|
. |
KINH
TỤNG HẰNG NGÀY
TỔNG
HỢP 49 KINH CĂN BẢN CỦA HAI TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO NAM
TÔNG VÀ BẮC TÔNG
Tỳ-kheo
Thích Nhật Từ
biên soạn
---o0o---
Các
địa điểm thỉnh Kinh Tụng Hằng Ngày
--- o0o ---
MỤC LỤC
LỜI
GIỚI
THIỆU
(^)
Từ
khi
Phật
giáo
du
nhập
vào
Việt
Nam
cho
đến
đầu
thế
kỷ
XX,
Tăng,
Ni
và
Phật
tử
nước
ta
đều
đọc
tụng
Kinh
điển
bằng
chữ
Hán.
Nhờ
có
phong
trào
chấn
hưng
Phật
giáo
trong
các
thập
niên
30
và
40
của
thế
kỷ
này,
các
nghi
thức
bằng
chữ
Hán
dần
dần
được
thay
thế
bằng
các
nghi
thức
phiên
âm
Hán
Việt.
Theo
bộ
Nhật
Tụng
hai
tập
thượng
và
hạ,
viết
bằng
Hán
tự,
do
hội
Việt
Nam
Phật
Giáo
chủ
biên
và
trường
Viễn
Đông
Bác
Cổ
Hà
Nội
ấn
hành,
một
ngày
đêm
được
chia
thành
sáu
thời
tu
niệm.
Mỗi
thời
đều
có
khóa
lễ
riêng
biệt:
khóa
sáng
vào
lúc
4
giờ,
đại
chúng
vân
tập
tại
chính
điện
tụng
Thủ-lăng-nghiêm
và
Thập
Chú;
khoá
trưa
tụng
Kinh
Tứ
Thập
Bát
Nguyện;
khóa
tối
tụng
Kinh
A-di-đà,
và
ba
thời
niệm
Phật:
Buổi
sáng
khoảng
5
giờ
30’,
chiều
18
giờ
và
buổi
tối,
trước
khi
đi
ngủ
(lâm
thụy),
lúc
21
giờ.
Đấy
là
theo
nghi
thức
tu
trì
ngoài
Bắc.
Còn
Trung,
Nam
bộ,
các
nghi
thức
tụng
niệm
phần
lớn
mô
phỏng
theo
nghi
thức
Hai
Thời
Khóa
Tụng
của
các
Tổ
Trung
Hoa.
Thần
chú
Thủ-lăng-nghiêm
và
Mười
Thần
Chú
căn
bản
khác
được
tụng
vào
thời
Kinh
khuya.
Kinh
A-di-đà
và
Kinh
Phổ
Môn
thường
được
tụng
niệm
trong
các
khoá
lễ
buổi
chiều.
Thỉnh
thoảng
các
Kinh
Phổ
Hiền
Hạnh
Nguyện,
Kinh
Địa
Tạng,
Kinh
Pháp
Hoa,
Kinh
Đại
Bát
Niết-bàn
và
Kinh
Kim
Cương
Bát-nhã
cũng
được
đọc
tụng
trong
những
ngày
đại
lễ
Phật
giáo.
Các
Kinh
điển
Đại
thừa
bằng
âm
Hán
Việt
đó
nếu
không
được
vị
pháp
sư
phân
tích
và
giảng
giải
tường
tận
thì
người
đọc
tụng
khó
mà
lĩnh
hội
được
hết
những
nghĩa
lý
sâu
xa
huyền
diệu
chứa
đựng
trong
đó.
Các
nghi
thức
tụng
niệm
của
Phật
giáo
Việt
Nam
do
vì
chịu
ảnh
hưởng
văn
hóa
Trung
Hoa,
được
biên
soạn
theo
âm
Hán
Việt,
nên
tinh
thần
giáo
lý
cao
siêu
của
đức
Phật
khó
có
thể
lan
truyền
rộng
rãi
trong
khắp
giới
bình
dân,
một
thành
phần
chiếm
đại
đa
số
trong
các
thời
đại.
Bộ
Kinh
Tụng
Hằng
Ngày
mà
quý
vị
hiện
có
trong
tay
là
một
tuyển
tập
49
bài
Kinh
căn
bản
trong
hai
kho
tàng
Kinh
điển
Pali
và
Đại
thừa,
được
đại
đức
Thích
Nhật
Từ
chọn
lọc,
biên
soạn
và
ấn
tống
lần
đầu
vào
năm
1994.
Hơn
hai
phần
ba
số
Kinh
được
trích
dịch
từ
Kinh
tạng
Pali
trong
khi
chỉ
có
một
phần
ba
còn
lại
từ
Kinh
điển
Đại
thừa,
Hán
tạng.
Tỷ
lệ
cũng
như
nội
dung
của
các
bài
Kinh
trong
nghi
thức
này
cho
thấy
được
tính
nhất
quán
và
bổ
sung
lẫn
nhau
về
giáo
nghĩa
và
pháp
thức
hành
trì
trong
hai
truyền
thống
lớn
của
Phật
giáo
là
Nguyên
thuỷ
và
Đại
thừa.
Bộ
Kinh
được
biên
soạn,
theo
chủ
ý
ban
đầu,
để
đọc
tụng
trong
khoá
lễ
buổi
tối
tại
các
chùa,
trên
thực
tế
chúng
ta
có
thể
đọc
tụng
trong
các
khoá
lễ
buổi
sáng
và
buổi
chiều.
Một
trong
các
đặc
điểm
của
nghi
thức
này
là
tính
chất
thuần
Việt
được
thể
hiện
trong
từng
bài
Kinh,
và
ngay
cả
hai
phần
nghi
thức
dẫn
nhập
và
hồi
hướng.
Nhờ
đó,
người
đọc
tụng
có
thể
dễ
dàng
hiểu
được
tôn
chỉ
của
Kinh
mà
ứng
dụng
vào
cuộc
sống
hằng
ngày.
Vậy,
khi
đọc
tụng
bộ
Kinh
này,
người
thụ
trì
không
cần
phải
tra
khảo
các
từ
điển
Phật
học
mà
vẫn
có
thể
tự
mình
trực
tiếp
hiểu
được
lời
Phật
dạy,
nhờ
đó
tăng
thêm
tín
tâm
với
chính
pháp,
áp
dụng
vào
đời
sống,
đem
lại
an
lạc
và
hạnh
phúc
cho
bản
thân.
Điểm
đặc
biệt
khác
là
bộ
Kinh
chứa
đựng
nhiều
bài
Kinh
với
nhiều
nội
dung
tu
tập
khác
nhau,
được
sắp
xếp
theo
một
thứ
tự
từ
căn
bản
đến
chuyên
sâu,
nhờ
vậy,
người
đọc
tụng
hằng
ngày
không
cảm
thấy
nhàm
chán
như
trong
trường
hợp
phải
đọc
đi
đọc
lại
một
bài
Kinh
quanh
năm
suốt
tháng,
như
các
nghi
thức
tụng
niệm
trước
đây.
Ngoài
những
bài
Kinh
căn
bản
của
Đại
thừa
ra,
các
nghi
thức
của
Việt
Nam
trước
nay
đều
được
biên
soạn
trên
tinh
thần
của
pháp
môn
Tịnh
Độ,
phối
hợp
với
Mật
tông,
yếu
tố
thiền
định
là
nền
tảng
chính
của
cánh
cửa
giải
thoát
cũng
được
chú
ý
một
cách
đặc
biệt.
Bộ
Kinh
Tụng
Hằng
Ngày
trình
bày
nội
dung
giáo
pháp
của
đức
Phật,
giới
thiệu
các
phương
pháp
tu
tâm
dưỡng
tính,
các
nghệ
thuật
xây
dựng
hạnh
phúc
cá
nhân,
gia
đình
và
xã
hội,
các
pháp
tu
niệm
Phật,
niệm
pháp
và
thiền
định
cần
thiết
cho
sự
phát
triển
đời
sống
tâm
linh.
Nói
chung,
các
giáo
pháp
căn
bản
cho
việc
thiết
kế
một
mô
hình
xã
hội
nhân
đạo
chân
chính
và
hướng
đến
sự
chứng
đắc
giải
thoát
đều
được
trình
bày
trong
bộ
Kinh
này.
Việc
đọc
tụng
và
thụ
trì
bộ
Kinh
này,
do
vậy,
trở
nên
rất
cần
thiết
đối
với
người
con
Phật,
bất
luận
trong
thời
đại
nào.
Trong
truyền
thống
đặc
thù
của
Phật
giáo
Việt
Nam,
các
vị
Tổ
Sư
tiền
bối
đã
khéo
dung
hợp
ba
pháp
môn
Tịnh,
Mật
và
Thiền
hòa
quyện
trong
cùng
một
thời
khóa
tu
niệm,
tạo
cho
người
thụ
trì,
đọc
tụng
thanh
tịnh
được
thân,
khẩu,
ý
một
cách
dễ
dàng
mà
không
thấy
có
gì
là
ngăn
ngại
cả.
Một
nỗ
lực
khác
đáng
chú
ý
là,
soạn
giả
đã
mạnh
dạn
đặt
lại
tên
của
các
bài
Kinh,
mà
tựa
nguyên
thuỷ
của
nó
không
phản
ánh
được
chủ
đề
chính
mà
chúng
muốn
mô
tả.
Không
những
thế,
soạn
giả
cũng
đã
thêm
các
tiêu
đề
phụ
ở
những
bài
Kinh
chưa
có
tiêu
đề,
hầu
giúp
cho
người
đọc
tụng
dễ
nắm
bắt
được
đại
ý
của
các
Kinh.
Ở
đây,
tôi
cũng
cần
nhắc
người
thụ
trì,
hãy
tránh
thái
độ
tụng
Kinh
để
kể
công
với
Phật,
hay
để
tiêu
khiển
thời
gian,
hoặc
biến
thời
Kinh
thành
một
buổi
nhạc
lễ.
Không
nên
tụng
Kinh
vì
mục
đích
cầu
phúc
báo
danh
lợi
nhân
gian.
Đọc
tụng
Kinh
điển
trước
để
hiểu
rõ
và
sau
là
hành
trì.
Hiểu
rõ
để
thực
hành
khỏi
sai.
Hành
trì
để
bản
thân
và
tha
nhân
được
an
lạc.
Nói
cách
khác,
để
hiểu
rõ
và
hiểu
sâu
lời
Phật
dạy,
trước
nhất,
người
thụ
trì
cần
phải
siêng
năng
đọc
tụng,
nghiền
ngẫm
nghĩa
lý.
Sau
khi
nắm
vững
được
chính
pháp,
người
đọc
tụng
phải
đích
thân
ứng
dụng
và
thực
hành.
Có
như
vậy
thì
việc
đọc
tụng
mới
có
nhiều
ý
nghĩa
thiết
thực.
Người
đọc
tụng
cần
phải
lưu
ý
rằng
lời
Phật
dạy
được
trình
bày
trong
Kinh
điển
chỉ
là
tấm
bản
đồ
hướng
dẫn
chúng
ta
tu
tập.
Bản
thân
tấm
bản
đồ
cũng
như
các
con
đường
không
phải
cứu
cánh
của
việc
tu
tập.
Nương
vào
sự
hướng
dẫn
của
Kinh
điển
để
tu
tập
cũng
như
nương
vào
ngón
tay
để
nhìn
thấy
được
mặt
trăng,
hay
nương
vào
thuyền
bè
để
sang
sông.
Khi
thấy
được
mặt
trăng
chân
tâm
hay
khi
đến
được
bờ
giải
thoát
bên
kia,
người
thụ
trì
coi
như
phần
nào
đã
chứng
ngộ
rồi
vậy.
Đã
từ
lâu,
tôi
hằng
mong
ước
biên
soạn
một
nghi
thức
tụng
niệm
thuần
Việt,
để
giúp
cho
người
Phật
tử
Việt
Nam
dễ
dàng
hiểu
và
thực
hành,
hoài
bão
đó
đến
nay
vẫn
chưa
đủ
duyên
để
thực
hiện.
Nay
đại
đức
Thích
Nhật
Từ
phát
tâm
soạn
bộ
Kinh
Tụng
Hằng
Ngày,
tôi
vô
cùng
hoan
hỷ,
và
mong
rằng
trong
tương
lai
gần,
chư
tôn
đức
giáo
phẩm
sẽ
ngồi
lại
cùng
biên
soạn
một
nghi
thức
tiêu
chuẩn
cho
toàn
quốc.
Trong
khi
chờ
đợi
một
nghi
thức
hoàn
chỉnh,
bộ
Kinh
Tụng
Hằng
Ngày
này
sẽ
mang
lại
nhiều
lợi
ích
không
nhỏ
cho
người
đọc
tụng
và
thụ
trì
Kinh
điển
bằng
tiếng
Việt
Nam.
Cầu
chúc
tất
cả
những
ai
có
duyên
đọc
tụng
bộ
Kinh
này
đều
tăng
trưởng
tâm
bồ-đề,
gặt
hái
được
nhiều
an
lạc
ở
hiện
tại
và
tương
lai,
đồng
thời
gặp
được
nhiều
thắng
duyên
trên
con
đường
tu
tập
giải
thoát.
- Viết
tại
chùa
Giác
Minh,
Sài
Gòn,
ngày
10-1-2002
- Sa-môn
Thích
Đức
Nhuận
--- o0o ---
LỜI
TỰA
(^)
Quyển
Kinh
Tụng
Hằng
Ngày
này
là
một
tuyển
tập
48
bài
Kinh
quen
thuộc
trong
hai
truyền
thống
Phật
giáo
Nam
tông
và
Bắc
tông,
và
bài
Thi
Kệ
về
Cuộc
Đời
Đức
Phật.
Tuyển
tập
này
giới
thiệu
các
giáo
pháp
nền
tảng
cũng
như
các
phương
pháp
hành
trì
căn
bản
trong
Phật
giáo,
nhằm
góp
phần
tạo
dựng
an
lạc
và
hạnh
phúc
cho
người
đọc
tụng
và
thọ
trì
ngay
hiện
tại
cũng
như
tương
lai.
Phần
lớn
các
bài
Kinh
được
chư
tôn
đức
cao
tăng
Việt
Nam
phiên
dịch
như:
HT.
Thích
Trí
Tịnh,
HT.
Thích
Hành
Trụ,
HT.
Thích
Huệ
Hưng,
HT.
Thích
Trí
Quang,
HT.
Thích
Nhất
Hạnh,
HT.
Thích
Minh
Châu,
HT.
Thích
Từ
Thông,
HT.
Thích
Duy
Lực
và
HT.
Hộ
Tông,
v.v…
Bộ
Kinh
được
phiên
dịch
và
biên
soạn
theo
một
văn
phong
thuần
Việt,
nhằm
giúp
cho
người
đọc
trực
tiếp
cảm
nhận
lời
vàng
của
đức
Phật
bằng
ngôn
ngữ
mẹ
đẻ,
để
hiểu
sâu
lời
Phật
hơn,
nhờ
đó,
dễ
dàng
áp
dụng
vào
cuộc
sống
hằng
ngày.
Trong
bộ
Kinh
này,
ngoài
thần
chú
Bát-nhã
Tâm
Kinh
là
thần
chú
duy
nhất
còn
giữ
lại
để
trì
tụng,
tất
cả
các
thần
chú
khác
đều
được
tỉnh
lược.
Nghi
thức
này
chủ
yếu
nhấn
mạnh
đến
tinh
thần
“niệm
pháp”
và
“hành
thiền,”
đồng
thời
phát
huy
tinh
thần
“tụng
niệm,
tư
duy
và
thực
hành”
lời
Phật
dạy
trong
các
Kinh
điển.
Các
tinh
thần
này
hoàn
toàn
phù
hợp
với
pháp
môn
Thiền
và
Tịnh
Độ
vốn
thịnh
hành
ở
nước
ta
cùng
các
nước
Phật
giáo
Đại
thừa
như
Trung
Quốc,
Nhật
Bản
và
Triều
Tiên,
v.v…
Trong
khi
biên
soạn,
các
đoạn
văn
trùng
lập
trong
các
bản
dịch
mà
sự
vắng
mặt
của
chúng
không
làm
ảnh
hưởng
gì
đến
nội
dung
Kinh
văn,
đều
được
tỉnh
lược.
Các
cụm
từ,
thuật
ngữ
và
pháp
số
Phật
học
còn
nặng
cấu
trúc
Hán
Việt
trong
các
bản
dịch
đều
được
thay
thế
bằng
các
cụm
từ
thuần
Việt
hơn.
Soạn
giả
cũng
đã
thận
trọng
sửa
chữa
lại
các
đại
từ
xưng
hô
trong
các
Kinh,
cũng
như
những
chỗ
cần
thiết
trong
các
bản
dịch
để
giúp
cho
câu
văn
được
nhẹ
nhàng,
dễ
đọc
tụng.
Các
tiêu
đề
trong
nhiều
bài
Kinh
được
thêm
vào,
và
phần
lớn
tựa
các
bài
Kinh
cũng
được
đặt
lại
theo
chủ
đề
của
chúng,
hầu
giúp
cho
người
đọc
tụng
nắm
bắt
được
đại
ý
của
Kinh.
Mặc
dù
tự
biết
khó
có
thể
làm
toàn
hảo
Phật
sự
trọng
đại
này,
nhưng
với
tâm
huyết
góp
phần
Việt
hoá
nghi
thức
tụng
niệm,
và
được
sự
cố
vấn
và
chỉ
đạo
của
cố
Hoà
thượng
Bổn
sư
Thích
thượng
Thiện
hạ
Huệ
(1927-1992),
vào
mùa
Phật
đản
năm
1992,
soạn
giả
đã
mạnh
dạn
bắt
tay
vào
công
việc
đọc
hai
nguồn
kinh
điển
Nguyên
thủy
và
Đại
thừa,
chọn
lọc
ra
các
Kinh
căn
bản,
giới
thiệu
về
các
pháp
tu
của
người
con
Phật.
Công
trình
tiến
hành
mới
hơn
được
ba
tháng
thì
Hoà
thượng
Bổn
sư
của
soạn
giả
đã
viên
tịch.
Do
bận
rộn
với
nhiều
Phật
sự,
hai
năm
sau,
soạn
giả
mới
có
thể
hoàn
tất
được
công
trình.
Ba
ngàn
quyển
đầu
tiên
được
Tăng
Ni
và
Phật
tử
chùa
Giác
Ngộ
phát
tâm
ấn
tống
để
cúng
dường
và
tưởng
niệm
ngày
đản
sanh
của
Đức
Phật
Bổn
Sư
Thích-ca
Mâu-ni
(PL.
2538,
DL.
1994).
Chỉ
trong
vòng
hai
tuần
lễ,
toàn
bộ
các
Kinh
đã
được
các
chùa
ở
Sài
Gòn
và
các
tỉnh
miền
Tây
thỉnh
hết.
Nay
được
sự
khích
lệ
và
yêu
cầu
của
một
số
chư
tôn
đức
Tăng
Ni
cũng
như
Phật
tử
ở
Hoa
Kỳ
và
Úc,
ấn
bản
thứ
hai
này
ra
đời
với
vài
thay
đổi
và
bổ
sung.
Trước
nhất
tựa
của
các
Kinh
được
đổi
thành
thuần
Việt
và
đi
sát
với
chủ
đề
của
các
Kinh
hơn:
Kinh
Pháp
Cú
đổi
thành
Kinh
Danh
Ngôn
Chánh
Pháp;
Kinh
Đức
Tin
đổi
thành
Kinh
Nền
Tảng
Đức
Tin;
Kinh
Thiện
Sanh
đổi
thành
Kinh
Nền
Tảng
Đạo
Đức
Xã
Hội;
Kinh
Vô
Thường
-
Khổ
Não
-
Vô
Ngã
đổi
thành
Kinh
Nhận
Thức
Vô
Thường
và
Đau
Khổ;
Kinh
Tệ
Túc
đổi
thành
Kinh
Nghiệp
Báo
Tái
Sanh;
Kinh
Tỳ-kheo
Na-tiên
đổi
thành
Kinh
Na-tiên
Đàm
Đạo;
Kinh
Sống
Hoà
Hợp
đổi
thành
Kinh
Sống
và
Tu
trong
Hòa
Hợp;
Kinh
Thiền
Giáo
Bình
Đẳng
đổi
thành
Kinh
Tôn
Trọng
các
Pháp
Môn;
Kinh
Bốn
Mươi
Hai
Chương
đổi
thành
Kinh
Bốn
Mươi
Hai
Bài;
Kinh
Pháp
Ấn
đổi
thành
Kinh
Ba
Cánh
Cửa
Giải
Thoát;
Kinh
Trung
Đạo
Nhân
Duyên
đổi
thành
Kinh
Chánh
Kiến;
Kinh
Tám
Điều
Giác
Ngộ
của
Bậc
Đại
Nhân
đổi
thành
Kinh
Tám
Điều
Giác
Ngộ
của
Hàng
Bồ-tát;
Kinh
Hạnh
Anh
Nhi
đổi
thành
Kinh
Hạnh
Trẻ
Thơ;
Kinh
Lục
Độ
Tương
Nhiếp
đổi
thành
Kinh
Lục
Độ
Dung
Thông;
Kinh
Kim
Cang
Bát-nhã
đổi
thành
Kinh
Trí
Tuệ
Kim
Cương;
Kinh
Vào
Pháp
Môn
Không
Hai
đổi
thành
Kinh
Thể
Nhập
Pháp
Môn
Không
Hai;
và
Kinh
Giáo
Huấn
Sau
Cùng
đổi
thành
Kinh
Lời
Dạy
Sau
Cùng.
Kế
đến,
năm
bài
Kinh
sau
đây:
Kinh
Tiểu
Sử
Đức
Phật,
Kinh
Tình
Thương,
Kinh
Hôn
Phối,
Kinh
Bốn
Thánh
Đế,
và
Kinh
Bốn
Điên
Đảo
đã
được
thay
thế
bằng
Thi
Kệ
Cuộc
Đời
Đức
Phật,
Kinh
Quán
Niệm
Hơi
Thở,
Kinh
Mười
Pháp
Đến
Bờ
Kia,
Kinh
Dẫn
Nhập
Đại
Thừa
và
Kinh
các
Pháp
Tu
Viên
Thông.
Sự
thay
đổi
các
bài
Kinh
này
đã
kéo
theo
sự
thay
đổi
về
trật
tự
của
các
bài
Kinh
khác
trong
toàn
bộ
nghi
thức.
Ngoài
ra,
bốn
phần
phụ
lục
được
thêm
vào
cuối
sách:
(1)
Tóm
tắt
nội
dung
49
bài
Kinh,
(2)
Chú
thích
một
số
thuật
ngữ
và
danh
từ
riêng,
(3)
Các
ngày
lễ
trong
hai
truyền
thống
Phật
giáo,
và
(4)
Các
ngày
ăn
chay.
Do
vì
bận
rộn
với
việc
phụ
trách
trang
nhà
Đạo
Phật
Ngày
Nay
(http://www.buddhismtoday.com),
soạn
giả
đã
mời
Tỳ-kheo
Thích
Giác
Hoàng
biên
soạn
phần
phụ
lục
thứ
hai,
để
giúp
cho
người
đọc
tụng
và
thọ
trì
Kinh
có
thể
tra
khảo
ngay
tại
chỗ
các
thuật
ngữ
và
danh
từ
riêng
Phật
giáo,
mà
không
phải
tốn
công
nghiên
cứu
đến
các
bộ
từ
điển
Phật
học
đồ
sộ.
Kinh
Tụng
Hằng
Ngày
in
lại
kỳ
này
được
hoàn
thành
tốt
đẹp
là
nhờ
vào
sự
giúp
đỡ
tận
tâm
của
nhiều
người.
Nhân
đây,
chúng
con
chân
thành
tri
ân
Thượng
toạ
Thích
Bổn
Điền,
đồng
thời
soạn
giả
cảm
ơn
và
tán
thán
Đại
đức
Thích
Trí
Thể,
quý
cư
sĩ
Thanh
Tâm,
Hải
Hạnh,
Trần
Nguyên
Trung,
Minh
Thông
và
Chính
Trực,
v.v…
đã
góp
phần
vận
động
ấn
tống;
huynh
Nhật
Hạnh
đã
phát
tâm
đánh
vi
tính,
đại
đức
Thích
Thiện
Huệ,
quý
sư
cô
Thích
Nữ
Huệ
Phúc,
Thích
Nữ
Liên
Hiếu
và
Thích
Nữ
Liên
Hoà
đã
phát
tâm
sửa
bản
in;
quý
đại
đức
Thích
Thiện
Hữu,
Thích
Lệ
Thọ,
Manpreet
Singh,
A.
N.
Sinha
và
R.S.
Kaushik
đã
liên
hệ
nhà
in,
cùng
tất
cả
quý
Tăng
Ni
và
Phật
tử
trực
tiếp
hoặc
gián
tiếp
hỗ
trợ
cho
lần
tái
bản
này.
Soạn
giả
chân
thành
tán
thán
cư
sĩ
Từ
Bi
Nguyệt,
gia
đình
Từ
Bi
Trân
Ngọc,
Mai
Hoàng
và
tất
cả
quý
vị
có
tên
trong
danh
sách
ấn
tống,
đã
tiết
kiệm
tối
đa
phần
chi
dụng
cá
nhân
và
gia
đình,
phát
tâm
đóng
góp
tịnh
tài
ấn
tống,
nhằm
làm
cho
Pháp
bảo
của
Phật
được
lan
rộng,
mang
lại
lợi
lạc
cho
những
người
hữu
duyên.
Kính
chúc
quý
vị
ngày
càng
tăng
trưởng
đạo
tâm,
vững
tiến
trên
con
đường
phụng
sự
Phật,
Pháp
và
Tăng.
Xin
hồi
hướng
công
đức
của
lần
tái
bản
này
đến
tất
cả
chúng
sanh
trong
ba
cõi
sáu
đường.
Kính
nguyện
hồng
ân
Tam
Bảo
gia
hộ
cho
tất
cả
được
an
lạc
trong
chánh
pháp
và
hanh
thông
trong
cuộc
sống!
- Ấn
Độ,
ngày
21-1-2002
- Kính
khể
thủ
Tỳ-kheo
Thích
Nhật
Từ
---o0o---
Mục lục
Ý
nghĩa
tụng
Kinh
| Hướng
dẫn
hành
trì
| Nghi thức dẫn nhập
1
| 2
| 3
| 4
| 5 | 6
| 7 | 8
| 9
| 10
| 11
| 12
| 13
| 14
| 15
|
16
| 17
| 18
19
|20
| 21
| 22 |
23
|
24
| 25
| 26
| 27| 28 | 29
| 30
| 31
| 32 | 33
34
| 35
| 36
| 37 | 38
| 39
| 40 | 41| 42
| 43
| 44
| 45
| 46
| 47
| 48
Phụ
lục:
pl1-pl1a| pl2a-c
| pl2d-l
| pl2m-q
| pl 2s-x
| pl3
| pl4 | pl5
Sám
nguyện
và
hồi
hướng
--- o0o ---
Ấn
tống lần thứ nhất tại Việt Nam, 1994 (3000 quyển)
Ấn
tống lần thứ hai tại Ấn Độ, 2002 (6000 quyển)
Để
có ấn bản vi tính hoàn chỉnh, xin liên lạc địa chỉ điện
thư: thichnhattu@yahoo.com
ooOoo
Trình
bày bìa: Mamchand Choudary
Đánh
vi tính: Nhật Hạnh
Dò
bản: Thích Thiện Huệ, Thích Nữ Liên Hiếu,
Thích
Nữ Huệ Phúc, Thích Nữ Liên Hoà
---o0o---
|
Thư
Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Chân thành cảm ơn Thầy Nhật
Từ đã gởi tặng bản Kinh điện tử này
( Quang Duc Website 04/2002)
--- o0o ---
Trình bày : Nguyên Hân- Nhị
Tường
|
|