Chương
thứ nhất
Phổ Hệ Thiền
I.
Đức Thích Ca, Ngài Đại Ca Diếp và A Nan
Khi
được nhiều người gọi rằng “Thiền sư” phản ứng tự
nhiên của tôi (tác giả) rằng “Vâng! Đúng thế”. Sở dĩ
tôi phản ứng như vậy, vì trong Phật Giáo, có nhiều Tông
phái mang Tông chỉ khác nhau. Chỉ riêng Thiền Tông, dù là
một Giáo Đoàn, nhưng danh nghĩa chẳng phải PHÁP NHÂN TÔN
GIÁO Thật sự, từ trước đến nay ở Trung Quốc cũng như
ở Nhật Bản, có một sự việc thật hiển nhiên là các tông
phái như: Tào Động, Lâm Tế, Hoàng Bá đều nằm trong phổ
hệ Thiền, gọi là Thiền Tông. Vấn đề hấp dẫn nhất,
mà các bậc tri thức tư duy thấy rất rõ là những tác phẩm
Thiền rất nổi tiếng ở Trung Quốc ngày xưa như: Thiền Tông
Vô Môn Quan; Thiền Tông Vô Tận Đăng Luận đã làm cho Thiền
Tông nổi danh và trở thành tông phái đặc biệt.
Thiền
Lâm Tế nói riêng và Thiền Tông nói chung đương nhiên đều
đặt trên nền tảng những lời dạy của đức Thích Tôn.
Sự truyền thừa của Thiền từ Trung Quốc đến Nhật Bản
từ trước đến nay mang đến niềm tin rằng có một thời
pháp tại núi Linh Thứu đức Thế Tôn dành cho những vị đại
đệ tử Ngài đang vây quanh. Dù ai cũng chờ mong được lãnh
hội lời dạy gì đó của Phật nhưng đức Phật chẳng nói
lời nào. Bỗng nhiên, trong thính chúng có một người mang
một cành hoa sen màu vàng dâng lên cúng Phật. Nhận cành hoa
ấy, đức Thế Tôn đưa lên trước chúng chẳng nói lời nào.
Không ai hiểu được ý Phật muốn nói gì cả mà Phật cũng
im lặng. Chỉ có Ngài Ma Ha Ca Diếp, một trong mười đại
đệ tử, ngồi bên đức Thế Tôn hiểu được ý Phật, mĩm
cười và đón nhận cành hoa đức Phật trao cho. Thế là, đức
Thế Tôn đã truyền tâm giác ngộ cho Ngài Ma Ha Ca Diếp. Ngài
nói rằng:
- Nay
ta trao cho Ma Ha Ca Diếp điều cốt lõi của Phật Pháp , đó
là tâm chơn thật chẳng diệt , tướng chân thật; hoàn toàn
xa lìa mọi sự đối đãi. và Pháp Môn mầu nhiệm , không
lệ thuộc vào ngôn ngữ văn tự . Với tâm giác ngộ truyền
qua tâm hãy lãnh hội và giữ gìn”
Câu
chuyện đó được lấy ra từ kinh “Đại Phạm Thiên Vương
trình nghi vấn lên Phật” và trong các sách Thiền như: Vô
Môn Quan . Thật ra, không thấy sự tích đó trong kinh bằng
Phạn ngữ nên có thuyết cho rằng có thể những nhà học
giả Trung Quốc đã nguỵ tạo sau nầy. Song với Thiền sinh,
dù lịch sử thật hay không thật không quan trọng. Câu chuyện
ấy cho thấy có một sự truyền thừa từ Thầy qua đệ tử,
rất thiết thực, không riêng tư, không bí mật như quan hệ
giữa người với người. Dẫu hoài nghi hay không sự kiện
lịch sử ấy trong kinh điển, thì việc Thầy truyền cho đệ
tử; rồi đệ tử tiếp nối mạch pháp truyền lại đệ tử,
từ tâm nầy truyền cho tâm khác là sự thật diễn ra từ
trước cho đến bây giờ. Có thể sự truyền thừa mạng mạch
Phật Pháp ấy đã phô diễn dưới dạng một câu chuyện Thiền
đọc để biết. Từ đó công án “Thế Tôn Niêm Hoa” hình
thành.
Trong
Thiền môn, “Ngọn đèn Thiền” được truyền nhận cho nhau
giữa Thầy và Đệ tử. Sự truyền nhận đèn Thiền nầy
là bài Pháp nhiệm mầu. Ánh sáng đạo Pháp như ngọn đèn
xua tan bóng tối truyền nhận từ Thầy đến đệ tử theo
phương pháp “Dĩ tâm truyền tâm” trong đồng nhất thể,
ở đấy cả Thầy và đệ tử đã trải qua hành trì để
đạt
được Chân lý tuyệt đối, cuối cùng Thầy xác chứng cho
Đệ tử việc lãnh hội chân lý ấy, qua kinh nghiệm tu tập
của mình. Thời Phật, giáo đoàn có 10 vị Đại Đệ Tử,
nhưng trước sự việc Phật cầm cành hoa đưa lên cho từng
vị một, mỗi vị đều bị giới hạn trong sự tư duy riêng
không đủ năng lực lãnh hội toàn diện. Cả Ngài Xá Lợi
Phất, Trí Tuệ Đệ Nhất; Ngài Phú Lâu Na Thuyết Pháp Đệ
Nhất cũng đều bị loại. Thật thế, Đức Thế Tôn không
trao cốt tủy Phật Pháp cho quý ngài Xá Lợi Phất, ngài Phú
Lâu Na đã đành, ngay cả Ngài Tu Bồ Đề, Giải Không Đệ
Nhất cũng chẳng được truyền thừa. Chỉ có Ngài Ma Ha Ca
Diếp, Đầu Đà Đệ Nhất mới lãnh hội được ý nghĩa cao
siêu nầy.
Chữ
“Đầu Đà” nghĩa là tu hành cả thân lẫn tâm để xa lìa
thế giới tham dục và não hại. Có tất cả 12 hạnh đầu
đà khác nhau thường được biết là hành giả dùng đức
từ bi để nuôi dưỡng pháp thân, thiểu dục tri túc, không
màng chuyện ăn, mặc và ở. Người hành hạnh đầu đà thường
đeo cái túi vải đầu đà trước ngực trong đó đựng y áo,
bình bát và tất cả đồ vật dụng vào cổ; mà hiện nay
chúng ta còn thấy nhiều Thiền sinh vẫn làm như vậy.
Ngài
Ma Ha Ca Diếp , Đầu Đà Đệ Nhất, thuộc dòng dõi Bà La Môn,
một giai cấp tối cao trong xã hội Ấn Độ thời xưa. Có
rất nhiều vị Bà La Môn như ngài Ca Diếp gia nhập vào giáo
đoàn của đức Phật, nhưng chỉ có Ngài, một bậc Trưởng
Lão được tôn xưng là Đại Ca Diếp. Y phục của Ngài lúc
nào cũng rách rưới nên Ngài thường bị khinh miệt, song bao
giờ Ngài cũng được Thế Tôn quý mến, đôi khi còn được
nhường cho nửa tòa ngồi nữa. Chính hình ảnh “nửa tòa
ngồi” là cơ sở căn bản của sự thừa nhận và tiếp nối.
Đang cùng với giáo đoàn của mình hoằng pháp xa, nghe hung
tin Phật nhập Niết Bàn, Ngài Ma Ha Ca Diếp vội vã quay trở
về hầu kim quan Phật. Sau đó, Ngài thỉnh chư môn đệ ngồi
lại với nhau, cùng nghe lại những lời dạy của đức Thế
Tôn. Sự việc nầy gọi là kết tập đầu tiên, cũng có thể
nói là Hội Nghị Biên Tập. Ấn Độ thời đó đã có văn
tự; nhưng với đạo, dùng chữ nghĩa thông thường để chép
lại những lời dạy linh thiêng và cao vời của Phật là một
sự xem thường kinh điển. Cho nên không dùng văn tự ghi chép
mà chỉ tụng đọc lại. Những vị đại đệ tử Phật trùng
tuyên và đại chúng điều chỉnh nếu thấy có điểm nào
sai trái mà thôi. Kết tập xong, Ngài Ma Ha Ca Diếp truyền trao
cốt lõi của Thiền mà Ngài đã nhận được từ đức Phật
cho Ngài A Nan, rồi vào núi Kê Túc ở phía đông nam Gaya, xứ
Ma Kiệt Đà, miền Trung Ấn Độ ẩn tu.
II.
Ngài Đạt Ma, Huệ Khả và Huệ Năng
Kể
từ thời Đức Thế Tôn đến Ngài Ca Diếp, rồi Ngài A Nan
Pháp Thiền được truyền trao qua hình thức “Tư Sư Tương
Thừa”. Có tất cả 28 đời Thầy truyền cho Đệ Tử. kể
từ Phật cho đến Tổ Bồ Đề Đạt Ma, người đầu tiên
mang đèn Thiền từ Ấn Độ sang Trung Quốc, được gọi là
Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa. Sẽ có sự bình giải tư tưởng
Thiền của Đạt Ma hẳn hoi ở sau, song tiểu sử Ngài Đạt
Ma sinh ra khi nào, ở đâu? viên tịch lúc nào? cho đến nay
vẫn không rõ ràng. Đại khái chỉ biết Ngài là vương tử
thứ ba của một vị Vua ở Nam Thiên Trúc (Ấn Độ cũ) dường
như viên tịch khoảng năm 527. Truyền thuyết nầy không đúng
lắm! Có rất nhiều ý kiến khác nhau về Ngài Đạt Ma, nhưng
tiểu sử thời niên thiếu của Tổ được kể lại như sau:
“Thân
phụ của Tổ vốn là người Nam Ấn là Vua nước Hương Chí,
giàu từ tâm và rất nhiệt thành với Đạo. Là đệ tử tại
gia và học Thiền với ngài Bát Nhã Đa La, Tổ Sư đời thứ
27 của Thiền Tông truyền từ Ngài Ca Diếp. Một hôm Vua đem
viên ngọc quốc bảo cúng dường cho Tổ Bát Nhã Đa La. Tổ
đưa ra cho các vương tử xem ngọc quốc bảo. Chỉ có vương
tử thứ ba nói lên quan điểm của mình, trong khi hai người
anh chẳng biết một chút giá trị nào của viên ngọc quý
cả! Vương tử nói:
- Dù
viên ngọc quý thật, nhưng cũng có thể bị ăn trộm lấy
mất, bị nước cuốn trôi, bị lửa làm xấu, thế thì đâu
phải là ngọc. Được gọi là ngọc phải là cái gì mà kẻ
trộm không lấy được, nước không trôi được và lửa không
phạm vào được
Nghe
như vậy, Tổ Bát Nhã Đa La ưng ý và thử lòng vương tử:
- Đúng!
Nhưng ở trong đời, có loại ngọc nào là chơn thật không?
Nghe
hỏi, vương tử trả lời rằng:
- Có.
Ngài
Bát Nhã Đa La tiếp hỏi:
- Ở
đâu?
Vương
tử tự chỉ vào ngực và nói rằng:
- Đây!
Chính nơi đây!
Tổ
Bát Nhã Đa La rất cảm động nhận vương tử làm đệ tử
xuất gia, sau nầy trở thành Đạt Ma.”
Có
thể câu chuyện nầy do người đời sau tạo thành, nhưng câu
chuyện nói lên chơn tướng của Ngài Đạt Ma với tâm cần
cầu học hỏi về Thiền rất bình dị. Dù được kính thờ
là Sơ tổ Thiền nhưng với người bình dân vẫn tôn xưng
Ngài là ông Đạt Ma một cách thân tình và dung dị. Bích Nham
Tập ghi rằng:
“Sau
khi hoá độ Vua Lương Võ Đế, Tổ Đạt Ma đến tỉnh Hà
Nam vào núi Tung Sơn, trú tại chùa Thiếu Lâm, mặt quay vào
vách toạ thiền bất động suốt chín năm dài, gọi là CỬU
NIÊN DIỆN BÍCH. Nghe tin có một bậc tu hành kỳ đặc như
thế, Thần Quang tìm đến nơi Tổ Đạt Ma vào một ngày mùa
đông, với hy vọng được Tổ thâu nhận. Suốt mấy ngày
trôi
qua, Tổ vẫn an nhiên toạ Thiền, mặt quay vào tường và Thần
Quang kiên nhẫn đứng mãi bên ngoài . Tuyết bắt đầu rơi,
Tuyết phủ cao dần cao dần lên đến đầu gối nhưng Thần
Quang vẫn đứng yên không lùi. Tổ cất giọng nói đầu tiên
hỏi rằng:
- “Con
đến đây để cầu gì?”
Biểu
lộ sự tha thiết cầu đạo của mình, Thần Quang vung gươm
chặt đứt cánh tay trái của mình và nói:
- “Tâm
con không an. Mong ngài an tâm cho con”
Lời
thỉnh nguyện ấy “Cảnh Đức Truyền Đăng Lục” tường
thuật lại như thế. Ghi lại sự kiện nầy để người sau
hình dung việc làm của một bậc vĩ nhân phi thường. Thật
ra, Tổ phải đọc được cái ý chân thành của kẻ tâm không
an ấy, mới cảm được không an nơi tâm, mà ra tay tế độ.
Trước
sự yêu cầu tha thiết đó Tổ Đạt Ma đề nghị:
-“Được!
Đưa tâm của con đây, Thầy an cho”
Nói
như vậy; nhưng có cái tâm nào đâu mà mang đến. Tìm tâm
không có, Thần Quang dâng cánh tay trái vừa chặt ấy lên Tổ
và nói trong tuyệt vọng thảm thương:
- Con
tìm nhưng chẳng thấy
- Thầy
đã an tâm cho con rồi đó
Chỉ
một lời của Tổ vậy thôi, bao nhiêu sự não phiền trong
tâm hồn u ám của Thần Quang liền được soi sáng. Nỗi niềm
tha thiết cầu đạo nhưng chẳng được, làm cho Thần Quang
tuyệt vọng đến cùng cực, song vừa nghe lời Tổ “Đưa
tâm của con đây Thầy an cho”, tâm Thần Quang liền được
khai mở và lãnh hội cốt tuỷ Thiền Pháp Đạt Ma. Đây chẳng
phải là quan niệm, mà là kinh nghiệm thật chứng của đạo.
Kinh nghiệm ấy là đứng trong tuyết lạnh, chặt cánh tay để
biểu lộ trạng thái tha thiết cầu đạo nơi tâm. Thật là
sai lầm, hiện nay có nhiều kẻ tâm bất an, tìm cầu cách
an tâm, nhưng chỉ muốn đem cái tâm an vào một chỗ mà thôi.
Làm sao dùng hơi thở để đem tâm an vào một chỗ đặt biệt
nào đó được. Từ trước đến nay, có thể cho đến mai
sau dù thời gian nào đi nữa, vẫn không ai có thể nắm bắt
Tâm mình được, và không ai ngoài mình có thể tìm thấy Tâm
mình được. Đó không phải là quan niệm, mà là kinh nghiệm
thật chứng. Tự mình biết chỉ tự mình an cho tâm mình.
Thiền
Phái Bồ Đề Đạt Ma chú trọng việc hành trì và loại bỏ
dần những quan niệm. Nếu ai chỉ nghiên cứu ngôn từ và
văn tự trong kinh điển thì khoảng cách giữa quan niệm và
thực hành vẫn là xa lắm.
Như
trình bày ở trước, sau khi phái Thiền Đạt Ma truyền đến
nhị Tổ Huệ Khả vào cuối năm 574 Vua Vũ Đế nhà Bắc Chu
đàn áp Phật Giáo Trung Hoa một cách mãnh liệt: Phật tượng
bị đập; Chư Tăng hoàn tục, hoặc làm nông dân, hoặc làm
binh lính; Chùa, Viện bị tịch thâu hoặc làm nhà cho người
quý tộc, hoặc làm nơi tập luyện quân đội; Kinh điển bị
đốt v.v.., làm cho Tổ Huệ Khả phải rời Trường An, nổi
trôi đến tận lưu vực sông Dương Tử. Tổ cùng với các
thiền sinh ẩn náu trên núi Chung Nam. Ở trong núi, không có
Kinh điển, không có Phật tượng nên không có lễ bái, chỉ
ngồi Thiền trên tảng đá hoặc dưới gốc cây, ăn trái cây,
uống nước suối, chờ mong Phật Pháp sớm được phục hoạt.
Thế nhưng ai cũng tin Phật ở trong tâm gọi là Phật Tâm,
phải tự giác tấn tu để khai phát Tâm Phật.
Trước
hoàn cảnh bị đàn áp như thế, cộng với sự biến đổi
thời cuộc của đất nước Trung Hoa, Thiền Tông trở nên
nổi tiếng, được nhiều người biết đến như Kaneda đề
cập trong chương “Phật Giáo tại gia” trong tác phẩm “Sự
thành lập Thiền Trung Quốc” của ông.
Đặc
biệt nhờ Tổ Huệ Khả ẩn nhẫn qua cơn Pháp nạn mà Thiền
Pháp Đạt Ma được nối truyền cho Tổ Tăng Xán . Nếu đối
với Thiền Tông Trung Hoa, Ngài Bồ Đề Đạt Ma là Sơ Tổ,
Ngài Huệ Khả là nhị Tổ và Ngài Tăng Xán là tam Tổ tạo
thành “Thiền Tông Đông Độ”. Tổ Tăng Xán chính là tác
giả tác phẩm Thiền rất nổi tiếng “Tín Tâm Minh”.
Sau
đó, “Thiền Tông Đông Độ” có Ngài Đạo Tín là đệ
Tứ Tổ và Ngài Hoằng Nhẫn là đệ Ngũ Tổ . Đến đây,
Thiền phái Đạt Ma trở thành sản phẩm quốc nội. Giọt
nước nầy chẳng khác những giọt nước trước, được lưu
truyền từ Thầy đến Đệ Tử, chẳng có một sự khác biệt
nào cả. Thời Tổ Hoằng Nhẫn, Thiền Tông ở Trung Quốc càng
ngày càng được thịnh hơn. Trong thiền môn của Ngài, có
nhiều Thiền sư kỳ đặc và xuất chúng, đặc biệt là Thần
Tú và Huệ Năng , cả hai vị đều là bậc đạt thiền khêu
sáng ngọn đèn Thiền sáng rực khắp bốn phương trời.
Thần
Tú đắc Thiền với Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn xiển dương Thiền
Pháp ở miền Bắc Trung Hoa như Trường An và Lạc Dương. Dòng
Thiền nầy của Thần Tú được gọi là Thiền Bắc Truyền
hay Bắc Tông. Còn Huệ Năng, người đồng môn với Thần Tú,
nhỏ hơn đến 30 tuổi, cũng đắc được yếu chỉ của Thiền
Tông từ Tổ Hoằng Nhẫn nhưng đi về phía Nam để hoằng
truyền Thiền Phái, nên Thiền của Huệ Năng được gọi là
Thiền Nam Truyền hay Thiền Nam Tông.
So
sánh về vị trí và sự liên hệ giữa cả hai phái Thiền
Huệ Năng và Thần Tú, có sự giống nhau nào đó về hình
thức, nhưng sâu trong Tông phong ấy vẫn có một số vấn đề
trái ngược nhau.
Nếu
Thiền Bắc Tông của Thần Tú được gọi là Bắc Tiệm, chuyên
về “tiệm tu”, theo từng giai đoạn tu hành để đạt ngộ,
thì Thiền Nam Tông của Huệ Năng rất khác với “tiệm tu”
của Thần Tú, theo phương pháp “đốn ngộ” thành tựu.
Thiền Huệ Năng được xem là chánh truyền của Thiền Đạt
Ma gọi là Nam Đốn. Nam Đốn, Bắc Tiệm cũng chỉ là một
cách gọi, nhưng Thần Hội, đệ tử của Huệ Năng lại cho
rằng Pháp hệ của mình mới là chính thống. Thực tế Thiền
Nam Tông thịnh hành hơn Bắc Tông, nhưng gần đây qua nhiều
nghiên cứu cho thấy Bắc Truyền cũng chủ trương Đốn Ngộ
như Nam Truyền vậy. Thần Hội là người kích bác Tiệm Tu,
phương pháp tu từ từng giai đoạn. Lịch sử Phật Giáo Thiền
Bắc Tông cho biết, từ đệ tứ Tổ Đạo Tín đến đệ ngũ
Tổ Hoằng Nhẫn, Thiền mới có tư tưởng trung thực truyền
thừa tại Trung Quốc.
Về
sau, Thiền phái Bắc Truyền Thần Tú suy vi, phái Thiền Nam
Truyền của Huệ Năng lại ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Theo một số khảo sát nghiên cứu cho biết dần dần những
bậc nhân tài ở Thiền Pháp Bắc Truyền của Thần Tú trống
vắng, ngược lại, phái Thiền Nam Truyền lại thích nghi được
với con người và phong thổ. Tuy nhiên, tôi (tác giả) lại
nghĩ khác, chính đời sống tu tập hằng ngày của Huệ Năng
không khác đời sống hành hạnh đầu đà của Ngài Ma Ha Ca
Diếp ngày xưa đã làm cho Thiền Nam Truyền phát triển mạnh
mẽ hơn.
Tổ
Huệ Năng sinh ra trong một gia đình nghèo khó tại tỉnh Hà
Bắc. Hằng ngày Tổ phải đi vào rừng đốn củi nuôi mẹ.
Sự thật lịch sử như thế nào, năm rồi học giả Takeuchi
trong quyển “Nghiên cứu văn học lịch sử về mẹ của ngài
Huệ Năng” trong mục “Trung Ương Công Luận - Lịch sử và
Nhân Vật” có công bố, nhất là những điểm sai biệt về
Thiền của Huệ Năng.
Năm
Tổ tròn 24 tuổi, một hôm nọ vào chợ để bán củi, có
duyên nghe một nhà nọ đang tụng kinh Kim Cang, Tổ chợt ngộ
và tìm đến xuất gia với Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn và sống trong
chùa, vừa giã gạo vừa tu Thiền. Sự đạt ngộ của Tổ
Huệ Năng được biểu thị qua bài kệ:
“Bồ
đề chẳng phải cây,
Kiếng
sáng chẳng là đà,
Trước
sau chẳng có vật,
Bụi
trần dính vào đâu.”
Rõ
ràng bài thơ trên là sở ngộ tâm và cảnh của Tổ, nhờ
đó Tổ được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn ấn chứng và khuyên đi
về phía Nam. Tổ đã từng ở tạm với những người thợ
săn để bồi công tích đức. Về sau Tổ Huệ Năng lên núi
Tào Khê, tỉnh Quảng Đông, nêu cao thiền phong làm rạng rỡ
Thiền Phái Đạt Ma chánh thống của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn,
được tôn xưng là Lục Tổ Đại Sư và lấy tên ngọn núi
nơi Tổ lưu trú, gọi là Tào Khê Đại Sư. Cũng có thuyết
khác cho rằng Huệ Năng sống ở núi Tào Khê nên lấy chữ
đầu hợp lại mà thành Tông của mình có thể điều ấy
đúng.
Qua
đồ biểu (hình vẽ dưới đây) ta thấy rằng Nam Nhạc và
Thanh Nguyên là hai huynh đệ đệ tử. Hệ phổ của Thanh Nguyên
được gọi là Đổng Sơn, thuộc Tào Động Tông. Nhìn đồ
biểu một lần nữa, Thanh Nguyên và đệ tử Nam Nhạc lại
thuộc hệ phái Lâm Tế Nghĩa Huyền.
Đồ
biểu nầy được gọi là Pháp Hệ Đồ, có nghĩa là Phật
Pháp được Thầy truyền cho trò theo sự liên hệ truyền thống;
nên gọi là Pháp Phái Đồ. Đây không phải là sự liên hệ
truyền thừa theo huyết thống hay huyết mạch. Thế nhưng Lâm
Tế, Đổng Sơn là hai vị Thiền Tăng giữa nhân duyên huyết
mạch thì không có. Mà đứng trên Pháp mạch, thì có sự liên
hệ huynh đệ xa.
Theo
truyền thống, Thiền có ba tông Tào Động, Lâm Tế, Hoàng
Bá . Nhưng tông Hoàng Bá không phải là một tông riêng của
Trung Quốc, mà thuộc vào Tông Lâm Tế. Bởi vì Thiền Sư Hoàng
Bá Hy Vận là Bổn sư của Ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền. Về sau,
Thiền Sư Ổn Nguyên . mang cái áo nghĩa của Thiền, chùa Vạn
Phước, Hoàng Bá Sơn, sang Nhật giới thiệu cho giới học
Thiền. Ngài sang Nhật vào năm Thừa Ứng năm thứ 3, (1654),
kiến lập chùa tại Vũ Trị, Tokyo, đặt tên chùa là Hoàng
Bá Sơn Vạn Phước Tự, như tên chùa mà Ngài lưu trú tại
Trung Quốc. Thế nhưng, Thiền phong của Ổn Nguyên khác rất
nhiều với Tổ Sư Thiền mà Đạt Ma truyền tới Huệ Năng.
Bởi vì sang Nhật, Thiền sư Ổn Nguyên kết hợp việc Toạ
Thiền và Niệm Phật để song tu, nên gọi là Thiền Niệm
Phật. Dù Pháp Quy và Chế Độ theo Tông phong Hoàng Bá của
Trung Quốc không sai, nhưng đến năm Minh Trị năm thứ 9, Tông
Lâm Tế ở Nhật tách riêng ra khỏi Tông Hoàng Bá, tôn xưng
Thiền sư Ổn Nguyên là vị khai Tổ của Nhật Bản.
Bây
giờ tại Nhật, Thiền Tông theo Pháp hệ chỉ có hai tông:
Tào Động và Lâm Tế, nhưng trên phương diện Tông Phái và
Hành Chánh, có ba tông: Tào Động, Lâm Tế và Hoàng Bá.
Những
trình bày trên, theo tôi (tác giả), đã làm sáng tỏ sự liên
hệ của ba Tông phái, Tào Động, Lâm Tế và Hoàng Bá. Từ
đây chúng ta sẽ làm quen với Tư Tưởng Thiền, kể từ Sơ
Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến Lục Tổ Huệ Năng của Thiền Trung
Hoa.