Tham
thiền nghi tình phát chẳng khởi bèn muốn trong giấy mực
kiểm thảo văn tự, rộng cầu tri giải, đem ngôn giáo Phật
Tổ xâu vào một dây làm một cái ấn để ấn định, vừa
ra một tắc công án bèn cho là đạo lý, ở trên câu thoại
đầu bổn tham chẳng thể phát khởi nghi tình, gặp người
nạn vấn thì chẳng vui, đây là tâm sanh diệt, chứ chẳng
chẳng phải thiền. Hoặc tùy hỏi liền đáp, dựng ngón tay,
đưa nắm tay, cầm bút viết nhanh kệ tụng khai thị, khiến
người tham cứu cũng có ý vị, tự cho rằng được đại
ngộ. Trái lại, chẳng biết nghi tình phát chẳng khởi đều
là thức tâm sai khiến như thế. Nếu chịu một niệm biết
quấy, toàn thân buông bỏ, tìm gặp Thiện tri thức cầu con
đường vào thì tốt. Bằng không, tâm sanh diệt thắng lướt
lâu ngày thành ra ma dựa chẳng có thể cứu.
Tham
thiền nghi tình phát chẳng khởi ở trên cảnh duyên sanh nhàm
lìa, thích đến chỗ tịch tịnh không người để ngồi bèn
lấy đắc lực, cảm thấy có ý tứ, vừa gặp chỗ hơi động
một chút, tâm liền chẳng vui, đây là tâm sanh diệt, chứ
chẳng phải thiền. Ngồi lâu ắt cùng với tịnh cảnh tương
ưng; mờ mịt vô tri, bặt dứt đối đãi, dẫu được thiền
định ngưng tâm bất động, thì cũng đâu khác chi với Tiểu
thừa. Vừa cảnh duyên ắt chẳng tự tại, nghe tiếng thấy
sắc ắt sanh sợ hãi. Lo vì sợ hãi nên ma có dịp khuấy rối.
Do vì sức ma nên làm các điều bất thiện, một đời tu hành
trở thành vô ích, đều là do lúc ban đầu chẳng khéo dụng
tâm, chẳng khéo khởi nghi tình, chẳng chịu gặp Thiện tri
thức, chẳng chịu tin Thiện tri thức. Ở trong chỗ tình lặng
gắng gượng mà làm chủ tể, dẫu gặp Thiện tri thức, chẳng
chịu một niệm biết quấy, ngàn Phật ra đời cũng không
làm sao cứu được!
Tham
thiền nghi tình phát chẳng khởi, đem tâm tình thức vọng
tưởng đè nén khiến vọng tâm chẳng khởi, đến chỗ chẳng
khởi ắt lóng đứng lặng lặng thuần thanh tuyệt điểm cho
đó là công phu. Vừa gặp Thiện tri thức điểm nhằm chỗ
đau như đè trái bàu trên mặt nước, đây là tâm sanh diệt
chứ chẳng phải thiền. Bởi vì đầu tiên chẳng chịu tham
thoại đầu khởi nghi tình, dẫu cho đè nén được đến mức
thân tâm chẳng khởi thì cũng như đá đè cỏ. Nếu chết
được thức tâm thành đoạn diệt rồi, chính là rơi vào
ngoại đạo không vong.
Nếu
đoạn diệt chẳng được, lúc gặp cảnh duyên liền dẫn
khởi thức tâm, ở chỗ lóng lặng tuyệt điểm cho là chứng
Thánh tự cho rằng được đại ngộ. Phóng túng thì thành
điên cuồng, chấp trước thì thành ma, ở trong thế pháp lừa
dối kẻ không biết, tạo ra tội nặng là làm lui sụt lòng
tin của người và chướng đạo Bồ đề.
Tham
thiền nghi tình phát chẳng khởi, đem thân tâm thế giới thảy
đều bỏ hết thành không. Không thì không có chỗ quản đới,
không có chỗ nương tựa, chẳng có thân tâm, chẳng thấy
có thế giới, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, đều là
một cái không, cho cái không là thiền, cho rằng không là Phật.
Đi cũng là không, ngồi cũng là không, nhất thiết đều không.
Đi dứng nằm ngồi như đi trong hư không, đây là tâm sanh
diệt chứ chẳng phải thiền. Chẳng chấp ắt thành ngoan không
mờ mịt vô tri. Chấp trước ắt thành ma tự cho là đại
ngộ. Trái lại chẳng biết là không dính dáng gì với việc
tham thiền. Nếu quả thật người tham thiền phát khởi nghi
tình, một câu thoại đầu như Ỷ Thiên trường kiếm chạm
nằm mũi nhọn của nó thì tán thân mất mạng. Nếu chẳng
như vậy, dẫu cho được không đến mức một niệm chẳng
khởi, cũng chỉ là không vô sở tri, chứ chẳng phải cứu
cánh.
Tham
thiền nghi tình phát chẳng khởi bèn đem thức tâm cân nhắc
xuyên tạc công án cổ nhân cho đây là toàn đề, là bán đề,
là hướng thượng, là hướng hạ, là quân, là thần, là lời
kiêm đới, là lời bình thật, tự cho rằng kiến giải của
mình không ai bằng. Dầu mỗi mỗi nói được đạo lý, cùng
với cổ nhân chung một miệng nhả khí, đây là tâm sanh diệt
chứ chẳng phải thiền. Trái lại, chẳng biết một ngôn một
ngữ của cổ nhân như nhai cuộn tơ khiến người nuốt chẳng
xuống, nhả chẳng ra, đâu để cho người ta sanh ra nhiều
tri giải dẫn khởi thức tâm. Nếu nghi tình phát khởi, toàn
thân ngộ nhập thì cái thức tâm tri giải này chẳng đợi
ông chết đi tự nhiên cũng yên.
Tham
thiền nghi tình phát chẳng khởi, xem thân tâm thuần là giả
duyên, trong ấy tự có một vật qua lại hay động, hay tịnh,
không hình không tướng, ở đầu cửa sáu căn phóng quang động
địa, buông ra ắt giáp sa giới, thâu lại ắt chẳng lập
mảy trần, nhằm vào chỗ ấy nhận định, chẳng chịu khởi
nghi tình, chẳng chịu tham cứu, rồi cho là người xong việc,
đây là tâm sanh diệt chứ chẳng phải thiền.
Trái
lại, chẳng biết tâm sanh tử chẳng vỡ, lấy những thứ
này làm khoái ý, chính là đùa với thức thần, một mai nhãn
quang lạc địa, làm chủ chẳng được bị thức thần lôi
đi theo nghiệp thọ báo. Nếu nghiệp thiện nhiều ắt sanh
trong trời người, đến khi bốn tướng, ngũ suy kéo đến
bức bách, bèn cho rằng Phật pháp không linh nghiệm. Do đây
phỉ báng Phật pháp bị đọa vào trong đường địa ngục,
ngạ quỷ biết bao nhiêu kiếp mới được trồi đầu. Do đó
xét thấy, tham thiền cần phải gặp Thiện tri thức, nếu
tự làm chủ tể đều dùng chẳng được.
Tham
thiền nghi tình phát chẳng khởi, bèn nhận lấy cái mắt hay
thấy, tai hay nghe, lưỡi hay nói, mũi hay ngửi, tay hay nắm,
chân hay đi cho là một chân tánh linh của mình. Nhằm vào trong
ấy suy lường cho là cửa ngộ, gặp người thì trợn mắt,
nghiêng tai, tay chỉ, chân đá cho đó là Phật pháp, đây là
tâm sanh diệt chứ chẳng phải thiền; cổ nhân gọi là như
người mắc bệnh kinh phong.
Lại
nói: Ở trên thiền sàng tương tự như làm trò quỷ, diễn
tới diễn lui, diễn tới lúc tứ đại phân tán, ắt diễn
chẳng được. Còn có một bọn người ác kiến cho đó là
kỳ đặc trao truyền cho nhau, thọ nhận sự cúng dường của
người mà không biết hổ thẹn, gặp người hỏi pháp thì
hét to một tiếng, cười to một tràng. Trái lại chẳng biết
từ xưa đến nay chưa từng tham cứu, mạng căn chưa cắt đứt,
dẫu là việc thiện, đều là nghiệp ma, chẳng phải cứu
cánh.
Tham
thiền nghi tình phát chẳng khởi, bèn muốn làm công hạnh
hữu vi, hoặc làm giải thoát, hoặc hành khổ hạnh, mùa đông
chẳng hơ lửa, mùa hạ chẳng quạt mát. Người đến xin y
phục liền cởi hết đem cho, cam tâm chết đói, cho đó là
giải thoát. Còn nhiều điều nữa, chẳng thể nói hết. Tóm
lại mà luận thì đều là bị cái tâm háo thắng sai khiến
lừa gạt kể không biết. Kẻ không biết kia cho người đó
là Phật sống, là Bồ tát, rồi suốt đời hầu hạ cúng
dường. Trái lại, chẳng biết trong giới Phật gọi là nghiệp
ác luật nghi tuy là trì giới mà mỗi bước kết tội. Lại
có một bọn người thiêu thân, đốt tay, lễ Phật, cầu sám
hối, cho đó là công khóa, đối với thế pháp thì đó cũng
là việc tốt, song ở trong tham cứu chẳng có ích gì! Cổ
Đức nói: “Cốt đừng ở trên cơ cảnh khác cầu”. Lễ
Phật là cơ cảnh, cầu sám hối là cơ cảnh, tất cả việc
tốt trong Phật pháp đều là cơ cảnh. Chẳng phải tôi dạy
ông chẳng làm tất cả việc thiện, song chỉ cần dụng tâm
một chỗ thì tất cả việc thiện này đều hay trợ phát
vun bồi thiện căn, mai kia con mắt đạo chợt mở, thì đốt
hương, quét đất đều là Phật sự.
Tham
thiền nghi tình phát chẳng khởi, bèn muốn ngông nghênh, hoạt
bát, gặp người thì tự ca, tự múa, tự mừng, tự vui. Hoặc
bên suối dưới rừng, ngâm vịnh nói cười. Hoặc nơi chợ
búa phố phường đi ngang đi dọc tự cho là người xong việc,
thấy Thiện tri thức mở tòng lâm, lập quy cũ, hoặc tọa
thiền, hoặc niệm Phật, hoặc làm tất cả việc thiện thì
vỗ tay cười lớn, sanh tâm khinh mạn, phỉ báng. Tự chẳng
thể hành đạo, lại làm chướng người hành đạo. Tự chẳng
thể tụng kinh lễ sám. Tự chẳng thể tham thiền, lại làm
chướng người tham thiền. Tự chẳng thể khai mở tòng lâm.
Tự chẳng thể thuyết pháp, lại làm chướng người thuyết
pháp. Phàm có Thiện tri thức xuất thế, bày ra có vài câu
vấn nạn ở trước chúng trời người, đáp hơn một câu,
hỏi hơn một câu, hét một tiếng, đánh một tát. Thiện tri
thức thấy người đó tương tợ như quỷ lộng, hoặc chẳng
thèm biết tới, người đó bèn nói với mọi người rằng:
“Thiện tri thức ấy chẳng hội cái đạo lý này. Khổ thay!
Khổ thay!” Đây là tâm sanh diệt thắng lướt, lâu ngày ắt
rơi vào đường ma tạo nghiệp lớn vô cùng, hưởng phước
mà hết, bị đọa vào địa ngục vô gián. Tuy là nhân thiện
mà chiêu lấy quả ác. Buồn thay!
Tham
thiền nghi tình phát chẳng khởi, cảm thấy sống chung với
bất tiện, quá câu thúc, quá phiền phức, bèn muốn vào núi
sâu chỗ không có người để tịnh, hoặc nhập thất để
tịnh. Ban đầu còn gắng làm chủ tể, nhắm mắt ngưng tâm,
ngồi kiết già chấp tay hạ thủ công phu hoặc một năm, hai
năm, một tháng, hai tháng chẳng thấy kết quả. Lại có một
bọn người được hai ba ngày, ngồi chẳng nổi nữa, hoặc
xem sách, hoặc ngông nghênh, hoặc làm kệ làm thơ, hoặc đóng
cửa ngủ, ngoài hiện oai nghi, bên trong là trần tục. Lại
có một bọn thiếu niên xấu, chẳng biết liêm sĩ, chẳng
tin nhân quả, lén làm dâm dục, gặp người thì khua môi thả
ý dối gạt kẻ không biết, tự nói: “Tôi đã từng gặp
Thiện tri thức, tôi được pháp thượng nhân”. Kẻ không
biết tin nhận, cùng bọn đó qua lại kết làm bạn đạo,
hoặc dụ làm đồ đệ, người trên làm kẻ dưới bắt chước,
tự chẳng biết quấy, chẳng chịu phản tỉnh. Chẳng chịu
gặp Thiện tri thức, dối tự tôn tự đại thành ra tội đại
vọng ngữ. Bọn này thật là người đáng thương xót. Nay
người chán đại chúng muốn ở thất riêng đâu chẳng kinh
sợ ư? Nếu người chân chánh học đạo thận trọng chớ
để nảy ra cái ý niệm này. Tốt nhất nên ở trong chúng
tham cứu, huynh đệ cảnh giác nhau, dẫu chẳng ngộ đạo quyết
cũng chẳng rơi vào lối này. Người học chẳng thể chẳng
cảnh giác!