Mục
Lục
Vài
lời cùng bạn đọc
Mở
đầu
01
Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh
02
Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông
03
Thiền và Tịnh Ðộ
04
Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo
05
Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ
06
Kết luận
07
Phụ Lục - Kinh Quán Niệm
Sách
Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng
trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ
Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications
of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung
Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.
1.
Vài lời cùng bạn đọc
Quyển
sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu
với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích
tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý,
đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
Ðức
Phật Thích Ca xưa kia do tu Thiền mà giác ngộ giải thoát.
Nhưng khi nói đến Thiền thì nhiều người hoang mang vì có
cả một rừng Thiền nào là Như Lai Thiền, Tổ Sư Thiền,
Thiền Ðốn Ngộ, Thiền xuất hồn, Thiền Yoga, Thiền Tây
Tạng, Thiền Zen... không biết theo ai bây giờ? Vì không ai
chỉ dạy nên người chán nản thì theo đại một phái Thiền
nào đó. Nếu là Thiền Phật giáo như Tây Tạng hay Zen thì
còn đỡ, nhưng nếu chẳng may rơi vào Thiền ngoại đạo thì
ôi thôi, không những uổng một kiếp này mà còn uổng cả
muôn ngàn kiếp sau, vì sai một ly đi ngàn dặm. Cổ nhân có
câu: "Thà đành ngàn năm không ngộ, không cam một phút sai
lầm".
Tứ
Niệm Xứ là một pháp hành Thiền do chính Ðức Phật xưa
đã đích thân chỉ dạy cho các đệ tử. Nhờ hành theo đó,
các đệ tử đã giải thoát đắc quả vô sanh (A La Hán). Những
người theo Ðại Thừa ngày nay thường bỏ qua và lãng quên
pháp môn này, cho đó là pháp Tiểu Thừa. Ðây là một điều
rất đáng tiếc.
Ðể
giới thiệu và giúp cho độc giả có một ý niệm về tầm
quan trọng của pháp này, tôi sẽ so sánh trong phần đầu Kinh
Tứ Niệm Xứ với Bát Nhã Tâm Kinh. Thiền Niệm Xứ hay Minh
Sát với Tổ Sư Thiền, và sau đó sẽ nói về phương thức
tu tập Thiền Tứ Niệm Xứ.
Vì
không ngoài mục đích giới thiệu sơ qua về "pháp hành" Thiền
Tứ Niệm Xứ, chắc chắn độc giả sẽ cảm thấy nó khô
khan, vô vị, không mấy hứng thú. Nhưng không có một sự
giác ngộ nào có thể có được nếu chính ta không chịu thực
hành, không chịu trở về quan sát nội tâm, theo dõi và ghi
nhận tất cả những hoạt động biến chuyển của thân tâm,
không chịu nương theo Giới, Ðịnh, Huệ mà tu tập. Các bạn
hãy suy nghĩ và tu tập theo Tứ Niệm Xứ, nếu thấy hợp và
đem lại nhiều chuyển hóa trong đời sống hàng ngày thì các
bạn hãy chịu khó lên đường tìm Thầy hoặc bạn để học
hỏi thêm, nếu ngược lại thì chắc bạn không có nhân duyên
rồi, tốt hơn là nên đi tìm phương pháp khác vậy.
Mùa
Thu năm Ðinh Mão 1987
tại
Thiền Ðường Sakyamuni, Montbéon.
Thích
Trí Siêu
2.
Mở đầu
"Tu
là cõi phúc, Tình là giây oan", "Ðời là bể khổ, Tu là giải
thoát". Nhưng tu là tu cái gì? Tu làm sao? Tu có phải ăn hiền
ở lành, ăn chay niệm Phật không? Hay phải vào chùa cạo tóc
xuất gia là tu chăng?
Ở
đây xin miễn nói về triết lý đạo Phật vì Kinh sách nói
về triết lý đạo Phật đã có rất nhiều, nhưng quy tụ
cũng không ngoài Tứ Diệu Ðế. Quý vị có thể tìm sách nghiên
cứu, hoặc là đến chùa thăm hỏi quý Thầy, quý Cô chỉ
cho.
Về
Tứ Diệu Ðế, trong các kinh sách thường nói như vầy: Khổ
đế là quả luân hồi. Tập đế là nhân luân hồi. Diệt
đế là quả Niết Bàn. Ðạo đế là nhân Niết Bàn. Chắc
chắn Tứ Diệu Ðế là chân lý cao thượng, nhưng theo tôi
nghĩ thì Ðạo đế quan trọng hơn cả. Vì chỉ có Ðạo đế
mới làm đạo Phật khác hẳn các đạo khác. Vì sao? Vì các
đạo khác cũng biết đời là khổ, biết tu hành để cầu
sự sung sướng, nhưng con đường đi của họ không thể đưa
tới sự giải thoát rốt ráo.
Khổ
thì chúng ta đã khổ rồi, nguyên nhân của khổ thì chúng
ta đã tạo rồi, Niết Bàn thì chưa đạt tới, chỉ có con
đường đưa đến Niết Bàn mà chúng ta cần và đang tiến
bước là hiện tại. Chỉ có giờ phút hiện tại là chúng
ta có thể sung sướng hay khổ đau, là tốt hay xấu mà thôi.
Ngày hôm qua anh B có thể đã giết bao mạng người, nhưng
ngày hôm nay đây anh đang cứu sống tôi. Nói như thế, độc
giả có thấy được tầm quan trọng của giờ phút hiện tại
không?
Nếu
thấy được chỉ có trong giờ phút hiện tại mà ta có thể
là một người hiền hay ác, sung sướng hay đau khổ, giác
ngộ hay vô minh, thì các bạn sẽ cảm thấy hứng thú hành
theo pháp Thiền này. Tu Thiền vì sao ít có người hành? Vì
đa số chỉ thấy ngày hôm qua và ngày mai thôi, họ ít thấy
hiện tại. Những người tu theo Tịnh Ðộ thì ỷ nương vào
tha lực của Phật A Di Ðà tiếp dẫn, sau khi chết sẽ về
Cực Lạc nên hiện tại không chịu tu tập quán chiếu nội
tâm để tu sửa tâm tánh. Người tu theo pháp môn tụng Kinh
thì chỉ ưa tụng những Kinh Ðại Thừa nổi tiếng như Pháp
Hoa, Niết Bàn, Hoa Nghiêm, Kim Cang... Mỗi khi đến chùa, có
ai hỏi độ này tu hành ra sao, thì trả lời: "Ðộ này tôi
tụng được 7 bộ Pháp Hoa, 4 bộ Niết Bàn..." rồi lấy đó
làm hãnh diện cho là mình tu nhiều. Kỳ thực tham, sân, si
ngã mạn của mình không giảm, mà có điều lại tăng thêm.
Ðến chùa thì chỉ hay ăn nói khoe khoang, khen Thầy này, chỉ
trích Thầy kia, thế này thế nọ...
Còn
Thiền thì sao? Tình trạng tâm lý của những người tu Thiền
có hơn gì người tu Tịnh Ðộ không? Người tu ngày nay chỉ
chuyên nghiên cứu Thiền, rõ biết lịch sử của chư Thiền
Ðức thuở xưa. Mỗi khi nói đến Thiền, thường đem ra kể
cho Phật tử nghe để rồi gieo cho họ ý nghĩ là Thiền dành
cho những hàng thượng căn thượng trí, còn thời nay mạt
pháp, chúng ta là hạ căn độn trí chỉ nên niệm Phật cho
chắc ăn. Những hành động, cũng như thành tích của các Thiền
Sư chứng ngộ đều có tính cách lạ kỳ, phá chấp, nên nhiều
người học Thiền thời nay đều hay bắt chước để rồi
tưởng mình cũng phá chấp, phá ngã, đó thật là một điều
tai hại và lầm lẫn. Là bậc Thầy, nên chỉ dẫn cho Phật
tử phương pháp hành Thiền, chứ đừng nên kể chuyện Thiền.
Dĩ nhiên khi nói về phương pháp hành Thiền thì thấy khô
khan và dễ làm người nghe chán nản, còn nếu kể chuyện
Thiền thì hấp dẫn và vui hơn. Ðó có khác chi một đàng
chỉ dẫn cách thức làm bánh, và đàng khác là tả sự ngon
ngọt của một cái bánh đã thành hình. Một đàng là nhân,
một đàng là quả. Người trí học tạo nhân vì biết quả
sẽ do đó tự thành, người thường chỉ lo biết quả bỏ
quên nhân. Ðức Phật xưa kia không nói nhiều về cảnh giới
của Niết Bàn, ngược lại, Ngài đã giảng dạy suốt 45 năm
về những phương pháp đưa đến giải thoát mà ngày nay chúng
ta quen gọi là Ðạo Phật.
Ðiều
sai lầm của một số người "tu Thiền" (hay là học Thiền)
thời nay là chỉ thích đem Kinh sách Thiền ra bàn luận và
giảng giải xuyên qua sự hiểu biết của mình, trong đạo
gọi đó là hý luận, hay là sở tri chướng.
Thay
vì nói nhiều về Thiền, một vị Thầy có thể bảo Thiền
sinh nhẹ nhàng ngồi xuống, bắt chéo chân theo tư thế bán
già hoặc kiết già rồi theo dõi hơi thở. Thay vì ăn uống
vội vã hấp tấp cho xong để còn lo đi làm việc khác, một
vị Sư có thể lặng lẽ, chậm chạp nâng tách trà lên uống
thong thả, đó là dạy Thiền một cách trực tiếp, không cần
dùng ngôn ngữ danh từ. Thay vì bắt một chú tiểu học thuộc
làu bộ Tỳ Ni, Oai Nghi rồi bắt chú trả bài có lệ trước
khi cho thọ giới, vị Thầy đó có thể kiểm soát trực tiếp
hoặc cho đệ tử biết giữ chánh niệm, làm việc thong thả,
chậm rãi, theo dõi từng cử động của thân thể v.v...Thiền
cần được thực tập trong đời sống hàng ngày chứ không
phải để bàn nói.
Những
người thanh niên tuổi trẻ, ưa chuộng đạo Phật lại thường
không hay đến chùa, không khí ở chùa không hợp với họ.
Họ là những người thích tự lực, không thích nương tựa
mãi nơi cha mẹ, muốn tạo dựng hạnh phúc với chính hai bàn
tay của họ. Ðến với đạo Phật, họ chỉ thích tu Thiền,
nói Thiền. Nhưng tu Thiền là tu làm sao? Tôi thấy có nhiều
người chỉ "quy y sách Thiền" chứ không quy y Tam Bảo (Phật,
Pháp, Tăng). Vì không thích lạy Phật, không biết Phật pháp
căn bản, không biết kính trọng chư Tăng. Có việc phải đến
chùa thì nghênh ngang, tự tại tựa như "Tổ Ðạt Ma", họ
bảo Thiền là phá chấp, "gặp Phật giết Phật, gặp Ma giết
Ma". Họ có biết đâu là đang gây cái nhân đọa địa ngục.
Tuy vậy ta cũng không nên trách cứ mà ngược lại nên cảm
thương họ thì đúng hơn.
Như
vậy nếu có người muốn tu Thiền thì phải làm sao? Phải
tu theo Thiền nào? Sách viết về Thiền tông tương đối có
khá nhiều, nhưng đa số viết về Thiền học, về văn chương
ngôn ngữ Thiền, về triết lý Thiền, về Thiền Trung Hoa...
Ở đây tôi muốn giới thiệu, hay đúng hơn là nhắc lại
một phương pháp hành Thiền do chính Ðức Phật Thích Ca đã
dạy cho các đệ tử, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
WP:
Diệu Hỷ