Chương thứ
ba
Thiền và Tọa
Thiền
I.
Thiền Lâm Tế
Như
trước đã trình bày, Thiền Lâm Tế là Thiền từ Đạt Ma
theo tinh thần bốn “tiêu thức” – “Giáo ngoại biệt truyền,
bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”.
Đó là sự thể nghiệm chứng đắc từ nội tâm, chẳng phải
là khái niệm, quan niệm hay giáo điều “Thần Ngã” phi lý
và cuồng tín. Nói cách khác, điều chính yếu vẫn là sự
thực hành.
Phương
pháp tu tập của Thiền Lâm Tế là toạ thiền. Thật ra không
riêng Lâm Tế, mà ở Tào Động, và Hoàng Bá, việc ngồi thiền
vẫn là trọng tâm, cho nên ở Trung Quốc, Thiền còn được
gọi là Toạ Thiền Tông, nói gọn là Thiền Tông.
Thế
nhưng, Lâm Tế Tông phân tách Thiền và Toạ Thiền ra làm hai,
mà cả hai chữ Thiền và Toạ Thiền đều là chữ Hán, có
nguyên ngữ tiếng Phạn là Dhyàna và tiếng Pàli gọi là Yana,
được các học giả Phật học người Trung Hoa dịch âm là
Thiền Na. Chữ Thiền Na là sự “an định của tâm”. Sau
nầy người ta gộp chung hai âm “Thiền Na” và “An Định”
thành “Thiền Định”. Nghĩa là mục đích của thiền định
làm cho thân và tâm an định. Trước thời đức Phật, tôn
giáo Ấn Độ cổ đại cũng dùng đến “Minh Tưởng Pháp”,
chính Đức Phật cũng đã từng theo học “Minh Tưởng Pháp”
nầy. Về sau, Thiền còn có mục đích và ý nghĩa khác hơn,
cho nên dù hành giả tu Phật đạo hay Bồ Tát đạo có lục
độ, nhưng trong đó thiền định là độ thứ năm.
Toạ
thiền để cho tâm được tập trung vào một chỗ. Từ xưa,
người Ấn kết hợp tinh túy của Yoga với tọa thiền để
điều thân và điều tâm, để chuyển hoá tất cả các phiền
não được giải thoát và cho rằng mục đích của ngồi thiền
cũng giống nhau dù ở đâu; cho nên một số hành giả hành
thiền một cách kỳ dị, chỉ có Đức Phật toạ thiền là
ngồi ngay thẳng như ngài đã toạ thiền tư duy dưới cội
Bồ Đề . Toạ thiền được nói tóm tắt còn một chữ Thiền,
và những môn phái hành thiền được gọi là Thiền Tông.
Tuy phương pháp toạ thiền không có gì thay đổi giữa các
hệ thống Thiền: Tào Động Tông và Lâm Tế Tông, nhưng sự
thực hành chuyển hoá Tâm theo tính cách đặc biệt của Tông
mình.
Ở
Tào Động Tông, toạ thiền được gọi “Chỉ Quán Đả Tọa”
là không cần chú trọng đến mục đích, chẳng lưu tâm đến
ý nghĩa, cũng chẳng đòi hỏi điều kiện, chỉ có một việc
ngồi Thiền mà thôi. “Chỉ Quán Đả Toạ” có nghĩa là
“Ngồi Thiền vì ngồi Thiền; Ngồi Thiền để ngồi Thiền”
cho nên trong khi ngồi Thiền, tâm linh diệu hoạt động, gọi
là “Mặc Chiếu Thiền”.
Khác
với “Mặc Chiếu Thiền” của Tào Động Tông, Lâm Tế Tông
có “Khán Thoại Thiền” khi toạ Thiền. “Khán Thoại”
nghĩa là phải dụng công quán chiếu “cổ tắc” và “công
án”. “Cổ tắc” nghĩa là người xưa thường dùng ngôn
ngữ và câu văn để biểu thị về tư tưởng Thiền. Ý nghĩa
chính của từ “Công án” được dịch là “Dịch Sở”
hay “Công Phủ” nơi đưa ra những phép tắc và công lệnh.
Chữ “Công” có nghìa là một pháp lệnh, mà không nệ tình
riêng để dung thứ bất cứ ai, giống như “Cố Tắc” những
nguyên tắc của người xưa. Đó là biểu thị vấn đề tuyệt
đối của Tâm Thiền. Vì ý nghĩa của hai chữ “Cổ Tắc”,
kẻ học Thiền không thể giải thích theo tính cách học vấn;
cho nên “Cổ Tắc” cũng gọi là “Công Án”. Phương pháp
Toạ Thiền của Lâm Tế và Tào Động có chút sai khác về
chỗ ngồi Thiền và dụng công quán chiếu như thế.
Về
“Công Án” nếu dùng số học để minh giải vấn đề, đầu
óc sẽ dao động, chẳng phải cách khảo sát tiến trình hiểu
biết. Hiểu biết của người xưa, nếu được giữ đến
bây giờ và ngày sau, dù đạt được đến chỗ rõ ràng tuyệt
đối đi nữa, hiểu biết của mình vẫn là tương đối, bởi
vì dù có làm cách nào đi nữa, chúng ta vẫn không thể vượt
qua được. Vì thế tất cả mệnh đề được gọi là “Công
Án” đều có nội dung vô cùng phi lý, không thể giải thích
và rất đau đầu!
Dùng
“Công Án” khi toạ Thiền là tự mình nỗ lực để trở
thành một thực thể, được gọi là công phu. Công phu của
ngồi Thiền chẳng phải đầu óc suy nghĩ mà là dụng công
cả thân và tâm để sao cho chính mình và công án là một.
Mỗi
lần tham Thiền, gọi là: “Nhập Thất Tham Thiền”, hành
giả nhận “Công Án” từ vị Thầy (Thiền sư) của mình
để quán chiếu rồi trình kiến giải lên Thầy khi đã liễu
ngộ và được Thầy ấn chứng sự tỏ ngộ công án như thế
nào, khi Thầy thẩm định xong. Đây được gọi là “Thiền
Công Án” hay là “Thiền Khán Thoại” của Thiền Lâm Tế.
Theo truyền thống Lâm Tế Tông, trước khi tham thiền, vị
Thầy gọi từng người một vào phòng, trao công án để dụng
công quán chiếu. Giống như Tào Động Tông, toạ thiền cũng
còn gọi là tham thiền.
Ở
đây, đặc biệt chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa và phương
diện khác về “vấn đề ngồi” như thế nào?
Trong
chữ Hán người ta viết chữ Toạ gồm có hai chữ nhân hai
bên và chữ thổ ở giữa. Về hình tượng, như hai người
đứng xếp hàng trên mặt đất. Trong đó một người thì
biểu thị chính mình, một người biểu thị cảm tính thay
đổi di động bằng cảm tình. Phải chăng đây là nhân cách
hoá não tuỷ của con người. Đại não thuộc về bản năng
không tình cảm. Còn tự ngã thuộc về tâm linh có tính chất
cảm tính.
Ishigawa
Taki nói rằng: “Được gọi là người, khi tâm và thân là
một. Tuy nhiên khổ đau hiện hữu, khi con người hoạt động”
Chữ
Toạ còn được nhân cách hoá thêm một người nữa đó là
tác dụng tình cảm và của não bộ, được gọi là “Tự
Kỷ Bản Lai”. Tự ngã có tính cách cảm tính và bản lai
là cả hai người đồng ý hợp lại ngồi xuống. Trọng tâm
của vấn đề ngồi xuống ấy như nhà thơ Thiên Chúa Giáo
Hachiki Kaneichi viết rằng:
Tôi
đã sai,
Tôi
đã sai,
Như
ngồi trên cỏ,
Thì
sẽ hiểu được.
Thơ
ấy chỉ có toạ thiền mới có thể rõ biết được! Thế
nhưng, đã cho rằng Tự Kỷ Bản Lai và Tự Ngã thuộc về
cảm tính, mà nói rằng Thiền để “hiểu” tức là chưa
thể lý giải đối tượng tri thức có tính cách khách quan.
Vì đối tượng của Thiền vượt khỏi phạm vi nhận thức
tương đối. Chẳng phải thấy tự kỷ mà thấy chính mình.
Thấy chính mình mới cắt đứt hoàn toàn mọi nhận thức
để đạt được trí tuệ tuyệt đối.
Tiến
sĩ Nishisa Ichitaroo nói rằng: “Tận cùng của Tâm Thức là
bình yên an lạc, đồng thời cũng là sóng gió ưu phiền. An
lạc và phiền não là sự giao cảm giữa tự ngã và cảm tính.
Khi chúng được chôn sâu ở cõi lòng, nên gọi là an lạc.
Ngược lại lúc hiển hiện, thì sinh ra phiền não. Nhưng ai
thấy được cái bản tâm, bản tánh, sẽ không than van oán
trách. Còn thông thường, khi cảnh dao động thì tâm không
yên. Tuy nhiên, khi tâm dao động vẫn còn chút bản tánh thanh
tịnh nằm yên ở dưới đáy.
Thiền
Đạt Ma được Lục Tổ Huệ Năng tiếp nối thành công. Phổ
hệ Thiền được gọi là Tổ Sư Thiền từ Đạt Ma đến
Huệ Năng. Sau đây xin nghiên cứu lời dạy của Huệ Năng
về Tâm Thiền
II.
Tâm Thiền
Ngài
Huệ Năng viên tịch, những đệ tử của Ngài ghi lại những
giải nghi và ngữ lục của Ngài thành quyển “Pháp Bảo Đàn
Kinh” còn gọi là ”Lục Tổ Đàn Kinh”. Từ đấy, chủ
trương Tông Chỉ căn bản của Thiền Nam Truyền của Huệ
Năng càng ngày càng sáng tỏ hơn. Đặc biệt về Toạ Thiền.
Trong “Ngộ Tánh Luận” của Huệ Năng có chương thuật như
sau:
Toạ
- chiêm nghiệm đổi thay của cảnh giới bên ngoài.
Thiền
- thấy rõ dao động của tự tánh bên trong.
Thật
sự, trong đời sống của chúng ta, tâm duyên theo cảnh bên
ngoài mà chấp trước khởi lên, Ngài Huệ Năng gọi là Toạ.
Tin rằng ở tận nơi sâu thẳm của tâm hồn mình vẫn có
Phật tánh sáng ngời ngự trị, Ngài Huệ Năng gọi là Thiền.
Phật
tánh có thể gọi bằng những từ khác như là Phật tâm hay
trí tuệ, nhưng tất cả đều là “Phật”. Lâm Tế gọi
là “Chân nhân“, khả năng tánh để thành Phật. Ai ai trên
thế gian nầy cũng đều có Phật Tánh. Với tông chỉ nầy
rõ ràng Thiền là Phật Giáo Đại Thừa chẳng cần lý giải
gì nữa. Ngoài ra, “Tự Tín” trong Phật Giáo chẳng mang ý
nghĩa tầm thường của thế gian là tin vào năng lực siêu
nhiên và giá trị trí tuệ của chính mình, mà là tin tưởng
vào chân lý, mà chân lý ấy được khởi lên từ nơi Phật
tánh của chính mình một cách viên mãn.
Tổ
Huệ Năng tin tưởng tuyệt đối rằng là trong bản tánh riêng
của mỗi người có Phật tánh nên gọi là Thiền. Ở đây
có sự phân biệt rõ ràng giữa Toạ Thiền và Thiền. Gọi
là Toạ bởi vì từ Tổ Huệ Năng đến với chúng ta, vẫn
còn đó những tâm duyên ngoại trần, chưa hề giảm bớt.
Gọi là Thiền bởi vì ngay khi sanh ra, ai ai cũng có Phật Tâm
trọn vẹn, một khi đặt niềm tin vào Phật tâm, sẽ được
tỏ ngộ bản lai bất động.
Thiền
sư Chyuhoo vào thế kỷ thứ 14 ở Trung Quốc, đã công nhận
quan điểm của Huệ Năng và xác chứng rằng: “Thiền là
dụng của Tâm và Tâm là thể của Thiền” Thể ở đây là
bản chất của Thiền. Thật ra, không có sự sai biệt giữa
Thiền và Tâm. Kế thừa và mở rộng quan điểm của Thiền
sư Trung Phong, những bậc hậu bối phái Thiền Nhật Bản như:
Batsusui , khai sơn chùa Hướng Ngục, thuộc Diệm Sơn, ở Giáp
Châu cho rằng:
“Trung
Phong gọi Thiền là Tâm, bởi vì thật là bình đẳng, ai ai
cũng có thể học Thiền. Gọi Tâm là Thiền bởi vì chính
mình phải tự học cái bản thể của mình, chẳng có gì khác
hơn”
Quan
niệm ấy lại một lần nữa được Thiền sư Đạo Nguyên,
Tào Động Tông xác nhận rằng:
“Học
Phật có nghĩa là học ở chính mình và công án là Chánh Pháp
Nhãn Tạng”.
III.
Ngồi Thiền
Ngồi
Thiền là một pháp môn hướng dẫn làm sao đạt được an
lạc: thân an và tâm an. Do vậy, chẳng cần khổ hạnh hay là
thực hiện những phương cách khó khăn, mà là ngồi xuống
một cách tự nhiên, thoải mái. Thật hoàn toàn khác nhau rất
xa giữa phương pháp ngồi thiền của người Ấn cổ đại
và người Nhật ngày nay dù đôi khi hành giả cũng phải đối
diện với những sự đau đớn trong khi ngồi.
Ví
dụ một người thấy người khác ngồi thiền tưởng là họ
đang đau khổ lắm; nhưng thật sự người ấy vì muốn cho
thân thể thoải mái nên ngồi xuống xếp bằng chân lại hành
Thiền. Có người dù biết rằng Thiền không phải là khổ
hạnh, nhưng chẳng dám ngồi. Người tu nhất định phải ngồi
Thiền.
Dù
Tào Động Tông lẫn Lâm Tế Tông ở chung trong chùa và học
chung với nhau, nhưng vẫn có những điều sai khác giữa hai
tông phái, chẳng phải vì vấn đề hình thức tốt, xấu bên
ngoài mà là nội dung thọ nhận giáo pháp, phương thức hướng
dẫn và sự thực hành Thiền định rất khác nhau giữa Lâm
Tế và Tào Động. Tác phẩm “Tôn giáo của chúng ta – Tào
Động Tông” của Thầy Đông Long Chơn, như có ghi lại phương
pháp hành Thiền của Lâm Tế. Tác phẩm “Toạ Thiền Nghi”
và nhiều tác phẩm khác cũng nói đến vấn đề ngồi Thiền.
Tác phẩm “Thiền Uyển Thanh Quy” của Tông Lâm Tế, phần
“Toạ Thiền Nghi” chép như sau:
Trước
cửa Thiền Đường
-“Đứng
ngay ngắn trước cửa Thiền Đường, hai tay chắp lại xá
một xá, chắp tay trên ngực chầm chậm tiến vào bên trong
Thiền Đường. Đến đứng trước cái đơn của mình.
Cái
đơn ngồi thiền
- Hãy
xá trước cái đơn một xá, từ từ xoay lưng ngồi xuống,
bắt chân phải lên.
-
Xá trước đơn sau đó xoay lưng ngồi
Cách
ngồi xếp bằng hai chân.
- Cách
ngồi xếp chân
-
Chân phải bỏ lên chân trái; sau đó chân trái bắt bỏ lên
chân phải, là kiết già phu toạ. Bàn chân đặt thật ngay.
Kiết
già phu tọa
- Nếu
không thể ngồi kiết già phu toạ được, nên ngồi theo lối
bán già phu tọa đơn giản hơn. Chỉ để chân trái lên chân
phải; hoặc là chân phải lên chân trái thôi.
Bán
già phu tọa
Cách
để tay: Tay phải đặt lên trên bàn chân và tay trái đặt
chồng lên bàn tay phải. Cả hai ngón tay trỏ phải cung lại
thành hình tròn và nhẹ nhàng đặt ngay lên phía trước.
- Hai
ngón trỏ cung tròn
-
Hai bàn tay để nhẹ nhàng lên phía trước
Cách
điều chỉnh thân thể: Trước tiên xoay nhẹ phân nữa phần
thân bên trên qua bên phải, bên trái, phía trước, phía sau
nhiều lần. Tâm đưa xuống đặt dưới rốn.
- Điều
chỉnh thân ra phía trước rồi phía sau
-
Xoay động thân xong, thì nửa thân bên trên ngồi thật thẳng.
Đầu thẳng lên trần nhà, giữ khí lại; lưng thẳng; hai môi
nhẹ nhàng khép lại; lưỡi đưa lên trên và mắt khép một
nửa nhìn về hướng mũi (hoặc giả mắt nhìn xuống phía
trước cách 1 mét).
- Xoay
nhẹ thân bên trên sang phải và sang trái
Không
có gì trở ngại khi mắt nhắm nghiền hoặc mở ra. Nhưng nên
bắt chước phương thức “bán nhãn”của tượng Phật hay
Bồ Tát mà chúng ta thường chiêm ngưỡng. Thật ra, đóng nửa
con mắt lại thì khí tan ra ít. Một nửa con mắt nhìn ra bên
ngoài; một nửa còn lại soi thấu trí tuệ bên trong của mình.
Cho nên người xưa nói rằng: “Trong Phật nhãn, muôn vật
bừng sáng”.
Thân
thể sẽ không còn bình thường khi chân bị tê cứng. Khi mới
ngồi thiền, Tôi (tác giả) được những vị tiền bối hướng
dẫn rằng lúc đó đầu nên nhìn lên trần nhà và miệng mở
ra; quán rằng có cái gì rơi vào miệng rớt ngay xuống bụng
phát lên thành tiếng, mới ngồi thẳng lại.
Bụng
trướng lên và thân thể cứng đơ khi mới bắt đầu ngồi
Thiền là việc vô cùng cấm kỵ. Nếu gặp trường hợp ấy,
nên buông lực từ hai vai xuống và giữ hơi thở bình thường.
Khi lực ở hai vai buông rồi, hơi thở tạo thành một đường
thẳng từ mũi rốn và trái tim là được.
Cách
điều chỉnh hơi thở
Điều
chỉnh thân thể được rồi, phải yên lặng như một người
cảnh giác và thở ra bằng miệng cho hết không khí trong bụng
rồi từ từ hít vào bằng mũi; sau đó trong Tâm đếm một.
Từ khi hít vào và thở ra sau đó trong tâm đếm hai, ba... cho
đến mười. Rồi trở lại đếm một. Giữ hơi thở ra vào
và đừng cho tâm tán loạn.
Phương
pháp nầy gọi là “sổ tức quán”.
Thật
ra, không phải để tâm đạt được “vô nhiễm, vô tưởng”,
chúng ta phải tự đếm hơi thở của chính mình, một cách
cẩn trọng, mà đếm hơi thở là Thiền. Dù là đếm hơi thở
là một công việc rất đơn giản, nhưng thật tế không dễ
dàng hành trì chút nào, bởi vì tâm tán loạn trong khi đang
đếm hơi thở thì sổ tức quán bị gián đoạn. Tuy nhiên
không nên bận tâm cứ bắt đầu trở lại một, hai .....cho
đến một lúc nào đó tâm trở nên an tịnh. Đừng thất vọng!
điều cần yếu là nên thực hành một cách liên tục
Cách
điều chỉnh tâm
Thực
hành như trên, tâm sẽ lắng đọng xuống một cách tự nhiên.
Từ đó vấn đề điều chỉnh tâm không còn khó nữa. Nếu
nhận công án từ vị Thầy mình, phải nghĩ rằng công án
ấy và chính mình đồng một thể, không khác. Cũng tốt, nếu
dùng sổ tức quán trước khi vào quán công án bởi vì dù
có thể chưa đạt được sự giác ngộ liền nhưng tâm mình
đã sáng hơn cho đời sống mới.
Nghi
thức Toạ Thiền
Tìm
ngọc phải chờ sóng yên. Sóng còn dao động dữ dội, việc
tìm châu báu khó mà thực hiện. Sóng yên, nước lặng viên
ngọc hiển bày ra thôi. Kinh Viên Giác cho rằng “trí huệ
thanh tịnh vô ngại chỉ hiển bày khi Tâm an định”. Nước
càng trong và càng lắng sâu tận đáy thì châu ngọc càng dễ
được tìm thấy. Tâm càng yên tịnh thì ngọc quý trong tâm,
trí huệ Phật càng hiện ra một cách rõ ràng, tự nhiên. Ấy
chính là viên ngọc của Toạ Thiền.
Ngồi
Thiền xong
Khi
vào Thiền gọi là “Chỉ Tịnh”. Khi ra Thiền gọi là “Xuất
định” và cũng gọi là “Kinh hành”. Khi xả thiền, việc
trước tiên xoay thân mình nhiều lần rồi mới đứng lên.
Ra khỏi thiền đường hai tay chấp lại để trước ngực
và từ từ bước đi.
Khuyến
tấn
Người
hướng dẫn Thiền nên nhắc nhở phương pháp thọ nhận cảnh
sách nơi đạo tràng. Khi ngồi Thiền, bài “cảnh sách tâm”
thường được đọc như thế nầy:
“Bây
giờ chưa tu, bao giờ điều được thân nầy.”
Trong
đời, tư cách làm người chưa xong, bao giờ mới làm được
đây?”
Toạ
Thiền vẫn là việc chính của hành giả tu theo Lâm Tế Tông,nhưng
chỉ ngồi xuống hai chân xếp bằng, đếm hơi thở chưa thể
gọi là Toạ Thiền, mà phải hành Thiền ngay trong mọi sinh
hoạt của đời sống hằng ngày.