|
.
Thiền
Tứ Niệm Xứ
Thích
Trí Siêu
|
|
03
Thiền và Tịnh độ
Ngày
nay trong Phật giáo còn lại ba tông phái chính là Thiền tông,
Mật tông và Tịnh Ðộ tông. Riêng ở Việt Nam thì chỉ có
Thiền Tông và Tịnh Ðộ tông là thịnh hành hơn cả. Ðại
khái thì Thiền chủ trương tự lực, Tịnh Ðộ nương vào
tha lực của Phật A Di Ðà. Mới xem qua dường như hai pháp
môn này chống trái nhau, nhưng xét cho kỹ Thiền là trở về
với bổn tánh thanh tịnh, đó không phải là tịnh sao? Còn
Niệm Phật mà không có chánh niệm thì Tín, Hạnh, Nguyện
không tròn làm sao vãng sanh, mà chánh niệm há chẳng phải
là Thiền?
Người
ta thường có khuynh hướng cho rằng Thiền cao hơn Tịnh Ðộ.
Thật ra vấn đề không phải ở cao thấp mà ở chỗ bịnh
nào thuốc nấy mà thôi.
Ðức
Phật xưa kia đã tận tụy suốt 45 năm nói Pháp, từ cao xuống
thấp, từ thấp lên cao, tùy căn cơ của chúng sanh mà chỉ
bệnh cho thuốc. Ngài không quảng cáo một pháp môn nào cả,
không đề cao Tịnh Ðộ hạ thấp Thiền, không bảo Thiền
hơn Tịnh Ðộ. Sự phân biệt cao thấp, Ðại, Tiểu là do
người sau này, căn cơ không được như đức Phật, không
có nhất thiết chủng trí, không biết nhiều pháp môn, chuyên
tu pháp môn nào thì chỉ đề xướng pháp môn đó thôi. Người
thích tu Thiền không nên tưởng mình là thượng căn, người
tu Tịnh Ðộ không nên có mặc cảm là hạ căn. Người tu
khi lựa chọn pháp môn phải dùng trí huệ sáng suốt, biết
bệnh của mình hợp với phương thuốc nào. Thượng căn hay
hạ trí thực ra không có nghĩa gì cả, đó chỉ là những
khái niệm đối đãi nhị biên do chúng ta phân biệt đặt
ra mà thôi. Một ông bác sĩ giỏi chữa hết bệnh đau mắt,
không thể nói với một người đau tim rằng: "thuốc của
tôi hay lắm, vì đã chữa khỏi nhiều người, ông nên uống
vào sẽ hết bệnh". Cũng vậy, ta không thể nói Kinh nào hay
Pháp môn nào hay hơn cả.
Tịnh
Ðộ có thể được xem là một phần của Mật Tông. Theo Mật
Tông hay đúng hơn là Mật thừa (Mantrayanà) còn gọi tên khác
là Kim Cang thừa (Vajra-yanà), mỗi một vị Phật hay Bồ Tát
đều có một câu thần chú tượng trưng cho bản nguyện của
vị đó. Ðức Phật Thích Ca có câu thần chú "Om muni muni maha
muni svahà", Phật A Di Ðà có "Om Amitabhà Hrih", Quan Thế Âm
Bồ Tát có "Om mani padmè hùm ", v.v... Phật A Di Ðà ở phương
Tây là một trong năm vị Dhyàni Buddha, và cõi Cực lạc của
Ngài là một trong muôn ngàn cõi tịnh độ trong pháp giới.
Nhân
tiện đây xin nhắc nhở những ai tu Mật tông theo truyền thống
Tây Tạng tức quán tưởng các hình tướng (déités, Yidams,
Dakinis...) hoặc mandala, cần phải có bậc thầy truyền cho
trực tiếp lễ quán đảnh (Initiation, dbang). Nếu chỉ tu theo
sách vở, hoặc học lóm tu luyện với tâm mong cầu sở đắc
này nọ thì sẽ dễ lạc đường đi vào tà đạo lúc nào
không hay.
Tịnh
Ðộ thuộc Ðại thừa, hành giả tu niệm Phật cầu sanh về
Cực Lạc, chứng được quả vị Bất thối chuyển rồi từ
đó dần dần tiến đến quả vị Phật là cứu cánh. Tuy nhiên
trên phương diện thực hành và truyền bá thì Tịnh Ðộ nhấn
mạnh về việc vãng sanh Cực Lạc và quên đi mục đích chính
của đạo Phật là tu tâm sửa tánh, giải trừ phiền não
ngay trong kiếp sống hiện tại.
Người
tu theo Tịnh Ðộ thường cho mục đích chính của sự niệm
Phật là cầu sanh Cực Lạc, không nghĩ đến chuyện thành
Phật để cứu độ chúng sinh. Niệm Phật là để cầu thành
Phật và muốn thành Phật thì phải học làm Phật, đến khi
xả bỏ báo thân này thì sẽ về Cực Lạc để tiếp tục
con đường thành Phật. Vì thế người tu Tịnh Ðộ vẫn cần
phải học tất cả pháp môn, trau dồi Giới, Ðịnh, Huệ ngay
khi còn ở Ta Bà này.
Tu
Tịnh Ðộ muốn được vãng sanh cần phải có đầy đủ Tín,
Hạnh, Nguyện. Tín là lòng tin chắc chắn có đức Phật A
Di Ðà ớ Cực Lạc Phương Tây, và những ai chí tâm niệm
danh hiệu Ngài thì sẽ được vãng sanh. Hạnh là một khi tin
chắc rồi thì hành giả phải gia công ngày đêm niệm Phật
không gián đoạn, tâm tâm niệm niệm luôn nhớ đến Phật
A Di Ðà. Nguyện là hành giả đem hồi hướng tất cả công
đức tu hành niệm Phật nguyện sanh Cực Lạc.
Ðại
khái pháp môn tu Tịnh Ðộ là như vậy. Vì có rất nhiều
sách giảng về Tịnh Ðộ, đọc giả có thể tìm nghiên cứu
thêm, ở đây chỉ nhằm mục đích dung hòa hai lối tu giữa
Thiền và Tịnh.
Tu
Tịnh Ðộ nếu không hiểu lý thì Tín sẽ biến thành ỷ lại,
không chánh niệm thì Hạnh không tròn. Không hiểu lý, không
chánh niệm thì sẽ bê trễ lơ là, do đó Nguyện sẽ không
thành. Vì thế những người trẻ khi tu theo Tịnh Ðộ cần
phải trau dồi, học hỏi để thông hiểu lý, phải tập thiền
định để không cho phiền não chi phối, và phải phát nguyện
cứu khổ chúng sinh, lập đi lập lại những lời nguyện ấy.
Giáo
lý nhà Phật gồm có Chân Không và Diệu H"u. Thiền tông dựa
trên Không, còn Tịnh Ðộ nương vào Hữu.
Tu
Thiền mà bác Tịnh Ðộ cho rằng không có thế giới Cực
Lạc ở phương tây thì đó là chưa hiểu tự tánh (vốn chơn
không mà diệu hữu). Tu Tịnh Ðộ mà bỏ Thiền, thì chưa
hiểu tự Tâm (vốn diệu hữu nhưng không lìa chơn không).
Thiền
và Tịnh đều là nh"ng pháp môn của Phật để lại, tùy căn
cơ mà chúng ta lựa chọn cho thích hợp.
Người
tu Thiền có thể hồi hướng công phu cầu sanh Tịnh Ðộ,
nếu chưa hoàn toàn tự chủ và sợ căn cơ còn yếu.
Người
tu Tịnh Ðộ nên tập học giữ chánh niệm làm chủ tâm ý
để đạt được an lạc ngay trong cuộc sống hiện tại và
sau khi chết thì về Cực Lạc.
Ta
có thể tu tập cả hai gọi là Thiền Tịnh song tu. Là hành
giả Ðại Thừa theo Bồ Tát Hạnh, ta cần thực hành Lục
Ba La Mật : bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền
định và trí huệ. Tu Tịnh Ðộ cũng cần thiền định để
cho tâm an trụ không bị phiền não sai sử, nhờ vậy niệm
Phật mới dễ nhất tâm, và khi lâm chung không sợ tán loạn.
Tu Thiền thời nay không phải để giác ngộ mà cốt làm chủ
tâm ý, thanh lọc thân tâm, sống an vui hạnh phúc, và sau khi
chết cầu về Cực Lạc để được gần Phật nghe Pháp, được
như thế có lợi hơn không ?
Dù
theo Thiền hay Tịnh Ðộ, người tu cần phải xa lánh thế
tục, cố gắng tìm nơi rừng núi, thôn quê, trau dồi đạo
hạnh, tích tụ công đức, bớt dính mắc vào chuyện thế
gian, không để cho cuộc đời lôi cuốn. Xưa kia các Thiền
Sư, sau khi ngộ đạo, đều tìm nơi ở ẩn tu luyện cho đến
khi hoàn toàn làm chủ được tâm ý mới ra độ đời. Chư
Tổ Tịnh Ðộ như Ngài Huệ Viễn, Thiện Ðạo, Vĩnh Minh,
không những xiển dương dạy chúng niệm Phật, mà chính mình
cũng nhập thất niệm Phật làm gương.
--------------------------------------------------------------------------------
6.
Tứ Niệm Xứ và Bồ tát đạo.
--------------------------------------------------------------------------------
Bồ
Tát, nói cho đủ là Bồ Ðề Tát Ðỏa dịch âm từ chữ Bodhisattva
(Sanskrit) hay Bodhisatta (Pali). Bodhi là Giác, Sattva là Hữu tình.
Bồ Tát là những người phát tâm, nguyện đạt cho được
đạo quả Chánh đẳng Chánh giác, tức là Phật. Phát nguyện
như vậy có quá đáng không? Có kiêu ngạo quá không? Không!
Chỉ vì Bồ Tát có tâm Ðại từ, Ðại bi, muốn cứu độ
chúng sanh thoát khỏi cái khổ sanh tử luân hồi nên mới phát
nguyện thành Phật. Xưa kia, đức Phật Thích Ca vì lý do nào
lìa bỏ cung thành đi tu? Phải chăng vì thấy cảnh sanh, già,
bệnh, chết của chúng sanh mà quyết ra đi tìm giải thoát
cho mình và cho người?
Bồ
Tát là người cầu thành Phật hay chỉ là người có tâm Ðại
từ Ðại bi thôi? Cầu thành Phật mà không có tâm Từ bi thì
không thể có! Ðại từ, Ðại bi mà không có trí tuệ thì
cũng không thể cứu độ chúng sanh. Cứu khổ trong đạo Phật
cần được hiểu là cứu khổ sanh tử luân hồi, chứ không
phải khổ vật chất, hay tinh thần. Muốn cứu khổ chúng sanh
một cách trọn vẹn và rốt ráo cần phải có trí tuệ toàn
giác.
Vậy
Bồ Tát là những người phát Bồ Ðề Tâm (Bodhicitta), tức
tâm nguyện thành Phật để cứu độ chúng sanh một cách toàn
vẹn và rốt ráo. Ðại Từ Bi chỉ là động lực đầu tiên
thúc đẩy hành giả tiến bước trên Bồ Tát Ðạo, và mục
tiêu cuối cùng của Bồ Tát Ðạo là quả vị Phật. Vì trong
quả vị Phật, có đầy đủ các đức tánh Ðại Từ, Ðại
Bi, Ðại Hỷ, Ðại Xả, Ðại Hùng, Ðại Lực để cứu độ
chúng sanh.
Một
khi phát Bồ Ðề Tâm một cách vững chắc rồi. Bồ Tát có
thể lựa chọn tất cả pháp môn nào tùy theo căn cơ, sở
thích và tâm nguyện của mình. Bồ Tát không bắt buộc phải
tạo nhiều chùa to, tượng lớn, không bắt buộc phải đi
khắp nơi thuyết pháp, giảng đạo. Ngược lại cũng không
bắt buộc phải vào rừng núi tu ẩn dật cho đến ngày thành
Phật mới ra độ đời (trường hợp của các Ðạo Sư Tây
Tạng như Milarépa xưa kia, hoặc điển hình hiện đại là
Kalou Rimpoché). Từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành Phật,
Bồ Tát vẫn tiếp tục phát triển tâm Bồ Ðề, tiếp tục
cứu độ và làm lợi ích cho chúng sanh tùy theo căn cơ, khả
năng của mình.
Bồ
Tát không bắt buộc phải là thượng căn, Thanh Văn không hẳn
là hạ trí. Bồ Tát chỉ khác Thanh Văn nơi Bồ Ðề Tâm thôi.
Tất cả pháp môn Ðức Phật để lại, không có pháp nào
dành riêng cho Bồ Tát hay Thanh Văn cả. Thí dụ như Tịnh Ðộ
được coi là một pháp môn thuộc Ðại Thừa. Nhưng nếu người
niệm Phật cầu về Cực Lạc với tâm niệm giải thoát cho
chính mình khỏi cái khổ Ta Bà, thì người này đang biến
Tịnh Ðộ thành Tiểu Thừa vậy.
Khi
nói về ba Thừa (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát), người ta
thường nói như vầy: Thanh Văn tu theo Tứ Ðế, Duyên Giác
tu theo Thập nhị nhân duyên, và Bồ Tát tu theo Lục Ðộ. Nói
như vậy không đúng. Tứ Ðế là một chân lý, trong đó có
Ðạo Ðế, Ðạo Ðế là con đường đưa đến Niết Bàn.
Ðạo Ðế tức là Ðạo Phật. Ðạo Ðế không phải chỉ
có Bát Chánh Ðạo, hoặc 37 phẩm trợ đạo thôi, mà tất
cả 84,000 pháp môn đều được xem là Ðạo Ðế. Do đó Thập
nhị nhân duyên, và Lục Ðộ cũng thuộc Ðạo Ðế. Vậy pháp
tu của Duyên Giác hay Bồ Tát cũng không nằm ngoài Tứ Ðế.
Trong
84,000 pháp môn của Ðức Phật để lại chỉ có một mùi
vị, đó là vị giải thoát. Nhưng chúng ta lại có thói quen
hay chia phe, xếp hạng: pháp này là Tiểu Thừa, pháp kia Ðại
Thừa. Nếu tu theo Ðại Thừa mà giảng Tứ Ðế thì không
hay, phải giảng Pháp Hoa, Kim Cang mới đúng. Từ sự phân chia
và hiểu lầm danh nghĩa Bồ Tát nên người tu theo Ðại Thừa
thường hay thích thọ "Bồ Tát giới" và coi thường giáo lý
Tiểu Thừa.
Theo
Phật giáo, có ba hạng Bồ Tát là: Trí Tuệ Bồ Tát (Pannadhika),
Tín Ðức Bồ Tát (Saddhàdhika) và Tinh Tấn Bồ Tát (Viriyàdhika).
"Trí
Tuệ Bồ Tát chú trọng phát triển trí tuệ và thực hành
Thiền Ðịnh nhiều hơn là nhiệt thành với những hình thức
lễ bái cúng dường bề ngoài. Các ngài luôn luôn đi theo sự
hướng dẫn của lý trí và không chấp thuận điều gì một
cách mù quáng. Không tự bó tay quy hàng cho một lý thuyết
nào, cũng không làm nô lệ cho một quyển sách, một bộ Kinh,
hay một cá nhân nào. Trí Tụê Bồ Tát thích trầm tĩnh yên
lặng để trau dồi thiền định. Từ nơi vắng vẻ tịch mịch
ấy, Ngài rải những tư tưởng an lành, tuy trầm lặng nhưng
hùng dũng, bủa khắp thế gian, để đem lại sự hổ trợ
tinh thần cho nhân loại đau khổ.
Tín
Ðức Bồ Tát đặt trọn niềm tin nơi hiệu lực của tâm
thành. Saddhà hay niềm tin chân thành là đặc điểm chánh yếu
của Ngài. Cùng với Saddhà (niềm tin nơi Tam Bảo) như người
bạn đồng hành trung tín, Ngài thành tựu mục tiêu. Tất cả
những hình thức cụ thể lễ bái, thờ phượng là sở trường
của Tín Ðức Bồ Tát. Tượng Phật là một nguồn gợi cảm
quan trọng đối với Ngài.
Tinh
Tấn Bồ Tát thì luôn luôn tìm cơ hội để phục vụ kẻ
khác. Không có gì làm cho vị Tinh Tấn Bồ Tát hoan hỉ bằng
tích cực phục vụ. Ðối với các Ngài, "làm việc là hạnh
phúc, và hạnh phúc là làm việc". Không tích cực hoạt động
phục vụ thì các Ngài không có hạnh phúc.
Theo
Kinh sách thì con đường của bậc Trí Tuệ Bồ Tát ngắn nhứt,
Tín Ðức Bồ Tát phải trải qua một thời gian dài hơn, và
Tinh Tấn Bồ Tát còn dài hơn nữa". (Trích Ðức Phật và Phật
Pháp)
Tứ
Niệm Xứ là một phương pháp hành thiền dẫn đến trí tuệ
giải thoát, tự tánh nó không phải Thanh Văn hay Bồ Tát, tuy
nhiên nếu phải so sánh và xếp loại với Bồ tát đạo, thì
Tứ Niệm Xứ là một trong những con đường đi của Trí Tuệ
Bồ Tát.
|