choàng qua đầu gối, người bịch khăn, người đội khăn.
11 điều học ấy thuộc về dhamma desanasamutthàna là tội sanh do
khẩu ý (kiriyà, kiriyà, sannàvimokkhà, sacittaka, lokavajja,
vacikamma, akusalacetta, dukkhavedanà. Còn lại 53 điều học chỗ
sanh tội (sanutthàna) như trong điều học Bất cộng trụ thứ nhất
(pathamapàràjika sikkhàpada).
Lại nữa, Ưng học
pháp không có nhất định là chỉ bấy nhiêu, mà không nhất định ấy
là cách thức Tỳ-khưu nên học và hành chẳng phải có bấy nhiêu
đâu, dầu là pháp hành đức Phật đã chế định trong phần hành
(vattakhanidha) cũng gọi là ưng học pháp, vì là pháp hành
Tỳ-khưu nên học và hành theo.
VIII. DIỆT TRANH (ADHIKARANA
SAMATHA).
Duyên cớ tranh
biện (Adhikarana) có 4:
1) Tranh biện
điều phải trái(vivadàadhikarana) là nói rằng: cái này là pháp
là luật, cái này không phải là pháp,không phải là luật;.
2) Bắt tội
nhau (anevàdàdhikarana) là buộc tội nhau vì phạm tội này tội
kia;
3) Phạm các
tội (apattàdhikarana);
4) Việc mà
Tăng nên làm (kiccàdhikarana).
Diệt Tranh
có 7 phép:
1) Sự dứt trong
4 điều tranh biện trong nơi giữa Tăng, giữa Pháp, giữa Luật là
dứt điều cãi lẽ do theo Pháp, do theo Luật, đúng theo lời của
đức Phật cấm chế và chuẩn hành (budhappannatti, budhànunnatti)
trước mặt người là tiên cáo và bị cáo hoặc Tỳ-khưu thú nhận tội
(sammukhàvinaya);
[Diệt tranh:
Dứt điều tranh biện (giải hoà); Cấm chế: là cấm ngăn; Chuẩn
hành: là cho thi hành]
2) Sự mà Tăng
tụng để tuyên bố chỉ tên A la hán là bậc có trí nhớ đủ rồi,
không kẻ nào buộc tội chi được cả(sativinaya);
3) Sự mà tăng
tụng để tuyên bố chỉ tên Tỳ-khưu điên đã hết điên rồi; không cho
kẻ nào cáo tội mà Tỳ-khưu ấy đã phạm trong khi còn điên
(amulhavinaya);
4) Sự định tội
theo lời thú nhận mà người khai thiệt (patinnatakarana);
5) Sự phân đoán,
lấy theo lời khai của phần đông người có đạo đức (yebhuyyasikà);
6) Sự mà luật
định đến người phạm tội (tassapàpiyasika);
7) Sự giải hòa
cho nhau cả hai bên không cần xử đoán việc trước
(tinavatthàraka).