Pavàranà dịch là
Tự Tứ, là sau khi đã nhập hạ 3 tháng (từ 16 tháng 6 đến rằm
tháng 9), chư vị Tỳ-khưu nhóm lại mà tỏ tội cùng nhau.
Ðức Phật có dạy
"Như Lai cho phép Tỳ-khưu đã nhập hạ 3 mãn mùa mưa rồi phải hành
lễ Pavàranà theo 3 điều:
- Vì được
thấy;
- Vì được nghe;
- Vì được nghi."
Pavàranà là sự
tỏ cho nhau, thức tỉnh cho nhau, cho khỏi phạm tội để làm gương
cho nhau và cho kẻ hậu lai noi theo.
Chư Tỳ-khưu nên
hành lễ Pavàranà như vầy: cho Tỳ-khưu thông hiểu tuyên bố cho
Tăng biết rằng:
Sunatume
bhante sangho ajja pavàranà.
Pannarasì / Catuddasì yadi sanghassa pattakallam sangho
pavàreyya.
(Bạch đại đức
Tăng, xin Tăng nghe tôi trình, ngày nay là ngày Pavàranà 15 /
14 nếu lễ Pavàranà đến kỳ cho chư Tăng, chư Tăng nên hành lễ
Pavàranà.).
Rồi vị trưởng
lão nên mặc y chừa vai một bên ngồi chồm hổm chấp tay đọc:
Sangham
àvuso pavàremi ditthena và sutena và parisankàya và vadantu
mamàyasmanto anukampam upadàya passanto patikarissàmi.
Dutiyampi...
Tatiyampi...
Nghiã:
Này Ngài, tôi
xin Pavàranà với Tăng nếu có thấy, nghe hoặc nghi, xin các
ngài đem lòng tiếp độ thức tỉnh tôi, khi được biết tôi sẽ hành
theo. lần thứ nhì... lần thứ ba...
Rồi vị thấp hạ
đọc:
Sangham
bhante pavàremi ditthena và sutena và parisankàya và vadantu
mamàyasmanto anukampam upadàya passanto patikarissàmi.
Dutiyampi...
Tatiyampi...
Như thế gọi là
lễ Pavàranà.
Ngày Pavàranà có
3: ngày rằm, 30 hoặc 29 tháng thiếu, và ngày chư Tăng hòa hợp
(samaggi).
Nếu nhập hạ kỳ
trước phải hành lễ Pavàranà trong ngày rằm tháng 9, nhập hạ kỳ
sau phải hành lễ Pavàranà trong ngày rằm tháng 10, như đã có
giải trong lễ Uposatha.
Lại nữa Pavàranà
nói về người hành có 3:
- Tăng
Pavàranà.
- Gana Pavàranà.
- Puggala Pavàranà.
Tỳ-khưu từ 5 vị
trở lên gọi là Sangha (Tăng) Pavàranà, nêu hành trì như đã có
giải trước. Tỳ-khưu 2, 3, 4 vị gọi là Gana Pavàranà. Nếu có 3
hay 4 vị, nên cho vị thông hiểu tụng tuyên ngôn:
Sunàtume
ayasmamto ajja pavàranà pannarasì / catuddasì yadàyasmantànam
pattakallam mayam annamannam pavàreyyàma,.
Rồi vị cao hạ
nên mặc y chừa vai 1 bên ngồi chồm hổm chấp tay trước mặt các vị
khác đọc:
Aham àvuso
àyasmanto pavàremi ... patikarissàmi.
Dutiyampi...
Tatiyampi...
Rồi vị thấp hạ
đọc:
Aham bhante
(àyasmanto) pavàremi ... patikarissàmi.
Dutiyampi...
Tatiyampi...
Nếu chỉ có 2 vị,
không nên đọc tụng tuyên ngôn, hội họp nhau rồi vị cao hạ nên
mặc y chừa vai 1 bên ngồi chồm hổm chấp tay trước mặt các vị
thấp hạ đọc:
Aham àvuso
àyasmantam pavàremi vadamtumam ayasmà... patikarissàmi.
Dutiyampi...
Tatiyampi...
Vị thấp hạ đọc:
Aham
bhante...
Như thế gọi là
Gana Uposatha.
Nếu có 1 vị, khi
đến ngày Pavàranà nên hành Adhitthàna rằng:
Ajja me
pavàranà.
Trong kinh Chú
giải dạy rằng: phải để thêm ngày như vầy:
Ajja me
avàranà catuddasì / pannarasì adhitthàmi.
Như thế gọi là
Puggala Pavàranà.
Trong kỳ lễ
Pavàranà có nhiều vị, không nên đọc Pavàranà chung cùng nhau,
phải đọc mỗi vị 3 bận, trừ ra có duyên cớ như: thí chủ đương bố
thí, Tỳ-khưu đương nghe pháp, đêm gần tàn hành Pavàranà, mỗi vị
3 bận không kịp, hoặc 10 điều nguy hiểm, không thể hành
Pavàranà, mỗi vị đọc 3 bận không kịp, thì đọc mỗi vị 2 bận, nếu
mỗi vị đọc 2 bận không kịp, thì đọc mỗi vị 1 bận, nếu mỗi vị đọc
1 bận không kịp, thì đọc chung cùng nhau với những vị đã nhập hạ
chung một kỳ, nhưng phải tụng tuyên ngôn trước như vầy:
Sunàtu me
bhante sanghoayam brahma cariyantaràyo sace sangho tevàcikam
pavàressati appavàrito và sangho bhavissati yadi sanghassa
pattakallam sangho (devàcikam) ekavàcikam (samà navassikam)
pavàreyya.
Ðọc xong rồi nên
Pavàranà như trước.
Nghĩa là:
Bạch đại đức
Tăng, xin Tăng nghe tôi trình, ấy là điều nguy hiểm đến phạm
hạnh, nếu Tăng pavàranà 3 bận chắc không kịp, điều nguy hiểm
đến phạm hạnh ấy ắt sẽ phát sanh lên không sai. Nếu Tăng sự
vừa đến Tăng rồi, Tăng nên Pavàranà (2 bận), (1 bận) cho
Tỳ-khưu nhập hạ chung 1 kỳ nhau đều Pavàranà chung cùng nhau
(samànavassikà Pavàranà).
VẬT DÙNG THEO
THỜI (Kàlika).
Vật dùng theo
thời có 4:
- Vật để dùng
trong buổi sáng (yàvakàlika).
- Vật để dùng trong 1 ngày, 1 đêm (yàmakàlika).
- Vật để dùng trong 7 ngày (sattàhakàlika).
- Vật để dùng cho đến hết (yàvajìvika).
I. YÀVAJIVÌKA
Giải về
yàvajìvika trước cho dễ bề phâm biệt.
Ðức Phật cho
phép dùng 5 thứ thuốc.
- Rễ cây
- Nước cốt cây.
- Lá cây
- Trái cây
- Nước nhựa cây, trái, múi, và bông, vỏ cây.
Các món ấy đều
là vật để dùng cho đến hết. đã thọ các vật ấy, khi có bịnh đem
ra dùng, được phép cất giữ cho đến hết. không bịnh mà dùng, phạm
Tác ác.
(Tanipatiggahetvà yàvajìvam pariharitum satipaccaye
paribhunnitum asatipaccaye paribhunnatassa àpatti dukkatassa).
II. YÀVAKÀLIKA
5 món ăn: cơm,
bánh sốt, bánh nguội, cá, thịt gọi là bhojana (vật thực).
Ngoài bhojana,
yàvajìvika, sattàhakalika và yàvajìvika ra, các món ăn khác gọi
là vật nhai ăn (khàdanìya) các thứ bánh làm bằng gạo, nếp, đậu,
mè không cần phải kể, dầu là rễ cây, khoai, củ, cộng, đọt lá,
vỏ, bông, trái... cũng đều gọi là khàdanìya
Tóm lại, vật để
làm thuốc gọi là yàvajìvika, vật ăn không gọi là yàvajìvika
được.
Vỏ mía còn vị
ngọt gọi là món ăn, ngòai ra các thứ vỏ cây khác đều thuộc về
yàvajìvika cả.
Các thứ lá như
lá khoai, lá đậu, lá cải, lá xoài không gọi là thuốc được. Các
thứ bông cũng vậy.
Các thứ trái
như: mít, sa kê, thốt nốt, dừa, xoài và những trái khác dùng để
làm món ăn không gọi là yàvajìvika được, các thứ hột cũng vậy.
Bột làm bằng 7
thứ mể, đậu, mè, mít, sa kê đều là vật vật thực. Các thứ nước
nhựa, chỉ nước mía là vật sattàhakàlika, ngoài ra đều là món
thuốc, được phép để dùng cho đến hết.
5 thứ bhojana và
các món khàdaniya là vật chỉ được phép để dùng, từ khi mặt trời
mọc cho đến đúng ngọ, dùng ngoài giờ ấy phạm Ưng xả đối trị. Thọ
lãnh để dành qua ngày sau cũng phạm Ưng xả đối trị.
III. YÀMAKÀLIKA
Có 8 thứ nước:
- nước làm
bằng xoài sống hoặc chín (ambapànam).
- nước làm bằng trái diêm phù (jambupànam).
- nước làm bằng chuối có hột (pocapànam).
- nước làm bằng chuối không hột (mocapànam).
- nước làm bằng trái cà na (madhupànam).
- nước làm bằng trái thị hoặc trái nho (muddikàpànam).
- nước làm bằng rễ cây hoặc ngó sen (sàlukapànam).
- nước làm bằng trái nhãn, chôm chôm (phàtùsa kapànam).
8 thứ nước làm
bằng trái cây ấy gọi là vật chỉ được phép chỉ dùng trong 1 ngày
1 đêm.
Giải về các làm
nước bằng trái xoài: Nên
để xoài vào trong nước rồi đâm, xong đem ra phơi nắng cho chín,
lược lấy nước, thêm mật ong hoặc đường vào rồi dùng. Nếu tự mình
làm thì chỉ được dùng trong buổi sáng. Người chưa tu lên bậc
trên làm, được phép để đến 1 ngày 1 đêm, nếu đem dùng chung với
cơm cũng được nhưng không nên để quá ngọ.
Các thứ nước
trái cây khác cũng làm như thế. Không nên nấu (phơi nắng cho
chìn thì được). Ðức Phật có dạy "Như Lai cho phép dùng vị các
thứ trái cây trừ ra 7 thứ mể. Như Lai cho phép dùng vị của các
thứ lá cây, trừ ra các lá để ăn và luộc chín. Như Lai cho phép
dùng vị của các thứ bông cây, trừ ra bông cà na. Như Lai cho
phép dùng vị của nước mía ròng (anu... sabbam phalarasam
thapetvà dhannaha lasaram - anu... sabbam pattarasam thapetvà
dàkarasam - anu... sabbam puppharasam thapetvà madhuka
puppharasam - anu... ucchurasam).
Các thứ lá cây
đều để thuốc về vật để dùng cho đến hết. Nếu làm cho chín, chung
lộn với vật nào, chỉ được phép để dùng theo vật ấy (vật ăn buổi
sáng, vật dùng, 1 ngày, 1 đêm, hoặc vật dùng trong 7 ngày). Nấu
với nước lã thì thuộc về vị thuốc. Các thứ lá sống hoặc luộc
chín là vật ăn chung trong bữa cơm. Lá vò với nước mát, hoặc
phơi nắng cho chín để làm thuốc cũng nên. Các thứ bông, trừ ra
bông cà na, nên làm thuốc được cả.
Các yàmakàlika,
nếu thọ rồi để dùng quá 1 ngày 1 đêm, đến mặt trời mọc, phạm Tác
ác.
IV.
SATTÀHAKÀLIKA
Sữa lỏng
(sappi), sữa đặc (navanitam), dầu (telam), mật ong (madhu), nước
mía (phànitam) đều là vật để dùng đến 7 ngày. Ðến ngày thứ 8 mặt
trời mọc lên, phạm Ưng xả đối trị, ăn vào, phạm Tác ác.
Sữa bò, sữa dê,
sữa trâu, các thứ thịt của loài thú mà đức Phật không cấm [*],
sữa của loài thú ấy gọi là sữa; về phần mỡ cũng vậy.
[*] 10 thứ
thịt cấm: thịt người, voi, ngựa, sư tử, cọp, beo, gấu, chó,
rắn, chó sói.
Sữa bò, sữa dê,
sữa trâu,... gọi là sữa tươi (khìram). Sữa ấy để lâu, đến chua
gọi là sữa chua (dadhi) [cũng gọi là sữa đặc, sữa lỏng].
Bơ đặc ấy họ thắng lại nữa gọi là bơ lỏng (sappi).
Sữa tươi, chua,
dầu thuộc về yàmakàlika, là vật dùng trong buổi sáng. Sữa đặc,
bơ lỏng là món để dùng đến 7 ngày (sattàhalika).
Dầu, mật ong,
nước mía, sữa đặc, sữa lỏng mà Tỳ-khưu đã thọ trong buổi sáng
dùng làm vật ăn được, nhưng quá ngọ rồi, không nên. Nếu để dùng
ngoài buổi ăn sáng, được cất đến 7 ngày, quá 7 ngày thì phạm Ưng
xả đối trị, kể theo mỗi vật và đồ đựng.
Dầu mè, dầu đu
đủ, dầu cà na là vật ăn buổi sáng. Các thứ dầu khác như dầu hột
cải đều thuộc về yàmakàlika.
Thọ lãnh dầu mè,
buổi sáng, ăn chung trong buổi cơm cũng được, nhưng quá ngọ rồi,
không nên dùng ngoài bữa ăn, được cất đến 7 ngày, để làm thuốc
được phép dùng cho đến hết. Dầu có lộn chút ít nước, hoặc hâm
nóng, chỉ nên dùng trong buổi sáng. Thọ dầu chung với vật thực
cũng vậy, dùng để ngoài da, được phép thoa cho đến hết.
Thọ hột mè, hột
đu đủ, làm dầu trong ngày. Nếu qua ngày thứ 2 mới thắng dầu,
được dùng đến 6 ngày, thắng trong ngày thứ 3, thứ 4 hoặc thứ 6,
nên để đến 5, 4 hoặc 2 ngày. Làm trong ngày thứ 7 chỉ được dùng
trong ngày ấy thôi.
Thọ hột mè, hột
đu đủ để quá 7 ngày, phạm Tác ác.
Thọ dầu dừa, dầu
hột cải và các thứ dầu khác, thứ dầu không có kể trong Pali, để
quá 7 ngày, phạm Tác ác; khác nhau với dầu có nói trong Pali.
Thọ mỡ trong
buổi sáng, thắng trong buổi sáng, dùng ngoài bữa ăn, được phép
để đến 7 ngày. Thọ sái giờ thắng lược sái giờ, đem dùng, phạm 3
tội Tác ác. Thọ trong giờ, thắng lược sái giờ, đem dùng, phạm 3
tội Tác ác. thọ trong giờ, thắng trong giờ, lược ngoài giờ, đem
dùng, phạm 1 tội Tác ác. Thọ trong giờ, thắng trong giờ, lược
trong giờ, không phạm tội.
Thọ trong giờ
đem dùng với cơm cũng nên (không được để quá ngọ). Thọ sái giờ
chỉ nên dùng ngoài bữa cơm và được phép để đến 7 ngày. Quá 7
ngày, phạm Ưng xả đối trị.
Thọ nước mía
(sống hoặc chín) không lộn với xát (cái) được phép dùng như mật
ong.
Thọ đường thẻ,
đường tán, đường phèn làm bằng nước mía, mà họ dâng trong buổi
sáng đem dùng với cơm cũng nên. tự mình là chỉ dùng được ngoài
buổi sáng. các thứ đường ấy là vật sattàhakàlika, dầu có bịnh
hoặc không cũng dùng được đến 7 ngày.
Ðức Phật cho
phép:
- đối với
người bịnh.
- đối với người.
- đối với thì giờ.
- đối với dịp.
- đối với xứ.
- đối với mỡ.
- đối với vị thuốc.
Ðối với người có
bịnh như: Ngài đã cho phép Tỳ-khưu ni ma nhập được ăn thịt tươi,
máu tươi (trừ ra thịt người), ăn trong buổi sáng hoặc buổi chiều
cũng được.
Cho phép đối với
người, như: người ăn hay ợ cơm trở ra khỏi cổ, rồi nuốt vào
không phạm tội.
Cho phép đối với
thì giờ, như: Tỳ-khưu bị rắn cắn được phép dùng 4 thứ thuốc:
nước tiểu, phẩn, tro, đất, nếu không có ai dâng, tự mình lấy
dùng cũng nên.
Cho phép đối với
dịp, như: cho phép Tỳ-khưu dùng vật thực nhiều vị trong khi có
dịp, ngoài ra không nên dùng.
Cho phép đối với
xứ, như: cho Tỳ-khưu ngoài xứ Trung Ấn độ, từ 5 vị trở lên được
phép truyền Tỳ-khưu giới.
Cho phép Tỳ-khưu
thọ mỡ: thắng, lược trong giờ, chỉ nên dùng mỡ lỏng. cho phép
cần dùng mỡ lỏng làm bằng các thứ mỡ của loài thú.
Cho phép đối với
thuốc, như: sữa lỏng, sữa đặc, dầu, mật ong, nước mía, mà
Tỳ-khưu đã thọ rồi được phép dùng tuỳ thích trong buổi sáng ngày
ấy. Quá ngọ, nếu có bịnh nên dùng đến 7 ngày, nhưng các thứ
đường cứng (đường thẻ, đường sắc, đường om, đường tán, đường
phèn) nếu có bịnh thì được phép nhai, không bịnh nên dùng chung
với nước. Cả 5 thứ thuốc ấy, dùng đến 7 ngày, còn dư nên cho đến
người khác hoặc để thoa bó cũng được.
Giải về:
Yavakàlika, yàmakàlika; sattahakàlika và yàvajìvika, để lộn
chung cùng nhau rằng.
"Yàvakàlikena
bhikkhave yàmakàlikam tadahu patiggahitam... sattàhàkàli
kantenakappati".
nghĩa là: "Này
các Tỳ-khưu! Yàmakàlika sattàhakàlika, yàvajivika, 1 trong 3 vật
ấy mà Tỳ-khưu thọ kãnh chung với yàvakàlika, chỉ nên dùng trong
buổi sáng ấy, quá ngọ rồi thôi". Thọ 1 trong 2 vật sattàhakàlika
và yavajivika, chung với yàmakàlika, chỉ nên dùng trong 1 ngày,
1 đêm thôi. Thọ "yàvejivika" chung với "sattàhakàlika", chỉ nên
để đến 7 ngày; qua ngày thứ 8 cho đế người khác ấy là nói về vật
có lộn chung cùng nhau.
Nếu thọ 1 trong
8 thứ nước yàmakàlika chung lộn với dừa, lấy dừa ra 8 thứ nước
yàmakàlika dùng ngoài giờ được. Thọ sữa cục với cơm nguội, lkấy
sữa ra cất dùng đến 7 ngày cũng nên; mật ong đườngcũng vậy.
Vật yàmakàlika,
sattàhakàlika và yàvajivika trộn lộn với vật thực, nếu có thể
lấy ra làm cho thật sạch để dùng theo thời đều được cả. không
sạch, không nên cất giữ.
Tỳ-khưu không
nên nấu nướng vật thực mà được phép hâm nóng những vật đã chín
sẳn. Thí chủ họ dâng cháo nóng, có bỏ hành tỏi, gừng... Tỳ-khưu
không nên đem khuấy cho chín, tính làm cho nguội được, dầu cơm
còn ngòi không nên tính đậy cho chín, đậy cho nóng được, nếu vật
đã chín sẵm đem hâm lại không sao.