CHƯƠNG
I
HÀNH TRẠNG
1
SỰ ĐẮC
PHÁP
Nói đến
sự đắc pháp của Ngài Huệ Năng, không chi bằng trích dịch
nguyên văn kinh Pháp bảo đàn. Nguyên văn ấy, quý ở chỗ
chính là lời Ngài Huệ Năng đã tự thuật, trong đó bộc
lộ được hết bản sắc của Ngài. Xin nhấn mạnh điều
đó, vì cái bản sắc hoàn toàn của Ngài Huệ Năng thật đã
được thể hiện trong những lời Ngài tự thuật sau đây,
tại giảng đường chùa Đại Phạn, Thiều Châu:
- Các vị
Thiện tri thức! Tự tánh bồ đề bản lai thanh tịnh, vận
dụng tâm ấy tức nhiên thành Phật.
- Các vị
Thiện tri thức! Xin nghe hành trạng và cái ý sự đắc pháp
của tôi. Thân phụ tôi nguyên quán ở Phạm Dương, sau thiên
qua Lãnh Nam, làm kẻ thường dân của Tân Châu. Tôi sinh ra
đã bất hạnh, cha lại mất sớm, còn một mẹ già dời qua
Nam Hải, khốn khổ nghèo nàn, nên tôi làm nghề bán củi
chợ. Một hôm, có một người mua củi, bảo tôi gánh đến
nhà, khách lấy củi, tôi được tiền rồi, bước ra cửa
thì nghe một người tụng kinh. Vừa nghe lời kinh, tâm tôi
đã khai ngộ, nên hỏi người ấy tụng kinh gì? Người ấy
cho biết tụng kinh Kim Cang. Tôi lại hỏi Ngài ở đâu và ai
dạy tụng Kinh ấy ? Người ấy trả lời: Tôi ở chùa Đông
Thuyền, huyện Hoàng Mai, thuộc xứ Kỳ Châu. Chùa ấy do tổ
sư thứ năm là Ngài Hoằng Nhẫn làm chủ giáo hóa cho môn
nhân trên ngàn người. Tôi bái thọ Kinh này ở đấy. Tổ
sư khuyên tại gia cũng như xuất gia, chỉ thọ trì kinh Kim
Cang là kiến tánh thành Phật.
Tôi nghe những
lời ấy cảm biết mình có túc duyên, lại nhờ có một người
cho mười lạng bạc, khiến tôi sắp đặt cho mẹ già mà tìm
đến yết kiến Tổ sư. Tôi sắp đặt cho mẹ già rồi, tức
thì từ biệt. Không quá một tháng, tôi đã đến Hoàng Mai,
đãnh lễ Tổ sư. Tổ sư hỏi: Ngươi ở đâu? Đến đây muốn
gì? Tôi thưa: Con là kẻ thường dân ở Lãnh Nam, từ xa đến
đây đãnh lễ Ngài, lòng chỉ cầu làm Phật mà không muốn
một điều gì khác. Tổ sư dạy: Ngươi là người Lãnh Nam,
lại là kẻ quê mùa, thì làm sao mà làm Phật được? Tôi
bạch: Con người có nam có bắc, nhưng Phật tánh vốn không
bắc không nam; cái thân quê mùa, không giống với thân của
Tổ sư, nhưng Phật tánh thì có gì khác biệt ?
Tổ sư còn
muốn nói với tôi nữa, nhưng thấy đồ chúng đứng cả hai
bên, nên bảo tôi hãy theo chúng mà làm việc. Tôi thưa: Huệ
Năng con xin kính bạch Tổ sư, tự tâm con thường sanh trí
tuệ, không rời tự tánh ấy tức là công đức, vậy Ngài
dạy con làm những việc gì ? Tổ sư dạy rằng: kẻ quê mùa
này thật là lợi căn, thôi, ngươi đừng nói nữa, hãy xuống
nhà dưới mà làm việc. Tôi vâng lời xuống nhà dưới, có
một vị hành giả bảo tôi bửa củi và giã gạo. Hơn tám
tháng, một hôm Tổ sư bỗng xuống gặp tôi, bảo rằng: Ta
biết kiến địa của con có thể dùng được, nhưng sợ có
kẻ ác tâm hại con, con hay chăng? Tôi bạch rằng: Con cũng
biết ý của Tổ sư nên không dám đi qua trước thuyền đường,
sợ mọi người hay biết.
Một ngày
nọ, Tổ sư kêu hết thảy môn đồ lại, bảo rằng: Người
đời sinh tử là đại sự, các người suốt ngày cầu phước
mà không cầu thoát ly sanh tử, các người đâu biết tự tánh
nếu mê thì phước nào cứu được ! Vậy các ngươi hãy đi
ra, y theo tánh bát nhã của tự tâm mà làm mỗi người một
bài kệ cho tôi xem. Ai ngộ được thì tôi sẽ phú y pháp cho,
làm vị tổ sư thứ sáu. Ra ngay và làm nhanh lên, không được
suy tưởng, suy tưởng tức không trúng. Người kiến tánh thì
nói ra là kiến tánh tức thì. Người như thế thì cho dẫu
lúc ở trong chiến trận cũng vẫn kiến tánh.
Mọi người
nghe Tổ sư dạy như thế, phụng mạng mà ra, nhưng lại bảo
nhau: Chúng ta miễn làm kệ; thượng tọa Thần Tú hiện làm
giáo thọ cho chúng ta, thế nào người cũng được Tổ sư
phú y pháp, sau này chúng ta chỉ nương dựa nơi người là
được. Phần thượng tọa Thần Tú thì người nghĩ rằng
mọi người không trình kệ là vì họ nghĩ có ta là vị giáo
thọ của họ, nên ta phải làm kệ trình lên Tổ sư. Ta không
trình kệ thì Tổ sư làm sao biết kiến giải của ta sâu hay
cạn. Ý ta trình kệ là để cầu pháp, chứ trình kệ để
được làm tổ sư thì có khác chi đem tâm niệm phàm phu chiếm
đoạt địa vị bực thánh. Nhưng không trình kệ thì không
thể đắc pháp. Thiệt là khó nghĩ.
Trước thuyền
đường của Tổ sư có dãy nhà ba gian. Tổ sư ý muốn nhờ
quan Cung phụng là Lô Trân vẽ những bức họa theo kinh Lăng
Già và những đồ biểu về hệ thống đắc pháp của năm
vị Tổ sư để lưu truyền cúng dường. Thượng tọa Thần
Tú làm kệ xong rồi, mấy phen muốn đem trình Tổ sư, nhưng
mỗi lần đi đến dãy nhà ấy thì trong lòng lại hồi hộp,
toát mồ hôi khắp mình, nên trình không được. Qua 4 ngày
và 13 lần như vậy mà việc trình kệ vẫn không xong. Thượng
tọa Thần Tú bèn suy nghĩ: Hãy viết lên vách nhà ấy cũng
được. Rồi Tổ sư thấy, nếu Ngài bảo được thì ta ra
đãnh lễ và bạch Ngài kệ ấy ta làm, còn nếu Tổ sư bảo
không được thì ta phải tự thấy uổng phí bao năm ở đây
mà chưa thấy đạo. Nghĩ vậy rồi, canh ba đêm ấy, Thượng
tọa Thần Tú không cho ai hay, tự cầm đèn viết bài kệ của
mình đã làm lên vách chái phía nam. Bài kệ ấy như sau:
Thân thị
Bồ Đề thọ,
Tâm như
minh cảnh đài
Thời thời
cần phất thức
Vật sử
nhá trần ai.
(Thân là
cây bồ đề
Tâm như
đài gương sáng
thường
hãy siêng lau chùi
Chớ để
bụi dơ bám).
(Theo bản
dịch Kinh Pháp Bảo Đàn, do Trí Hải dịch)
Viết xong,
Thượng tọa về phòng, không ai hay biết. Thượng tọa lại
nghĩ: Như Tổ sư thấy bài kệ ấy mà hoan hỷ thì ta có nhân
duyên đắc pháp, còn nếu Ngài bảo không được htì ấy là
tự ta mê muội, nghiệp cũ sâu dày, nên không đáng đắc pháp.
Suy nghĩ như vậy cho đến canh năm, nằm ngồi không yên.
Phần Tổ
sư, từ lâu đã biết Thượng tọa Thần Tú chưa kiến tánh
được. Sáng ngày hôm ấy, Ngài cho mời ông Lô Trân đến
để nhờ vẽ lên vách những bức họa đã định, bỗng thấy
bài kệ, Ngài liền bảo: Quan Cung phụng, thôi, đừng vẽ nữa,
thật là phiền cho ông từ xa đến đây. Nhưng trong kinh có
dạy: phàm các hình tướng đều là hư vọng. Vậy chỉ nên
giữ bài kệ này lại cho mọi người thọ trì. Y theo bài kệ
này mà tu thì khỏi sa vào ác đạo. Y theo bài kệ này mà làm
thì được đại lợi ích. Nói rồi, Ngài lại dạy đồ chúng
hãy thắp hương mà kính lễ và trì tụng bài kệ ấy, ai cũng
khen là rất quí báu. Canh ba, Tổ sư gọi Thượng tọa Thần
Tú vào thuyền đường, hỏi: Bài kệ ấy ông làm đó chưa
kiến tánh; ông mới đến cửa ngoài, chưa vào cửa trong. Đem
kiến giải ấy tìm Vô thượng bồ đề thì thật chưa được.
Vô thượng bồ đề là ngay nơi một lời nói thấy được
bản tâm, kiến được bản tánh, bất sanh bất diệt; bất
cứ lúc nào, niệm niệm tự thấy; vạn pháp viên dung, một
chân tất cả đều chân. Vạn pháp tự như như, tâm như như
là chân thật; kiến giải như vậy là thấy được tự tánh
của Vô thượng bồ đề. Ông hãy ra suy nghĩ trong một vài
ngày, làm một bài kệ nữa đem vào cho tôi, tôi xem nếu ông
nhập môn được thì sẽ phú y pháp cho ông.
Thượng tọa
Thần Tú đãnh lễ và lui ra. Qua mấy ngày làm kệ cũng không
thành, trong tâm hồi hộp, tư tưởng bất an như người ở
trong mộng, đi đứng không vui.
Hai ngày sau,
một đạo đồng ngang qua chỗ giả gạo, xướng tụng bài
kệ của Thượng tọa Thần Tú. Tôi mới nghe, biết liền bài
kệ ấy chưa kiến tánh. Tuy tôi chưa được mong ơn Tổ sư
chỉ dạy, nhưng đã biết ý chỉ của Ngài. Tôi hỏi đạo
đồng: tụng bài kệ gì đó ? Đạo đồng bảo: Cái anh quê
mùa này, anh không biết Tổ sư có dạy người đời sanh tử
là đại sự, muốn truyền phú y pháp nên Tổ sư bảo đồ
chúng mỗi người làm một bài kệ để Tổ sư xem, nếu ai
ngộ được tâm tánh thì Ngài phú y pháp cho để làm vị Tổ
sư thứ sáu. Thượng tọa Thần Tú viết lên vách chái nhà
phía nam, bài kệ “vô tướng” mà Thượng tọa đã làm nên
Tổ sư dạy mọi người phải tụng bài kệ ấy mà tu thì
khỏi đạo ác đạo, y theo bài kệ ấy mà làm thì được
đại lợi ích. Tôi thưa đạo đồng: Thưa thượng nhân, tôi
đạp chày giả gạo đã hơn 8 tháng nay, chưa bao giờ dám đến
trước thuyền đường, xin thượng nhân dẫn tôi đến trước
bài kệ để được lễ bái. Đạo đồng dẫn tôi đến, lạy
xong, tôi nói: Huệ Năng tôi không biết chữ, xin thượng nhân
đọc cho. Bấy giờ đứng ở đấy có quan biệt giá Giang Châu,
họ Trương, tên Nhật Dụng, liền cao tiếng đọc lên. Tôi
nghe rồi, thưa rằng tôi cũng có một bài kệ, kính nhờ quan
Biệt giá viết giúp. Quan Biệt giá kinh ngạc: Anh mà cũng biết
làm kệ sao, thật là việc hiếm có! Tôi thưa rằng: Muốn
học đạo Vô thượng bồ đề thì chớ khinh kẻ sơ học;
người thấp nhất có thể có tài trí cao nhất, còn người
cao nhất cũng có thể không có trí tuệ gì cả! Quan Biệt
giá nói: Anh hãy đọc bài kệ lên, tôi viết cho anh; nếu anh
đắc pháp thì trước hết phải độ cho tôi, xin đừng quên
lời. Tôi bèn đọc rằng:
Bồ đề
bản vô thọ
Minh cảnh
diệc phi đài
Bản lai
vô nhất vật
Hà sứ nhá
trần ai.
(Bồ đề
vốn không cây
Gương sáng
cũng không đài
Xưa nay không
một vật
Thì bụi
bám vào đâu).
(Theo bản
dịch Kinh Pháp Bảo Đàn, do Trí Hải dịch)
Bài kệ viết
xong, mọi người đều kinh ngạc, bảo nhau: Kỳ thay, chúng
ta không nên lấy hình dạng mà coi người; chúng ta đâu được
phép sai khiến mãi vị Bồ Tát xác phàm này! Tổ sư nghe thấy
mọi người kinh quái như vậy, sợ có kẻ ác tâm làm hại,
nên ra lấy giày chà bài kệ đi mà bảo rằng: Bài này cũng
chưa phải kiến tánh. Mọi người đều cho là phải.
Hôm sau,
Tổ sư kín đáo đi xuống nhà dưới, thấy tôi nai lưng giả
gạo, bảo rằng: Người cầu đạo phải như vậy đó. Lại
hỏi gạo đã trắng chưa? Tôi bạch rằng gạo trắng đã lâu
rồi, chỉ thiếu cái sàng nữa mà thôi. Tổ sư bèn lấy gậy
gỏ nơi cối 3 lần rồi bỏ đi lên. Tôi hội ý, canh ba đêm
ấy vào thuyền thất của Tổ sư. Tổ sư bèn lấy ca sa choàng
lên mình tôi, không cho ai thấy, rồi giảng cho tôi nghe bản
kinh Kim Cang. Khi Tổ sư giảng đến câu: “ưng vô sở trú
nhi sanh kỳ tâm” ngay nơi câu ấy, tôi tức thì đại ngộ
hết thảy vạn pháp không rời tự tánh, bèn bạch với Tổ
sư: Đâu có dè tự tánh vốn tự thanh tịnh, vốn bất sanh
bất diệt, vốn tự viên mãn, vốn bất động chuyển, vốn
sanh vạn pháp! Tổ sư biết tôi đã ngộ bản tánh, bèn dạy
rằng: Không biết tự tâm thì học đạo vô ích; nếu biết
tự tâm, thấy tự tánh, thì đấy chính là kẻ đại trượng
phu!
Thế là canh
ba đắc pháp, không một ai hay. Tổ sư truyền thọ đốn giáo
và y bát cho tôi và dạy rằng: Ông là vị Tổ sư thứ sáu,
hãy khéo tự hộ niệm, quảng độ chúng sanh, lưu truyền đạo
pháp cho tương lai, đừng để bồ đề tuyệt chủng. Hãy nghe
bài kệ của ta đây:
Hữu tình
lai hạ chủng,
Nhơn địa
quả hườn sanh,
Vô tình
diệc vô chủng,
Vô tánh
diệc vô sanh.
(Hữu tình
được gieo giống,
Nhơn gieo
quả ắt sanh,
Vô tình
thì vô chủng,
Vô tánh
cũng vô sanh).
(Theo bản
dịch trong Kinh Pháp Bảo Đàn–Thích Duy Lực)
Tổ sư lại
dạy rằng: Xưa kia, khi Đạt Ma Tổ sư đến quốc độ này
thì mọi người chưa ai tin, nên truyền ca sa để làm tín thể,
đời đời tiếp thọ. Nhưng đạo pháp là lấy tâm truyền
tâm làm cho tự ngộ tự biết. Từ xưa, chư Phật duy truyền
bản thể, chư Tổ mật phú bản tâm, còn ca sa là cái gốc
của sự tranh chấp, vậy đến ông là đình chỉ. Nếu ông
truyền phú ca sa ấy nữa thì tánh mạng ông chỉ như sợi
tơ. Ông nên đi khỏi chỗ này cho mau, không thì có kẻ làm
hại. Tôi thưa: Con nên đi về xứ nào? Tổ sư dạy: “Phùng
Hoài tắc chỉ, ngộ Hội tắc tàng” (Gặp đất Hoài thì
dừng, gặp đất Hội thì ẩn). Canh ba đêm ấy, lãnh y bát
xong, Tổ sư đưa đến bến Cửu Giang, bảo tôi lên thuyền,
tôi liền cầm lấy chèo; Tổ sư bảo: Để Ta độ ông qua
sông. Tôi bạch: Khi con mê thì Tổ sư độ con, nay con ngộ
rồi thì con phải tự độ; cái tiếng hóa độ tuy một mà
cách dùng thì khác nhau. Huệ Năng con sanh ra ở chỗ biên địa,
đến nỗi tiếng nói cũng không đúng; nay mong ơn Tổ sư phú
pháp khiến con được liễu ngộ rồi, thì con phải tự tánh
tự độ. Tổ sư dạy rằng: Phải, phải! Sau này đạo pháp
do ông mà đại thạnh hành đó. Ông hãy đi đi. Gắng đi cho
mau về hướng Nam. Nhưng đừng nói ra sớm quá kẻo cái nạn
của đạo pháp nổi lên.
Tôi lạy
từ Tổ sư rồi, đi về phía Nam, hai tháng thì đến núi Đại
dũ. Còn Tổ sư trở về, đến mấy ngày không ra giảng đường,
đồ chúng nghi ngờ, mới vào bạch hỏi: Ngài đau yếu ra sao?
Tổ sư trả lời: Ta không đau ốm gì, nhưng y pháp của ta
đã đi về phía Nam rồi. Đồ chúng hỏi: Ai là người được
Ngài truyền thọ cho, Ngài dạy: Huệ Năng, con người ấy được
đó! Bấy giờ đồ chúng mới hay sự đắc pháp của tôi,
và những kẻ muốn chiếm đoạt y bát đuổi theo vài trăm
người, chạy trước những người này là một thầy họ Trần,
tên Huệ Minh, vốn là tứ phẩm tướng quân nên tánh hạnh
hung hăng, quyết ý tầm nã tôi. Khi Huệ Minh đuổi kịp, tôi
liền để y bát xuống, ẩn mình trong đám cỏ rậm. Huệ Minh
đến, cố sức xách lên mà y bát vẫn không lay động, mới
gọi to lên rằng: Hành giả, Hành giả, tôi đến đây là vì
đạo pháp chứ không vì y bát. Tôi liền bước ra ngồi trên
phiến đá, Huệ Minh đãnh lễ và bạch rằng: Xin Hành giả
thuyết pháp cho tôi. Tôi bảo: Nếu ông vì đạo pháp mà đến
đây, thì hãy lắng lòng mình xuống, đừng mống lên một
ý niệm gì khác, tôi sẽ nói cho. Qua một lát, tôi nói: Không
nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính trong lúc đó cái gì là bản
lai diện mục của Thượng Tọa Huệ Minh vậy? Ngay dưới câu
hỏi ấy Huệ Minh đại ngộ. Lại hỏi ngoài ra lại còn có
mật ý gì nữa; nếu ông tự phản chiếu thì mật ý chính
ở nơi ông. Huệ Minh thưa rằng: Minh này tuy ở Hoàng Mai mà
thật chưa biết diện mục của mình, bây giờ được Ngài
chỉ thị thật như kẻ uống nước, nóng hay lạnh tự mình
biết lấy, nên Hành giả chính là đức thầy của Huệ Minh
vậy. Tôi nói: Nếu ông được như vậy thì chính là cùng
tôi tôn thờ Tổ sư Hoàng Mai đó; ông hãy khéo tự hộ trì.
Huệ Minh lại hỏi tôi từ nay về sau ông nên đi về đâu,
tôi bảo: “Phùng Viên tắc chỉ, ngộ Minh tắc cư”(Gặp
Viên thì dừng, gặp Minh thì ở), Huệ Minh liền lạy từ.
Về đến chân núi, Huệ Minh gọi tất cả những người đuổi
theo lại, bảo rằng đã đến chỗ cao ghềnh kia rồi mà không
thấy một dấu vết gì, thôi, hãy tìm qua một đường khác.
Những người ấy cho là phải. Sau này Huệ Minh đổi tên mình
là Đạo Minh, ý muốn tránh chữ thứ nhất của Thầy.
Phần
tôi, đi đến Tào Khê lại bị kẻ ác tâm tìm nã nữa, nên
lánh sang ở với nhóm người đi săn ở đất Tứ Hội trong
15 năm. Trong thì gian ấy thỉnh thoảng tùy tiện thuyết pháp
cho những người đi săn và được họ hay bảo tôi giữ lưới
nên thấy con vật nào mắc vào thì thả hết. Ăn thì tôi kiếm
rau bỏ vào một nồi mà nấu kẻo họ nghi, và nếu bị hỏi
thì tôi nói: chỉ xin ăn rau bên thịt mà thôi.
Một
ngày nọ tôi nghĩ đã đến lúc ra hoằng dương đạo pháp,
không nên lánh mình mãi ở đây, nên đi đến chùa Pháp Tánh
ở Quảng Châu, nhằm lúc Ấn Tôn pháp sư đang giảng kinh Niết
Bàn. Bấy giờ nhân có 2 vị xuất gia thảo luận với nhau
về sự lay động của cái phan, một người nói gió động,
một người nói phan động, thảo luận không ngừng, tôi mới
bước tới, nói không phải gió động, cũng không phải phan
động mà do các Nhân giả tâm động. Ai nghe cũng kinh ngạc.
Ngài Ấn Tôn liền mời tôi ngồi chỗ trên hết và cật vấn
áo nghĩa. Thấy tôi nói năng giản dị, nghĩa lý xác đáng
mà không cần văn tự, Ngài Ấn Tôn nói: Hành giả nhất định
không phải là kẻ tầm thường; từ lâu tôi nghe y pháp của
Tổ sư Hòang Mai đã đi qua phía Nam, có phải Hành giả là
người được truyền thọ chăng? Tôi nói không dám. Ngài Ấn
Tôn liền làm lễ và bảo tôi đưa y bát đã được truyền
thọ ra cho đại chúng chiêm bái. Ngài Ấn Tôn lại hỏi: Khi
Tổ sư Hoàng Mai phú chúc cho Ngài thì chỉ thị những gì?
Tôi đáp: Ngài không chỉ thị gì cả; Ngài nói kiến tánh
mà không nói đến cái tên thuyền định và cái tên giải
thoát. Ngài Ấn Tôn hỏi tại sao không nói đến thuyền định
và giải thoát? Tôi đáp: Vì đây là những pháp “hai” mà
Phật pháp là “không phải hai”. Ngài Ấn Tôn lại hỏi:
Phật pháp không phải hai là thế nào? Tôi đáp: Như Phật
tánh được Phật thuyết minh trong kinh Niết Bàn mà Ngài đang
giảng, là pháp không phải hai. Thí dụ khi Ngài Cao Quý Đức
Vương Bồ Tát hỏi Phật: Những kẻ cực ác đoạn các thiện
căn mà có đoạn được Phật tánh không? Phật dạy: Thiện
căn có hai, có thứ thường, có thứ vô thường; nhưng Phật
tánh không phải thường, không phải vô thường, thế nên
không thể đoạn được: đấy là cái nghĩa không phải hai.
Lại như thiện và bất thiện là hai, mà Phật tánh không phải
thiện và bất thiện nên gọi không phải hai. Uẩn với giới
cũng vậy, kẻ phàm phu thấy ra hai cả, còn trí giả thể nghiệm
thì là bất nhị: Tánh bất nhị ấy là Phật tánh.
Ngài Ấn
Tôn nghe xong, hoan hỷ chấp tay mà nói: Tôi giảng như ngói
gạch, còn Nhân giả nói thật vàng ròng. Thế rồi làm lễ
thế phát cho tôi, nguyện thờ tôi làm thầy. Bây giờ, sau
bao nhiêu gian khổ, tánh mạng như sợi tơ treo, tôi mới ở
dưới cây Bồ đề của chùa Pháp Tánh khai thị “pháp
môn Đông Sơn”, tức đạo pháp mà Tổ sư Hòang Mai đã truyền
thọ.